Saint-Exupéry – vòm trời xanh vô tận
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Vùng trời nào đó anh đã bay qua
Chỉ còn lại đây những sáng bao la
Người tình rồi quên
Bạn bè rồi xa
Ôi tháng năm
Những dấu chân người cũng bụi mờ.
TRỊNH CÔNG SƠN
Vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh
Saint-Exupéry (1900-1944), trên khắp nước Pháp, tên tuổi và sự nghiệp
nhà văn lại được nhắc nhở. Người dân Pháp cảm thấy quý hơn tờ giấy bạc
50 quan màu xanh in hình chiếc máy bay Breguet 14 bên cạnh khuôn mặt
ngây thơ của chú bé thiên thần và chân dung nghiêm nghị của người khai
sinh ra chú. Những con tem và bưu thiếp được tạo hình từ những bức tranh
bằng màu nước trong tác phẩm
Hoàng tử bé lại được bày bán và thu hút đông đảo người mua.
Lễ hội kỷ niệm chính thức được tổ chức
tại Lyon, quê hương Saint- Exupéry, từ ngày 17-6-2000 và kết thúc vào
ngày 2-7-2000 với cuộc mít-tinh lớn của ngành không ở Bourg-en-Bresse.
Nhân dịp này, phi trường Lyon được đổi tên thành phi trường Lyon -
Saint-Exupéry.
Khai
phá những đường bay mới
Antoine
Marie Roger de Saint-Exupéry sinh ở Lyon ngày 29-6-1900 trong một gia
đình quý tộc lâu đời. Mồ côi cha từ năm bốn tuổi, sống với người cô ở
Saint-Maurice de Rémens, Antoine là một học sinh chăm chỉ, tỏ ra có năng
khiếu văn chương, hội hoạ và cơ khí. Năm 21 tuổi, Antoine lên đường làm
nghĩa vụ quân sự, phục vụ trong ngành không quân ở Strasbourg.
Đường đời và nghề nghiệp của ông được
vạch ra từ đó. Lúc đầu ông được bổ nhiệm về Rabat, rồi chuyển qua đơn vị
máy bay khu trục số 33 ở Le Bourget. Dù bị một tai nạn khá nặng, ông vẫn
tiếp tục rèn luyện để hoàn thiện tay nghề phi công của mình. Mãn hạn
nghĩa vụ quân sự, năm 1923 ông trở về Paris. Tháng 9-1926, ông gia nhập
Công ty Latécoère, chuyên vận chuyển thư tín bằng đường hàng không từ
Toulouse tới Dakar.
Năm 1929, Hãng Latécoère muốn khuếch
trương hoạt động nên đã cử Saint- Exupéry đi Nam Mỹ để nghiên cứu mở
thêm các đường bay mới. Nhưng rồi cuối cùng Latécoère gặp khó khăn đến
mức phải tuyên bố phá sản. Sau những tháng ngày vất vả, Saint- Exupéry
xin được việc làm tại hãng Air France. Tháng 12-1935, ông thử tìm cách
phá kỷ lục đường bay Paris - Saigon mà Japy đã lập trước đó, nhưng giữa
đường phải đáp khẩn cấp xuống sa mạc cách Cairo 200 km. Đây là tai nạn
máy bay thứ tư mà ông gặp phải. Trong
Cõi người ta, ông đã kể lại
chuyến du hành này: ông và người thợ máy André Prévot bị lạc phải đi bộ
năm ngày trên cát nóng, suýt chết vì đói khát và kiệt sức. Trong tình
cảnh đó, ông viết, họ nhìn thấy một « sinh vật » hiện ra với tư cách
Con-Người viết hoa, đó là một người Ả Rập du cư đã đến cứu họ.
Khi cuộc nội chiến Tây Ban Nha bùng nổ,
Saint- Exupéry tình nguyện đến Madrid và Carabacel làm phóng sự cho hai
tờ báo L’Intransigeant và
France-Soir. Trở lại nghề phi
công năm 1938, ông thai nghén một dự án nối liền đường bay New York -
Terre de Feu (Vùng đất lửa), một quần đảo ở Nam Mỹ, gần Chile và
Argentina. Thêm một tai nạn máy bay khiến ông bị thương nặng phải dưỡng
bệnh nhiều tháng ở New York. Ít lâu sau ông lại bị động viên trở thành
phi công quân sự. Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông phục vụ
trong hàng ngũ những người yêu nước đang tìm cách giải phóng nước Pháp
khỏi ách chiếm đóng của phát xít Đức.
Trong một chuyến bay trinh sát trên
vùng trời Grenoble - Annecy vào ngày 31-7-1944, cất cánh từ sân bay
Borge trên đảo Corse lúc 8g30, lẽ ra Thiếu tá Saint-Exupéry phải trở về
vào lúc 12g30, nhưng đến quá trưa thì đài rađa ở Corse không còn liên
lạc với ông được nữa. Máy bay ông chỉ còn xăng đủ cho một giờ bay. Và
ông đã bay vào khoảng không gian vĩnh cửu của mình. Chiếc máy bay
Lightning P.38 mà ông điều khiển đã rơi xuống vùng biển Địa Trung Hải
chỉ hai tháng trước khi Paris được giải phóng.
Bầu
trời và những con người trên mặt đất
Năm 1925, Saint- Exupéry đưa cho nhà
văn Jean Prévost truyện ngắn Cuộc
vượt ngục của Jacques Bernis,
viết về thế giới của những người lính không quân, mà ông vừa sáng
tác. Truyện ngắn này ngay sau đó được công bố trên tạp chí
La Navire d’Argent với lời
nhận xét của Jean Prévost: “Với một người mới khởi đầu nghề văn như
Saint-Exupéry, sức mạnh nghệ thuật và chân lý đời sống trong tác phẩm
quả đã làm tôi kinh ngạc”.
Trong thời gian công tác ở miền Tây
Sahara, Saint-Exupéry viết cuốn sách đầu tiên của đời mình:
Chuyến thư miền Nam (Courrier
Sud), xuất bản năm 1929. Nhà văn miêu tả đường bay trên sa mạc
Sahara: máy bay phải vượt qua 2.000 km, bị thiêu đốt bởi những cơn gió
nóng, có khi buộc phải bay xuống sát mặt đất bỏng lửa và có thể bị những
tay súng của các bộ lạc bắn trúng. Đối với những người phi công trên
tuyến bay này, sống là đối diện với cái chết, là tự mình dấn thân vào
một cuộc hành trình để tìm kiếm những khoảng không gian mới xa hơn và
cao hơn.
Hai năm sau, cuốn tiểu thuyết
Bay đêm (Vol
de nuit, 1931) được xuất bản ở Paris với lời đề tựa của André Gide.
Là giám đốc cơ quan hàng không thư tín ở Argentina từ năm 1929,
Saint-Exupéry đã tái hiện cuộc sống của một đội bay với người chỉ huy
tên là Rivière, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Qua ngòi bút của nhà
văn, Rivière muốn chứng minh với mọi người rằng máy bay là phương tiện
vận tải thư tín nhanh nhất thời đó, với điều kiện các phi công phải thực
hiện những chuyến bay đêm, dù điều này lúc bấy giờ cực kỳ nguy hiểm.
Rivière huấn luyện cho thuộc cấp của mình không biết sợ cái chết, chấp
nhận những rủi ro của nghề nghiệp mà họ đã chọn lựa, và trung thành với
sứ mệnh được giao phó. Họ phải hành động để làm rạng danh một điều gì đó
còn cao hơn cả mạng sống con người. Đối với họ, thư tín là thiêng liêng,
cần phải đến tay người nhận hằng ngày và đúng giờ đã định. Đó là trách
nhiệm và cũng là lẽ sống của Rivière và đồng đội. Mặc dù chịu một tổn
thất nghiêm trọng là cả một phi hành đoàn đã hy sinh, Rivière vẫn tiếp
tục ra lệnh xuất phát để sự nghiệp những chuyến bay đêm không bị gián
đoạn một ngày nào.
Tám năm sau khi cuốn
Bay đêm được giải thưởng
Fémina, Saint-Exupéry đạt đến đỉnh cao danh vọng với việc Viện Hàn lâm
Pháp trao giải thưởng lớn về tiểu thuyết năm 1939 cho cuốn
Terre des hommes. Bạn đọc
Việt Nam đã quen thuộc với tác phẩm này qua các bản dịch khác nhau:
Giá trị con người (Bùi Xuân
Bào và Hồ Sĩ Khuê), Cõi người ta
(Bùi Giáng), Quê xứ con người
(Nguyễn Thành Long). Cuốn sách này được thể hiện dưới hình thức những
thiên ký sự đan kết với những trầm tư mang ý nghĩa triết lý và đạo đức.
Đối với người phi công đi khai phá vùng
trời trong những chuyến bay cô đơn, mỗi rặng núi, mỗi thung lũng, mỗi
ngôi nhà với ánh đèn đỏ lửa đều là bạn đồng hành. Người phi công tự hào
về trách nhiệm vận chuyển thư tín bởi vì trong những thời điểm nhất
định, thư tín đã trở thành trung tâm các mối quan hệ của con người.
Theo Saint-Exupéry, máy bay không chỉ
là một công cụ sử dụng như nông dân sử dụng cái cày, nó còn là một
phương tiện tư duy và phân tích để đi sâu vào thế giới của con người.
Thật tuyệt vời là nhờ máy bay mà người ta khám phá kỹ hơn về Trái đất và
hiểu được rằng Trái đất là nơi cư trú đích thực của chính mình.
Trong chương cuối của cuốn sách,
Saint-Exupéry đã trình bày những nguyên tắc luân lý làm nền tảng cho chủ
nghĩa nhân văn của ông. Theo ông, chân lý duy nhất mà tinh thần phải
thừa nhận là chân lý mà con người mang trong lòng nó. Chân lý ấy tự
khẳng định và thể hiện thông qua hành động của những cá nhân biết liên
kết lại vì một khát vọng, một niềm tin, nghĩa là một cái gì cao hơn
chính họ : « Chúng tôi liên kết với những người anh em của mình vì một
mục đích chung ở ngoài chúng tôi, và nhờ đó chúng tôi mới sống được.
Kinh nghiệm dạy cho chúng tôi rằng thương yêu nhau không phải là người
này ngồi nhìn người kia mà là cùng nhìn về một hướng ».
Cõi người ta là một
tác phẩm mà bút pháp thuộc về một nhà thơ, một áng văn xuôi mang nhiệt
hứng tư tưởng và vẻ đẹp cổ điển. “Đó là một trong những tác phẩm tuyệt
diệu nhất đã xuất hiện đúng lúc để soi sáng ý nghĩa của thân phận con
người trong thế giới hiện đại”, như Viện Hàn lâm Pháp đã đánh giá.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng
nổ, ngòi bút Saint-Exupéry lại càng có điều kiện tiếp tục ngợi ca những
phẩm chất tuyệt vời của người phi công là chủ nghĩa anh hùng và tinh
thần đoàn kết. Trong cuốn Phi
công thời chiến (Pilote de
guerre, 1942), xen lẫn với những đoạn độc thoại nội tâm là những
trang văn xuôi tư liệu miêu tả các tình huống gần như tuyệt vọng mà
người phi công rơi vào. Theo tác giả kể, năm 1940, trong một mệnh lệnh
vội vã và thiếu sáng suốt, cấp chỉ huy đã giao cho ông một nhiệm vụ vô
cùng nguy hiểm. Ông bay bên trên cánh đồng đầy những người dân thảm
thương và hoảng loạn đang trốn chạy chiến tranh, bỏ lại đằng sau những
làng mạc hoang vắng. Tất cả những chiếc đồng hồ chết máy ở các giáo
đường, nhà ga và các căn nhà trống trải như là biểu tượng của một thời
gian và không gian ngưng đọng. Trong tình huống khủng khiếp đó, trong
tiếng ồn của động cơ, trong cái giá lạnh làm đông cứng cả máy móc lẫn cơ
thể con người, người phi công thả mình theo dòng kỷ niệm để tìm lại thời
thơ ấu và trốn vào đó mà quên đi giờ phút hiện tại. Chiếc máy bay dường
như đứng im, nó trôi theo sự chuyển động của trái đất. Ngay lúc đó, bỗng
nhiên xuất hiện những chiếc máy bay khu trục của Đức đuổi theo. Người
phi công giật mình quay về với thực tại, chỉ một phút xao lãng hay chậm
trễ thôi là anh không còn cơ hội sống sót.
Bốn năm sau khi Saint-Exupéry hy sinh,
Thành trì (Citadelle,
1948) – tác phẩm dài hơi nhất của ông – mới được xuất bản. Cuốn di cảo
này tập hợp những ghi chép được tìm thấy trong những trang giấy tờ ông
để lại, qua đó người đọc có thể tiếp cận những kinh nghiệm mà nhà văn đã
tích luỹ được trên đường đời. Có cảm giác tác phẩm còn dang dở này đã
được viết như một thứ nhật ký riêng tư nhằm tổng kết đời mình, trong đó
tác giả bộc lộ những ý tưởng liên quan đến những vấn đề đạo đức thường
xuyên ám ảnh ông: mối quan hệ của con người với tha nhân, với xã hội,
với chính mình và với Thượng đế.
Cùng với Albert Camus và Michel
Tournier, Saint-Exupéry là một trong ba tác gia hiện đại được đọc nhiều
nhất trong nhà trường phổ thông Pháp hiện nay. Các nhà nghiên cứu văn
học Pháp đều nhất trí thừa nhận Saint-Exupéry là một trong những gương
mặt đẹp nhất mà nước Pháp có được từ đầu thế kỷ XX đến nay. Và nói theo
A. Maurois, ông « đã truyền tất cả tình yêu và lòng kính trọng của mình
đến cho con người ».
Tình
yêu như một ân sủng
Trong năm kỷ niệm này, bên cạnh những
tác phẩm và Sổ tay (Carnets)
của Saint-Exupéry được tái bản với số lượng lớn, nhiều cuốn sách liên
quan đến cuộc đời ông cũng được cho ra mắt. Đáng chú ý nhất là việc Nhà
xuất bản Plon vừa ấn hành cuốn
Hồi ký hoa hồng (Mémoires de
la rose) của Consuelo de Saint-Exupéry, vợ của nhà văn.
Trong tiểu sử của Saint- Exupéry, người
ta chỉ biết rằng năm 1931 ông kết hôn với một người đàn bà goá chồng tên
Consuelo Suncin và người này đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc
đời ông, góp phần xây dựng nên sự nghiệp văn chương của ông. Từ khi nhà
văn mất tích, Consuelo giữ kín tất cả bí mật về mối quan hệ tình cảm của
hai người cho đến khi bà từ trần vào năm 1979.
Mới đây, nhà văn Alain Vircondelet,
người từng viết một cuốn tiểu sử của Saint-Exupéry, quyết định thực hiện
một album ảnh và tài liệu về nhà văn. Ông đã kiên trì thuyết phục những
người thừa kế của Consuelo để được phép mở ra những cái rương sắt mà bà
mang đi khỏi New York sau khi chồng mất. Dưới một đáy rương, bên cạnh
những tấm thẻ bay, chiếc áo gilet bảo hiểm của Saint- Exupéry và hàng
trăm tấm ảnh là một cuốn tập 400 trang đánh máy trên giấy pelure. Đó là
cuốn Hồi ký hoa hồng do chính
Consuelo viết bằng tiếng Pháp[i].
Consuelo sinh ở San Salvador, nơi vùng
đất nằm dưới chân một ngọn núi lửa, thời trẻ là một người có tính khí
ngông cuồng và sôi sục đam mê. Trước khi gặp Saint-Exupéry, bà đã có hai
đời chồng. Bà làm quen với ông trong dịp sang Argentina dự hội thảo
tưởng niệm người chồng mới mất – một nhà văn, nhà báo và nhà ngoại giao
người Guatemala, người đã để lại cho bà một tài sản lớn. Ngay trong lần
gặp gỡ đầu tiên ở phi trường, Saint-Exupéry đã mời bà lên buồng lái máy
bay của mình để ngắm những đám mây và mặt trời đang lặn. Khi máy bay cất
cánh, ông nắm lấy bàn tay Consuelo và bảo: “Em ôm hôn tôi đi nhé!”. Ông
còn nói thêm: “Nếu em không hôn tôi thì tôi sẽ đâm máy bay xuống biển và
chúng ta sẽ tan xác”. Consuelo run lên vì giận dữ: “Chồng tôi vừa mất,
cái lối tỏ tình đó không ăn thua gì với tôi đâu!”. Lúc đó bỗng nhiên
Antoine bật khóc: “Chẳng qua vì em thấy tôi xấu xí quá chứ gì!”, đoạn
ông đưa tay tắt máy. Consuelo hoảng hốt, đã để mặc cho ông hôn (!). Tất
cả hành khách ở phía sau không hề biết rằng chiếc máy bay đã chấn động
vì một tình yêu sét đánh (!!!).
Mấy ngày sau Consuelo nhận được một lá
thư dài 40 trang của chàng phi công si tình. Lòng bà rung động. Bà biết
rằng từ đây cuộc đời mình đã thuộc về ông. Đôi tình nhân sống trong một
căn nhà nhỏ ở ngoại thành Buenos-Aires. Consuelo nhốt Saint-Exupéry
trong một căn phòng để ông viết cho xong cuốn
Bay đêm. Chính bà đã đặt tên
cho cuốn sách này. Bà ra một quy định: ông chỉ được phép vào phòng ngủ
nếu mỗi ngày viết được ít nhất từ 5-6 trang bản thảo. Ông chấp nhận trò
chơi này. Ông yêu bà như điên cuồng. Nhưng đó là một cuộc tình đầy sóng
gió.
Ngày 23-4-1931, Antoine và Consuelo tổ
chức đám cưới. Cô dâu mặc đồ đen. Sau ngày cưới, đôi vợ chồng trẻ lại
chơi trò cút bắt trong tình yêu. Họ giận hờn nhau, lừa dối nhau, ly thân
để rồi lại làm lành và say đắm nhau hơn. Một lần vào năm 1938, quá buồn
chán vì Antoine vắng nhà luôn, Consuelo quyết định xuống tàu ở Le Havre
để về Guatemala. Giữa biển khơi, bà nhận được điện tín: “Máy bay bị nạn
ở Guatemala. Saint-Exupéry đang hấp hối”. Bà tức tốc đến bệnh viện và
không thể nhận ra chồng nữa: ông bị 32 vết thương làm gãy xương và khuôn
mặt bị biến dạng. Bà chăm sóc ông ngày đêm, bón cho ông ăn như một đứa
bé. Khi vừa bình phục, ông lại từ giã bà để sang dưỡng bệnh ở New York.
Từ nơi đó ông viết thư cầu xin bà trở về Paris sum họp. Nhưng lúc này
Consuelo đã quá mệt mỏi, bà không còn chịu đựng nổi những ngày dài lo âu
và thắc thỏm vì chờ đợi Antoine. Bà chuyển đến sống trong một khu nhà
của các nghệ sĩ ở Oppède để dồn tâm sức cho hội hoạ và điêu khắc, những
bộ môn nghệ thuật mà bà yêu thích. Về sau này, những kỷ niệm trong tình
yêu của Saint-Exupéry đã gợi cảm hứng cho bà sáng tác những bức tranh và
bức tượng đẹp về ông.
Năm 1943, Antoine khẩn khoản yêu cầu
Consuelo đến New York gặp ông để làm thủ tục ly dị. Rồi chính Antoine
lại cầu xin bà tha thứ. Lần tái hợp này, hai người sống thật hạnh phúc
trong một ngôi nhà ở vùng nông thôn North Port gần New York. Ở đó họ cho
ra đời đứa con duy nhất của mình:
Hoàng tử bé. Chú bé sau này sẽ đặt chân trên khắp trái đất, kể cả
những nơi mà người cha lãng du của chú chưa đến được. Chú cũng đã đến
Việt Nam theo nhịp cầu của những Bùi Giáng, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Thành
Long. Saint-Exupéry đã sáng tạo hình tượng chú bé hoàng tử với một nghệ
thuật tuyệt diệu. Ông đưa cho Consuelo xem những trang bản thảo kèm theo
những bức tranh minh hoạ độc đáo bằng màu nước. Chính bà là nguồn cảm
hứng cho ông xây dựng hình tượng đoá hoa hồng trong tác phẩm. Bạn đọc
hẳn còn nhớ khi hoàng tử bé hiểu vì sao con cáo cầu xin được thuần hoá
thì đồng thời chú cũng nhận ra mình đã được thuần hoá bởi đoá hồng kia.
Cuốn sách của Consuelo được đặt tên
Hồi ký hoa hồng là vì thế.
Họ chia tay nhau ngày
20-4-1943. Những xấp thư từ vừa mới phát hiện sau bao năm bị giấu kín
trong các rương sắt của Consuelo xác nhận rằng hai người vẫn thường
xuyên liên lạc với nhau. Một vài ngày trước khi mất tích, Antoine còn
viết cho vợ: “Consuelo, anh không thể sống mà thiếu những lá thư của em.
Anh cần những lá thư đó như cần bánh mì mỗi ngày”. Lá thư này Consuelo
chỉ nhận được hai tuần sau khi Antoine hy sinh.
Cũng như mọi lần xuất phát, trong
chuyến bay định mệnh ông đã đeo trước ngực mình – như một lá bùa hộ mệnh
– tấm ảnh chụp Consuelo đang say ngủ. Mặt sau tấm ảnh có dòng chữ của
Consuelo: “Đừng bỏ em và hãy giữ mình. Sớm về với em”. Ở cổ tay ông đeo
chiếc vòng bạc mà giám đốc một nhà xuất bản ở Mỹ đã tặng ông nhân dịp
phát hành cuốn Hoàng tử bé,
trên có khắc tên Consuelo. 54 năm sau ngày ông mất tích, vào ngày
7-9-1998, một ngư dân ở vùng biển Marseille đã vớt được chiếc vòng bạc
ấy trong một mẻ lưới của mình[ii].
Paris, tháng 6 năm 2000
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
(Tổng thuật từ các báo
Paris Match ngày
20-4-2000,
Le Figaro Magazine
ngày 21-4-2000 và những sách
viết về Saint-Exupéry).
[i]
Sau khi
Hồi ký hoa hồng được
phát hành trong tháng 6-2000, trên hai tờ báo
La Liberté (Thụy Sĩ)
và Le Figaro (Pháp)
đã có ý kiến cho rằng người chấp bút viết hồi ký này là nhà văn
Thụy Sĩ Denis de Rougemont, một người bạn của Saint-Exupéry, về
sau trở thành tình nhân của Consuelo khi Saint-Exupéry đã mất
tích. Tuy nhiên nhà xuất bản Plon và những người thừa kế của
Consuelo vẫn khẳng định rằng chính Consuelo đã viết nên hồi ký
này, còn Denis de Rougemont chỉ là người góp ý, giúp đỡ sửa chữa
văn bản mà thôi. Đến nay cuốn hồi ký đã bán được hơn 80.000 bản
và nhiều nhà xuất bản nước ngoài đang chuẩn bị in những bản dịch
bằng các thứ tiếng khác nhau (Chú thích tháng 6-2000).
[ii]
Mãi đến năm 2008, một cựu phi công người Đức tên Horst Rippert
mới thú nhận chính mình đã bắn hạ Saint-Exupéry trên vùng trời
Địa Trung Hải. Điều oái oăm là hồi còn trẻ, Rippert từng rất
ngưỡng mộ những tác phẩm của Saint-Exupéry và chính những tác
phẩm đó đã góp phần đưa ông ta đến với nghề phi công (Chú thích
bổ sung tháng 3-2008).
|