Trả lại cho thiên
Truyện ngắn
Hồ Anh Thái
Anh kể, ngõ phố nhà anh rục rịch đón
tết, chăng đèn kết hoa đủ kiểu. Một cái ngõ dài vài trăm mét, cờ đỏ sao
vàng treo bên trên, bên dưới giăng một hàng dài cả trăm cái đèn lồng đỏ.
Đèn lồng đỏ. Hỏi một cụ sao lại treo đèn lồng đỏ, cụ bảo treo thế cho nó
đẹp, cho nó khí thế, cho nó tưng bừng. Lại hỏi một cụ đứng bên cạnh, cụ
có biết cái đèn lồng đỏ nó là cái gì không. Chịu, thấy nó rực rỡ thì
treo vậy thôi. Thưa với các cụ, nó là hình quả thuốc phiện.
Một cụ gật gù ờ ờ nhỉ, lại cứ nghĩ nó là
truyền thống dân tộc.
Vâng thưa cụ, truyền thống dân tộc thật,
nhưng nó là dân tộc Trung Hoa. Ngày xưa đèn lồng hình quả thuốc phiện
này treo trong các vương phủ, các hành cung, để tăng kích thích khoái
lạc cho vua chúa. Treo nó trên những phố đèn đỏ nhà chứa cũng là nhằm
mục đích khoái lạc ấy. Không nói với các cụ, nhưng anh nghĩ thêm, bây
giờ thì đến cả chùa chiền cũng treo đèn lồng đỏ, lễ hội người Việt cũng
đèn lồng đỏ, mít tinh hội nghị cũng đèn lồng đỏ. Chẳng biết còn có sự
kiện gì của sở Văn hóa cũng treo đèn lồng đỏ hay không.
Chuyện ấy anh viết lại trên facebook cá
nhân. Tôi đọc, vừa đọc vừa như muốn ơ a lên, kiểu ơ a nhận ra người quen
cũ.
Hơn hai chục năm trước, tôi đến thỉnh
giảng ở một đại học bên bờ Tây nước Mỹ thì anh đang là nghiên cứu sinh ở
đấy. Tôi giảng về văn hóa phương Đông. Anh thì đang nghiên cứu về ảnh
hưởng của văn hóa Trung Hoa. Chuyện trò qua lại nhiều lần, anh đưa ra
một nhận định đúng kiểu nhà nghiên cứu: trong khoa học, sự nhân danh
huyết thống là không đáng tin cậy. Ví dụ, một người cháu bất kỳ của
Victor Hugo thề thốt rằng tôi là cháu của đại văn hào, chính vì thế tôi
hãy tin những điều tôi phát ngôn về tư tưởng trong tác phẩm của ông.
Không, cháu chắt, thậm chí là con đẻ đi nữa, nếu không có chuyên môn văn
chương thì mọi phát ngôn của họ đều chỉ là cảm tính, không được xem là
luận điểm đáng tin cậy.
Trong khoa học, anh nói tiếp, sự nhân
danh quốc tịch cũng không đáng tin cậy. Thì đấy một người nước ngoài hỏi
một cụ Việt Nam về cái đèn lồng đỏ, rồi người nước ngoài ấy bèn tuyên
truyền rằng đã hỏi một người Việt Nam và được khẳng định rằng treo đèn
lồng đỏ là tập quán dân tộc từ nghìn xưa. Sai khủng khiếp. Ví dụ nữa,
một người Ấn Độ nhân danh mình có quốc tịch Ấn Độ và ông cha nghìn đời
của mình cũng Ấn Độ, nhưng không thể trả lời đúng câu hỏi vì sao sau khi
hỏa táng rải tro cốt xuống sông Hằng thì người ta sẽ bất tử. Hãy hỏi bất
cứ kỹ sư bác sĩ Ấn Độ nào tại sao lại gọi là Sati cái tập tục người vợ
phải lên giàn hỏa táng để bị thiêu cùng người chồng vừa chết, chắc chắn
cũng hiếm người trả lời được. Ấy thế, một người Việt nghiên cứu Ấn Độ
học như anh, anh đưa tay chỉ vào tôi, lại có thể lý giải một cách thuyết
phục. Vậy người ta tin vào nhà nghiên cứu chứ không hẳn đã tin vào người
dân bản địa thiếu phương pháp và chỉ biết dựa vào trí nhớ là cái thứ rất
dễ phản chủ.
Vậy chân lý không đứng về phe huyết
thống và phe quốc tịch.
*
*
*
Anh phát triển tiếp luận điểm của mình
bằng cách quay về ảnh hưởng của Trung Hoa là đề tài anh đang theo đuổi.
Người Việt, anh bảo, rất vừa miệng với
ẩm thực Trung Hoa. Đi công tác dăm bảy ngày sang Âu - Mỹ, chỉ vài ba
ngày là đã nhớ cơm, lúc ấy mà thấy một cái quán ăn Tàu thì mắt sáng quắc
nước bọt tứa ra ừng ực. Đến nước nào cũng phải đi tìm quán ăn Tàu cái
đã. Cả một nền ẩm thực ảnh hưởng Trung Hoa chứ không phải chỉ có một món
thịt kho Tàu.
Ăn thì thế, đến mặc, trang phục người
Việt dù Âu Tây cũng có nét Tàu. Đến cải tiến cái áo dài váy dài trông
cũng lai cái áo xường xám. Phục sức kiểu gì cũng thiên về đóng hơn là
mở.
Đến cái ở, nhà cửa xây lấy thì cũng chọn
đất chọn hướng theo kiểu địa lý Tàu, thờ thổ công thổ địa như Tàu, trang
trí trán nhà rầm mè rui cột cũng kiểu Tàu.
Cứ bảo xứ ta ở trên bán đảo Trung - Ấn,
nhưng ảnh hưởng Ấn chỉ còn rất yếu ớt èo uột, chắc chắn là chất Ấn ấy
chỉ đậm đặc ở những nước như Lào, Campuchia, hoặc ở những nước Đông Nam
Á khác như Thái Lan, Indonesia, Malaysia. Còn ở Việt
Anh bảo, anh mê hát chèo. Một thứ nghệ
thuật mà ban đầu anh tin là không có gì thuần Việt hơn nữa. Cái cô Thị
Mầu lẳng lơ ấy, tưởng không còn ai ra chất gái quê Việt
Lại nói về trang phục, thời chưa xa,
trang phục sư sãi của ta là bộ nâu đất giản dị gần gũi đất đai núi sông.
Thế rồi ngoảnh đi ngoảnh lại, các thầy chùa nhà ta đã khoác lên người bộ
cánh giống như của Đường Tăng trong phim “Tây du ký”: cái
áo cà sa màu vàng lòe loẹt, chiếc mũ thì giống như cái đèn xoay
dán giấy bóng kính nhiều màu mà trẻ con thường chơi trong dịp Trung Thu.
Hỏi, chắc các thầy bảo thấy nó đẹp thì dùng, chắc chẳng ai quan tâm nó
phát tích từ đâu. Ngay như kinh sách Phật của các thầy, cũng không đọc
thẳng từ tiếng Phạn được mà phải ma ha ba da ga ti theo phiên âm Tàu.
Người Việt ngày nay thì vẫn thích đọc
tiểu thuyết Tàu, thích xem phim Tàu, thích đi du lịch Tàu, thích làm ăn
với Tàu - thích làm kiểu Tàu và cả thích ăn kiểu Tàu.
Món Tàu vừa miệng. Có thể nói gọn lại
với nhau như vậy.
Nhưng. Tuy nhiên. Vậy mà. Hễ ai bảo một
người Việt rằng sản phẩm làm ra của anh ta giống Tàu, thì anh ta sẽ giãy
nảy lên. Ông làm kinh tế rất giống Tàu, ông làm chính trị từ xưa đã rất
giống Tàu, ông làm văn hóa rất giống Tàu… Ai mà nói thế thì sẽ giãy lên
đùng đùng. Cứ như là bị xúc phạm nghiêm trọng lắm. Không chấp nhận.
Không thừa nhận. Không công nhận. Không. Không. Không. Một kẻ theo Mỹ
một kẻ theo Pháp qua thời gian dễ được người Việt đại xá. Nhưng một kẻ
theo Tàu thì nghìn năm không rửa được mặt cho sạch, Trần Ích Tắc đấy, Lê
Chiêu Thống đấy.
Nên hiểu cho anh. Những luận cứ anh nêu
ra sẽ là không khoa học nếu nó xuất phát từ sự kỳ thị. Anh chỉ muốn
chứng minh cho đồng bào của anh hiểu rằng đừng bác bỏ phủ nhận nó mà hãy
thừa nhận một sự thật khách quan. Thừa nhận chỉ có ở một dân tộc bản
lĩnh. Thừa nhận để xua tan ảo tưởng về bản thân. Thừa nhận để làm phép
so sánh, từ đấy mới đủ tỉnh táo để gạn lọc, loại bỏ. Gạn lọc loại bỏ khi
ấy sẽ được đi kèm với xây đắp mới và sáng tạo cái riêng.
Đừng có mù mờ hỗn độn nhập nhằng như
hiện tại. Thích thì thích tất cả những gì của Tàu, làm thì làm ra cái gì
cũng đặc Tàu, nhưng hễ bị ai nói là giống Tàu thì giãy lên như thể bị
xúc phạm. Giữa một nhóm bạn bè, một đứa người Pháp bảo, chủng người Việt
Chúng tôi đang ngồi chuyện trò ở bờ Tây
nước Mỹ. Tôi bảo anh rằng ngay trên đất Mỹ này cũng có những tổ chức
quần chúng bài trừ hàng tiêu dùng của Tàu. Người ta tính rằng hàng tiêu
dùng ở Mỹ có đến tám mươi phần trăm là sản xuất ở Trung Quốc. Tại sao
nhỉ, tại vì một khi con người trên hành tinh này đã trở nên lười biếng,
tự làm lấy mà ăn thì thấy vất vả mệt nhọc đắt đỏ, khi ấy có người làm
sẵn cho đồ rẻ thì chẳng tội gì không dùng. Chung quy chỉ vì tham rẻ và
lười. Người ta cũng tính rằng một người Mỹ sáng ra thức dậy nhờ cái đồng
hồ báo thức Trung Quốc, đánh răng rửa mặt bằng bàn chải và khăn mặt
Trung Quốc. Ăn sáng phải nhờ đến tủ lạnh, lò vi ba, bếp ga và thực phẩm
Trung Quốc. Đi đến công sở bằng xe buýt hoặc tàu điện Trung Quốc. Đến
công sở dùng máy tính Trung Quốc, máy in giấy in mực in, điện thoại đều
Trung Quốc… Cứ thế cho đến khi đêm xuống, thò tay tắt cái đèn ngủ ở đầu
giường cũng là đèn Trung Quốc. Tính đến thế thì mới hiểu cho cái tổ chức
bài trừ kia chỉ thực hiện được bài trừ gần một năm, sau đấy vẫn phải sử
dụng một cái gì đó Made in
Bài trừ là không thể. Kỳ thị là không
thể. Phải chấp nhận một sự thật, từ đó mà biết chọn lọc và loại bỏ, trên
một tinh thần thận trọng và cảnh giác.
*
*
*
Kể về công trình nghiên cứu của anh rồi.
Bây giờ tôi mới kể thêm chút ít về anh.
Ngôi trường ở miền Tây nước Mỹ mà chúng
tôi đang ngụ là một trường đại học tổng hợp, diện tích bằng một cái quận
trong thành phố, trong ấy có hai mươi ba trường nhỏ. Trong ấy có nhà
thờ, có nhà hát, rạp chiếu phim, sân vận động, bể bơi, hàng quán và mấy
tuyến xe buýt. Trong ấy có thư viện một triệu rưỡi cuốn sách, hai ba giờ
sáng vẫn còn sáng đèn. Anh bạn tôi gặp trong thư viện ấy một cô gái gốc
Việt.
Anh đang loanh quanh bên giá sách Đông
Nam Á, trên ấy có vài chục cuốn sách tiếng Việt hiếm hoi nhập từ trong
nước sang. Một cô gái cũng đang đứng ở đấy. Thấy cô cầm lên một cuốn văn
hóa Việt
Cô gái mới cùng gia đình sang Mỹ định cư
gần mười năm. Mẹ cô bán tạp hóa ở một khu chợ Á Đông trong thành phố.
Chuyện trò thế, anh mới biết trong thành phố này có một khu chợ toàn đồ
Á Đông, ở đấy anh có thể mua được một số đồ thiết yếu của người Việt.
Nước mắm, mắm tôm, giò chả, bánh đa nem, cả rau đắng để nấu lẩu mắm và
rau muống tươi non, tất cả đều nhập từ Việt
Đấy là một thông tin thiết thực. Hai
tháng đầu mới sang, anh chưa biết, cho nên toàn phải ăn bánh mì với bơ
sữa. Cái bụng người Việt đã bắt đầu réo gào anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ
canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Hôm ấy chủ nhật, anh lần đầu tiên tìm
đến khu chợ Á Đông. Anh đến quầy tạp hóa của mẹ cô gái trước. Chuyện trò
vui vẻ với bà mẹ. Một lát sau, thấy cô gái đang tíu tít bán hàng giúp
mẹ, anh không muốn phiền cô nên không rủ cô cùng đi xem chợ mà tự mình
lang thang qua các hàng quán khác. Trong khu chợ có dãy hàng quán của
người Nhật, một dãy dài của người Tàu, một dãy người Nam Triều Tiên. Một
dãy quán người Việt, hàng nhập thẳng từ Việt
Anh mua được một ít măng miến mộc nhĩ
nấm hương, vài mớ rau muống. Đến đấy thì vẫn chưa ra chuyện. Chỉ việc
nhặt đồ lên rồi ra tính tiền, chẳng cần nói năng gì cả, không ai biết
mình giọng Bắc hay giọng
Tiếng sét giữa trời xanh. Cánh bán hàng
ở dãy quán ấy đều là người
Người bán hàng, một bà trung niên đang
tươi cười bỗng nghẹn lời mất một lúc. Rồi bà ta bật lên, ủa, dân Bắc kỳ,
dân vi xi mà sao qua đây?
Vi xi là VC, viết tắt chữ Việt Cộng. Tất
nhiên là nếu có cái đĩa CD ấy bà ta cũng không bán. Anh bạn nghe nói
năng thế là hiểu rồi, anh bỏ sang quầy bên cạnh. Chưa kịp cất tiếng hỏi
thì bà trung niên kia đã gọi với sang nhắc chủ quán bên này: Thằng đó là
cộng sản đó, thằng đó là vi xi đó.
Chủ quán bên cạnh ngơ ngác hỏi lại,
thằng nào là vi xi? Bà trung niên kia vẫn chưa hết hờn căm: Cái thằng
đen mặt đó, thằng đen đó.
Anh đang tức vì sự kỳ thị, giờ lại thêm
cái tức vì sự xúc phạm cá nhân. Trên mặt anh có một cái bớt màu đen, như
một con tem màu đen dán trên má phải. Từ bé đi học anh đã mặc cảm vì cái
bớt, đã bị bạn bè trêu chọc, chúng đã gọi anh là thằng đen. Cái biệt
danh thằng đen ấy chỉ từ khi lớn lên, sống trong môi trường sinh viên
rồi công chức, toàn người lớn cả, người ta đều tránh nhắc đến. Người có
văn hóa không ai nhắc đến khiếm khuyết về thân thể của người khác. Bây
giờ đây, đứng giữa khu chợ người Việt nhập cư trên đất Mỹ, cái tên ấy bị
lôi ra. Bất ngờ. Đột ngột. Thình lình.
Thằng đen. Thằng vi xi. Thằng Cộng. Cả
góc chợ xôn xao lên truyền báo cho nhau. Nó đó. Nó đó. Họ chỉ trỏ phát
giác. Những người bán hàng không còn lo bán hàng nữa mà chỉ lo bạn cùng
phường bỏ lỡ mất dịp nhìn thấy một tên Bắc kỳ dám mò sang tận nước Mỹ,
dám đến đây mua đồ.
Anh bạn bỏ về. Không mua bán gì nữa. Đấy
là lần đầu tiên anh đến cái chợ này và cũng là lần cuối cùng. Suốt bốn
năm làm luận văn, anh không bao giờ quay lại chợ nữa. Anh đến các siêu
thị của người Mỹ, chỉ toàn đồ dùng và thực phẩm Âu Mỹ, và anh bắt cái
bụng nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương của anh phải ăn đồ Tây.
Lại những dịp rỗi rãi chuyện trò, tôi
nói với anh rằng nội chiến Mỹ từ năm 1861 đến 1865, nó kết thúc gần một
thế kỷ rưỡi rồi, nhưng kỳ thị Bắc Nam ở người Mỹ vẫn là vi trùng lao mai
phục trong mỗi người. Nước Mỹ cũng đã nỗ lực rất nhiều để xóa bỏ kỳ thị,
mà kết quả vẫn là như vậy. Nỗ lực hòa giải là rất cần, mỗi người cần có
thiện chí hòa giải trong người, nhưng đừng nghĩ cứ nỗ lực là tất thành.
Lại nói thêm, anh đừng băn khoăn vì cái
giọng Bắc nó tố cáo anh. Mới đây một nghiên cứu sinh người Sài Gòn hẳn
hoi, vào cái chợ ấy cũng đã bị phát giác vì cái giọng
Thế vậy. Hễ có ai từ Việt
*
*
*
Tưởng như một lần là cạch mặt, nhưng
cuộc sống có lối đi riêng của nó. Mới đây anh bạn tôi đã quay lại khu
chợ ấy. Sau hơn hai chục năm. Hồi ấy anh là một nghiên cứu sinh. Bây giờ
anh đã là giáo sư tiến sĩ có một chuyên môn đáng trọng. Anh được mời trở
lại ngôi trường ngày ấy để thỉnh giảng một học kỳ ba tháng, gọi là học
kỳ mùa thu, The Fall Quarter. Anh nảy ra cái ý quay lại khu chợ ấy để
mua một vài thứ thực phẩm Việt. Ngày trước suốt bốn năm không cần đoái
hoài gì đến thực phẩm Việt vì chán người Việt ở đấy. Bây giờ thì thấy
chẳng việc gì phải bó tay cấm túc ăn nhịn để dành, cần thì cứ đến chợ.
Xác định trước là sẽ có thể lại bị gọi là thằng đen, thằng Bắc kỳ, thằng
vi xi, thằng Cộng. Ngày trước thấy thế là xúc phạm lắm. Bây giờ đã bao
nhiêu va chạm ở đời, cái đó chẳng còn nghĩa lý gì.
Anh đi khắp chợ, vào hàng quán nào cũng
cố tình hỏi giọng Bắc. Có măng miến không cô? Có xi đi không cô? Có báo
người Việt mới chưa cô? Cô, người Bắc gọi cô với một bà trung tuổi chứ
không gọi dì như người
Chẳng ai phản ứng gì. Vui vẻ mang hàng
ra bán, gói ghém chu đáo cẩn thận. Những bà trung niên ngày trước bây
giờ nếu còn ngồi đây chắc cũng già rồi. Đây có phải là những bà nó đó nó
đó ngày trước hay đã là những người khác? Anh chịu, không nhớ nữa.
Anh sang hiệu tạp hóa của mẹ cô bạn ngày
trước. Bà mẹ hồ hởi khoe ngày ấy cô đã làm xong tiến sĩ, rồi sang miền
Đông làm cho một công ty kinh doanh ở
Trước khi anh rời chợ, bà mẹ bắt anh
nhận mấy món quà tết mang về cho con anh. Hai cái đèn lồng đỏ bằng quả
bưởi, có chữ tiếng Tàu chắc là cung chúc tân xuân. Một tập phong bao màu
đỏ đựng tiền mừng tuổi, Bắc gọi là mừng tuổi chứ
Nếu không thấy bà chủ quán đứng đấy thì
anh đã nhăn mặt. Tết của người Việt mà sao không tự sản xuất được một
cái gì Việt Việt một tí, cứ dễ dãi mua bán và trang trí những thứ này.
Nói là người Việt giống Tàu thì lại giãy nảy lên.
Anh không nỡ từ chối mà phải cười nhận
mấy món quà tết. Trên đường về, anh ghé qua nhà một người bạn ở khoa
Trung Quốc học mà tặng lại tất cả. Cũng nói rất thật với người đồng
nghiệp Trung Quốc rằng đây là món quà mình mới được tặng, và trong lòng
rất thiết tha muốn tặng lại cho lũ trẻ nhà anh ta.
Đi rồi anh lại nghĩ, biết đâu anh bạn
giáo sư người Trung Quốc kia vui thì vui, nhưng anh ấy cũng nghĩ rằng
mình vừa chở củi về rừng, của thiên lại trả cho thiên.
Báo Văn Nghệ, số 6/2020
|