Nguyễn Vỹ - Cảm Quan Xã Hội
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Sau nhiều năm gần như bị quên lãng, Nguyễn Vỹ (1912-1971) từng bước trở
lại với đời sống văn học qua hai sự kiện: tiểu thuyết Tuấn, chàng
trai nước Việt được tái bản năm 2006 và hội thảo “Nguyễn Vỹ - cuộc
đời và sự nghiệp” được tổ chức tại quê hương ông ngày 31-10-2017.
Tuấn, chàng trai nước Việt là cuốn tiểu thuyết tư liệu mang tính
chất sử thi thể hiện đường đời và số phận nhân vật trung tâm - một người
con trai nước Việt đi qua bão giông của lịch sử, chứng kiến những thăng
trầm thế sự làm biến đổi xã hội và con người nửa đầu thế kỷ 20. Cuộc hội
thảo về Nguyễn Vỹ, cũng như các hội thảo về Bích Khê, Bùi Giáng trước
đây, đã góp phần chiêu tuyết và định vị cho những danh nhân văn học từng
một thời bị hiểu lầm và phân cực trong đánh giá, tạo thuận lợi cho những
nghiên cứu khách quan, công tâm về sau.
Nguyễn Vỹ cùng với Tế Hanh và Bích Khê là ba nhà thơ Việt Nam quê ở
Quảng Ngãi, xuất hiện trong phong trào Thơ Mới trước 1945, có ba cá tính
sáng tạo và ba phong cách khác nhau. Tế Hanh chân thành, giản dị và gần
với hiện thực quê hương; Bích Khê vượt lên hiện thực, thuần khiết và
uyên áo; còn Nguyễn Vỹ thì mang dáng vẻ hiện đại của nếp sống thị dân.
Tế Hanh và Bích Khê, dù đời văn dài hay ngắn, cũng trọn vẹn với danh
hiệu nhà thơ. Suốt một đời văn bốn thập niên, Nguyễn Vỹ thao bút trên
nhiều thể loại: ông vừa là nhà thơ trữ tình (Tập thơ đầu, Hoang vu),
nhà thơ trào phúng (“Thơ lên ruột”), nhà tiểu thuyết (Đứa con
hoang, Thi sĩ Kỳ Phong, Chiếc bóng, Chiếc áo cưới màu hồng, Người yêu
của Hoàng thượng, Giây bí rợ, Hai thiêng liêng, Mồ hôi nước mắt, Tuấn -
chàng trai nước Việt), nhà báo (Dân Ta, Bông Lúa, Phổ
Thông, Thằng Bờm), nhà chính luận và biên khảo (Kẻ thù là Nhật
Bản, Cái họa Nhật Bản, Hào quang Đức Phật, Đứng trước thảm kịch Pháp
Việt, Những người đàn bà lừng danh trong lịch sử, Văn thi sĩ tiền chiến…).
Ở mỗi lĩnh vực, ông chưa đạt đỉnh cao nhưng đều có tiếng vang và gây ảnh
hưởng. Điều đặc biệt ở ông là sự tìm tòi và thể nghiệm những chủ đề mới,
những thể tài mới, những cách biểu hiện mới.
Bạn đọc ngày nay không dễ dàng tiếp cận toàn bộ sự nghiệp văn học, báo
chí phong phú, đa dạng và phức tạp của Nguyễn Vỹ. Trong sự nghiệp đó, có
lẽ thơ là nơi lưu giữ rõ nhất tâm hồn và tính cách của ông mà việc sưu
tập và tái bản hiện nay tương đối thuận lợi. Tác phẩm Nguyễn Vỹ - Thơ
(NXB Hội Nhà văn, 2020) là
kết quả của nỗ lực mới nhất nhằm từng bước phục hồi nguyên trạng và đầy
đủ di sản thi ca của tác giả.
Như một cơ duyên, mở đầu cuốn sách là Tập thơ đầu (Premières
Poésies) do nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm được trong Thư viện
Quốc gia Hà Nội cách đây hai năm và bản dịch do nhà giáo, nhà văn Phạm
Toàn tức Châu Diên thực hiện không lâu trước ngày từ trần. Làm thơ tiếng
Pháp ở độ tuổi đôi mươi, Nguyễn Vỹ cho thấy con đường tìm tòi và thể
nghiệm nghệ thuật để trang trải tâm tình của một con người xã hội. Những
bài thơ tiếng Pháp và tiếng Việt đầu tay này chủ yếu giới thiệu lối thơ
12 chân alexandrin mà ông ưa chuộng, nhưng cũng áp dụng những thể thơ
khác: ba chữ, năm chữ, sáu chữ, thất ngôn bát cú, song thất lục bát, thơ
văn xuôi. Sự xuất hiện mà Hoài Thanh chế giễu là “chiêng, trống xập
xoèng, inh cả tai” có lẽ là do cung cách quảng bá trên báo chí lúc đó,
chứ cứ nhìn trên hình thức văn bản thì khó nói Nguyễn Vỹ chỉ là “tiền
phong” hay “lập dị”. Làm thơ trong bầu khí quyển lãng mạn của Thơ Mới,
thật dễ hiểu khi Nguyễn Vỹ gửi gắm hồn mình qua hình ảnh:
Mắt đẫm lệ, chàng cô
đơn đáng thương
Tới nhìn cảnh đó vào một buổi chiều đang tắt,
Khóc thương cho một Lý tưởng đã chết trên trái đất này Hoặc một kẻ mộng mơ người đầy thương tích
đang vừa khóc vừa bốc bay lên trời cao.
(Những đêm
mất ngủ IV,
Phạm Toàn dịch)
Cũng
từ rất sớm, thơ Nguyễn Vỹ đã muốn gắn cá nhân với tha nhân để có một sự
hiệp thông trong xã hội. Trong những bài thơ thời trẻ đã xuất hiện hình
ảnh “những người hành khất”, “những nấm mộ sâu”, “những góa phụ mang
khăn trắng”, “những quan tài phủ kín hoa sen”, “nhà chùa tràn ngập mùi
khói hương”. Và chen lẫn vào đó là tiếng gọi nhắc người làm thơ như một
mặc khải, một sứ điệp về sứ mệnh của thơ ca:
Đôi khi, tôi nằm thức giấc vào những đêm đông dài, tai lắng nghe những
tiếng động ban đêm, có tiếng ai đang gọi mình. Một tiếng gọi xa xăm cứ
gọi tôi hoài. Có khi đó là trong căn phòng tường và trần có trang hoàng
và có đèn điện sáng, có khi đó là trong gian nhà quê vách đất tồi tàn
vào những đêm thâu rét mướt, và tôi ngồi đó năm đêm thức liền, lắng
nghe, mơ màng.
(Buồn vô cớ,
Phạm Toàn dịch)
Từ
đây về sau, thơ Nguyễn Vỹ vẫn là sự hòa trộn của lãng mạn, hiện thực,
siêu thực và huyền ảo; đồng thời là sự hòa trộn của tinh thần xã hội với
những thể nghiệm nghệ thuật.
28 năm sau Tập
thơ đầu Nguyễn Vỹ mới xuất bản tập thứ hai: Hoang vu, tập hợp
50 bài thơ đủ các thể thơ (hai chữ, ba chữ, bốn chữ, năm chữ, sáu chữ,
bảy chữ, tám chữ, thất ngôn bát cú, lục bát, song thất lục bát, hợp thể,
tự do) và đủ các đề tài (thiếu nhi, tình yêu, chiến tranh, lịch sử, nhà
tù, tôn giáo, ác mộng…). Hình như nhà thơ quan niệm rằng những gì xuất
hiện trong lịch sử thơ ca thì mình đều có thể thể nghiệm và thao bút.
Thật là một nghịch lý, cái hoàn cảnh tưởng như khắc nghiệt và trói buộc
văn nghệ sĩ, lại cũng là hoàn cảnh dung hợp tất cả khát vọng thể hiện
bản ngã của họ.
Với những bài thơ Sương rơi,
Hoàng hôn,
Mưa rào, Tiếng chuông
chùa, Nguyễn Vỹ được ghi nhận như người khởi đầu của thơ thị giác
(visual poetry) ở Việt Nam. Trên thế giới, thơ thị giác từng là cuộc
chơi say mê của G. Apollinaire, A. del Valle, G. de Torre… Sau Nguyễn Vỹ
và Tao Đàn Bạch Nga, lối thơ này tìm thấy những thể nghiệm ở Lê Đạt,
Diễm Châu, Dương Tường… Lý thuyết trò chơi giúp ta lý giải khách quan
hơn ý nghĩa của thơ thị giác và cho thấy những tìm tòi từ rất sớm của
Nguyễn Vỹ không phải đơn thuần là biểu hiện của chủ nghĩa hình thức
trong văn học.
Trong phê bình văn học có phần cởi mở hiện nay, xuất hiện những ý kiến
tán dương thơ thị giác của Nguyễn Vỹ. Dù sao, cũng dễ thấy rằng số lượng
bài thơ dạng này của tác giả đếm không quá mười ngón tay và sự thể
nghiệm này, cũng như thể nghiệm thơ 12 chân alexandrin, đã không thành
một niềm say mê lâu dài của nhà thơ. Trong lời “Gửi một người bạn” in ở
đầu tập Hoang vu, Nguyễn Vỹ gián tiếp cho biết rằng ông không
muốn “tô điểm thơ như một đồ chơi, một xa xí phẩm”, không muốn “thơ như
món nữ trang, bằng ngọc thạch thật hay giả, mà mỹ nhân đeo duyên dáng
trên tay và trên ngực”.
Ảnh hưởng của lối cảm thụ ấn tượng khi Hoài Thanh tuyên dương bài Gởi
Trương Tửu như một kiệt tác dễ khiến người đọc nhìn nhận đời thơ
Nguyễn Vỹ chỉ qua lăng kính của bài thơ độc đáo phô diễn một tâm tình
bộc trực và khí vị kẻ sĩ vừa tự ti vừa tự thị đó. Ngôn ngữ trần trụi mà
góc cạnh của bài thơ dễ che mờ một khía cạnh khác của tâm hồn Nguyễn Vỹ:
kẻ ôm mộng vá trời “làm cho bốn mươi thế kỷ xưa/ hất mồ nhỏm dậy cười
say sưa”.
Trong những năm 1950, cùng với những trải nghiệm tù tội trong các chế độ
nhà lao (thực dân Pháp, phát xít Nhật, độc tài họ Ngô) và những gian nan
trong nghề báo (những tờ báo do ông chủ trương hay cộng tác - Le
Cygne, Tổ Quốc, Dân Chủ, Dân Ta - lần lượt bị đình bản),
Nguyễn Vỹ nhìn thế sự với những chiêm nghiệm khác trước. Ông thao thức
về những tàn phá của chiến tranh và nỗi cùng khổ của dân Việt:
Non nước điêu linh oán hận trường
Quốc hồn vang dậy tiếng thê
lương
Bao nhiêu mồ mả không hương
khói,
Vọng tiếng u hoài của cố hương!
(Gởi cô Bích Tiên - Hà Nội)
Ở Sài
Gòn, tiếng thơ của ông hướng về những phận người “không cửa nhà, không
một chiếc giường rơm”, “ngày ngồi xin góc chợ khách đi qua”, “nằm chèo
queo, mình mẩy ốm giơ xương”, “người run rẩy như lá cây run rẩy”. Ở đây
thay cho giọng kiêu bạc là giọng thơ u hoài mà cay đắng:
Đêm nay lạnh ta ngồi bên khóm trúc,
Nhìn lên trời mờ mịt mấy ngôi
sao.
Gió mai mỉa cả bầu trời ô nhục,
Bởi kiếp người mang
hận suốt đêm thâu!
(Sài Gòn đêm khuya)
Không
còn say sưa với những tìm tòi cầu kỳ, thơ Nguyễn Vỹ trong thành phố thời
chiến tranh Việt Pháp trở về với giọng điệu chân phác mà vẫn truyền được
lòng thương cảm và tình nhân ái. Tâm hồn ưu thời mẫn thế của ông ngập
tràn cảm xúc về mùa xuân đau thương của dân tộc:
Xuân muôn màu ngào ngạt nở muôn hoa
Là mạch máu chan hòa trong mạch
đất!
Mỗi nhánh lá, một hồn thiêng
phảng phất,
Mỗi tim hoa, nước mắt đọng thành
sương.
(Tiếng súng đêm xuân)
Trong cảnh giới tha ma buồn não,
Lẫn tiệc vui huyên náo tưng
bừng.
Tôi đi mỗi bước mỗi ngừng,
Nhìn trông non
nước, lòng buồn vô biên!
(Xuân thông cảm)
Mặc
dù hai nhà thơ thuộc hai thế hệ và hai bối cảnh xã hội cách xa nhau, đi
theo hai con đường nghệ thuật khác nhau, Nguyễn Vỹ và Nguyễn Duy gợi cho
ta thấy chỗ gặp nhau của họ: bài Sài Gòn đêm khuya ở trên và bài
Thơ tặng người ăn mày của Nguyễn Duy; bài Thành Thái ở
dưới và bài Tưởng niệm viết về vua Duy Tân:
Vua không ham muốn ở ngai vàng
Trong lúc muôn dân oán hận tràn
Vò võ năm canh người với bóng,
Đau lòng nước mất, cửa nhà tan.
[…]
Ngài sống hẩm hiu cảnh khốn
cùng.
Một căn nhà mướn, phố Quang
Trung
Cửa nhà rách nát, người đau yếu,
Giữa xóm dân nghèo một phế cung!
(Nguyễn Vỹ: Thành Thái)
Tấm thân phiêu dạt quê người
(Nguyễn
Duy: Tưởng niệm)
Hai
ông vua anh kiệt chống Pháp trước sau đều trở về cố hương: vua cha với
thân hình “da bọc xương, áo quần mạng vá, tóc pha sương”; vua con chỉ
còn lại một “nắm xương lưu đày”!
Đọc
thơ Nguyễn Vỹ những năm 1950, không còn thấy cái tôi kiêu bạc nhưng vẫn
hiện hữu một cá tính kiêu hãnh và ngạo nghễ. Thiết nghĩ, điều đáng
ngưỡng mộ ở Nguyễn Vỹ, cả con người xã hội và con người nghệ sĩ, chính
là đây:
Đừng nhử tôi ngựa, xe, tàn, võng, lọng.
Ai công hầu khanh tướng, mặc ai
ai.
Đừng bắt tôi mang hia, choàng áo
rộng,
Và khom lưng lạy các chúa trên
ngai!
[….]
Đừng bảo tôi hát những lời ca
ngợi
Các tượng thần chói lọi ánh tà
huy.
(Cảm ơn Ngài)
Bài
thơ ấy viết năm 1953. Phải hơn một phần tư thế kỷ sau, Nguyễn Đình Thi
mới nhận ra: “Em nhìn xem bên kia/ Những pho tượng đổ không kịp dọn/
Bầy quạ kêu hung hãn” (Vào mùa thu).
Hẳn
không phải ngẫu nhiên khi Nguyễn Vỹ bộc lộ quan niệm của mình về hình
ảnh và sứ mạng của nhà thơ trong bài “Gởi một người bạn”:
“Thi sĩ chẳng phải gì khác hơn là một tội danh chung thân của thời đại.
Mỗi bước hắn lê trên đường đời đều mang dấu vết một hành trình thống
hận. Hắn nghe quen tiếng xích sắt kêu rổn rảng bên chân. Những kẻ bị đày
đọa phải đắp Vạn Lý Trường Thành, xây những Kim Tự Tháp, thật không có
gì đáng hãnh diện. Mỗi thế kỷ có một Vạn Lý Trường Thành, mỗi thời đại
một Kim Tự Tháp. Thi sĩ là một kẻ khổ sai trong quần chúng lam lũ đang
đẩy xe đá. Hắn phải góp phần xâu huyết lệ với thế hệ những người hy
sinh.
“Rồi hắn cũng sẽ
gục ngã xuống dưới cái nhìn câm lặng của Tượng đá Nhân sư”.
Có lẽ
lời tự bạch này hiện đại hơn tất cả những bài thơ hiện đại và cách tân
của Nguyễn Vỹ. Ông đã không chọn đi đến cùng với thơ ca, một thơ ca
thuần khiết và tinh huyết. Số kiếp của ông là số kiếp của một người trí
thức hành động, lăn lộn với đời sống, đem kiến văn và tài trí của mình
phụng sự xã hội, phụng sự văn hóa.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Lời đầu sách Nguyễn Vỹ - Thơ,
NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2020.
|