NHÌN LẠI “THƠ TRẺ”
ĐẦU THẾ KỶ XXI
Bùi Công Thuấn
Khoảng thời gian từ 1995 đến 2010 (đỉnh cao là 2005-2006) có môt phong
trào người trẻ làm thơ từ Nam ra Bắc. Phong trào này không thuần nhất về
nội dung, bút pháp và tư duy nghệ thuật nên không thể định vị một trào
lưu nghệ thuật như “Thơ Mới”
trước 1945. Tôi tạm gọi là
“Thơ Trẻ
đầu thế kỷ XXI” (xin gọi tắt
là “Thơ Trẻ”).
Thơ Trẻ là một hiện tượng góp
phần vảo những nỗ lực cách tân thơ Việt Nam từ sau 1975.
LỰC LƯỢNG “THƠ TRẺ”
Nếu lấy năm 2005 làm mốc (là 30 tuổi) để xác định “người làm
Thơ Trẻ ”, thì thế hệ “Thơ
Trẻ ” là thế hệ 7X, 8X. Trong 2 tuyển tập:
26 nhà thơ Việt Nam đương đại
(Nxb Tân Thư, California, 2002) và tuyển tập “Có
jì dùng jì có nấy dùng nấy” tập hợp 47 người làm thơ (Nxb Giấy Vụn,
2007) tuy có nhiều khuôn mặt trẻ (bên cạnh nhiều người lớn tuổi) song
không bao quát đủ phong trào Thơ
Trẻ đầu thế kỷ XXI.
Thực ra, chỉ một vài trong số những
người làm “Thơ Trẻ ” thực sự
có cá tính độc đáo, còn lại là những người “ăn theo” phong trào, họ bắt
chước những người tiên phong.
Xin ghi nhận vài khuôn mặt có tên trên diễn đàn thơ lúc ấy (có
tên cũng chưa hẳn là một cá tính sáng tạo đủ gây dấu ấn): Vương Văn
Quang (1970), Như Huy (1971), Tam Lệ (1971), Nguyễn Hữu Hồng minh
(1972), Văn Cầm Hải (1972), Phan Bá Thọ (1972), Huỳnh Lê Nhật Tấn
(1973), Vương Huy (1974), Nguyễn Vĩnh Tiến (1974), Ly Hoàng Ly (1975),
Khúc Duy (1976), Lý Đợi (1978), Nguyễn Thúy
Hằng (1978), Bùi Chát (1979), Nguyễn Vĩnh Nguyên (1979), Vy Thùy
Linh (1980) Lynh Bacardi (1981),
Nguyệt Phạm (1982), Thanh Xuân, Khương Hà Bùi (1985),
Nguyễn Quán, Vũ Thành Sơn,
Trương Quế Chi (1987)…
Một lưu ý đặc biệt là,
Thơ Trẻ xuất hiện đồng thời,
kế thừa và giao lưu qua lại với thế hệ trước đó, thế hệ 5X, 6X. Những
nhà thơ thuộc thế hệ này đã có nhiều nỗ lực cách tân thơ Việt sau 1975.
Họ có phong cách riêng, có quan niệm nghệ thuật riêng và đã có những
thành tựu. Do sự xuất hiện
đồng loạt của nhiều thế hệ cùng một lúc nên thơ ca Việt Nam đầu thế kỷ
XXI hết sức khởi sắc.
Các nhà thơ hải ngoại cùng thời gây được ảnh hưởng với “Thơ
Trẻ ” trong nước là:
Khế Iêm (1946, Mỹ), Nguyễn Đức
Tùng (Canada), Đỗ Quyên (1955, Canada),
Đỗ Kh. (1955, Pháp),
Thường Quán (1956, Úc),
Trần Tiến Dũng (1958),
Lê Thị Thấm Vân (1961, Mỹ), Đinh Linh (1964, Mỹ)… đó là chưa kể ảnh
hưởng của những nhà thơ lớn tuổi hơn như: Lê Văn Tài, Nguyễn Tôn Hiệt,
Nguyễn Đăng Thường, nhà lý luận Nguyễn Hưng Quốc…
Trong nước, các nhà thơ có ảnh hưởng với “Thơ
Trẻ ” là
Thanh Thảo (1946), Vũ Trọng Quang (làm thơ trước 1975), Mai Văn Phấn
(1955), Trần Quang Quý (1955),
Nguyễn
Quang Thiều (1957)…
Có sự khác biệt rất rõ về tư tưởng,
nghệ thuật và cách thể hiện giữa những người làm “thơ vỉa hè” Sài Gòn
và người làm thơ trẻ Hà Nội. Phan Bá Thọ làm “thơ rác” vì anh cho
rằng Sài Gòn là một “đống rác vô
tận”. Vi Thùy Linh thì “cổ điển” hơn: “nghệ
sĩ là người sáng tạo cái đẹp. Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống nhưng
không phải là bê nguyên cuộc sống. Bây giờ có xu hướng thô ráp, bê
nguyên cuộc sống, thậm chí là những câu chửi bậy…Nghệ thuật là phải sáng
tạo và đưa ra được cái mới. Bản chất cuối cùng là cái đẹp.”
Tôi không đề cập
đến “thơ vỉa hè” Sài Gòn, vì
đó là “rác” chữ. Những ngưởi làm thơ
“rác, thơ dơ, thơ nghĩa địa”
nói rõ họ “không làm thơ”.
Lý Đợi khẳng định:
“Thơ nhiều khi chỉ là chuyện gây hấn, một chút hài hước, một cú sốc nhận
thức, thậm chí là một trò đùa vui nơi bàn nhậu, chẳng kém phần nhảm nhí.”(Talawas
ngày 16.4.2004).
Trái lại, những
người trẻ làm thơ Hà Nội, được học tập bài bản về nghệ thuật, Họ có
những nỗ lực vượt qua thơ chống Mỹ để đem đến cho thơ ca Việt Nam “Cái
Mới”. Ly Hoàng Ly chẳng hạn, cô là con của nhà thơ Hoàng Hưng,
tốt nghiệp đại học Mỹ thuật tại TP. HCM, nhận bằng Thạc sỹ tại Học viện
Nghệ thuật Chicago, Mỹ.
Ly Hoàng Ly có nhiều cuộc triển lãm gây ấn tượng ở Đức (2004, 2009), Hàn
Quốc (2007), Chicago (2012, 2014); Vi Thùy Linh tốt nghiệp
cử nhân Đại học Báo chí năm 2001,
nhà thơ Việt
Nam đầu tiên được mời thực hiện một đêm thơ riêng tại Paris mang tên "Tình
tự Hà Nội". Nguyễn Vĩnh Tiến là
Nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ. Anh
Tốt nghiệp Đại học Kiến trúc Hà Nội năm 1996.
HỒN CỐT CỦA “THƠ TRẺ”
Hồn cốt của “Thơ
Trẻ
”
là “Cái Tôi ” của người làm thơ.
“Thơ
Trẻ
”
là tiếng nói của “Tôi”. Tôi nhìn vào tôi, có khi tôi thấy tôi là con thú
trần truồng; Tôi là con vật giống đực bản năng. Có khi Tôi nhận ra mình
bị vây kín trong bóng tối. Có khi giữa đường giữa chợ, Tôi lảm nhảm như
người tâm thần. Khi Tôi hướng ra bên ngoài, Tôi có thể nhận ra quê
hương, đồng loại khốn khổ mà lên tiếng nói yêu thương; nhận ra nó đang
sống trong thời đại văn hóa rách nát, vô cảm mà bảy tỏ sự bi phẫn. Nó
cũng có thể chỉ nhìn người anh em là địa ngục (“tha
nhân ấy là địa ngục”- J.P.Sartre). Có Cái Tôi vô luân đến tận cùng
vô luân, có Cái Tôi vì sự bức xúc của hoàn cảnh cá nhân mà lên tiếng
“gây sự”, “gây hấn”, “phản kháng”. Có Cái Tôi bệ rạc chợ búa, có Cái Tôi
lịch lãm đẳng cấp…
Tất cả những biểu hiện ấy của người làm thơ trẻ chỉ là để giành lấy một
chỗ đứng cho mình trong văn chương. Nhiều người sống hai mặt. Khi đăng
bài trên các trang web trong nước, họ tỏ ra hiền lành, biết điều phải
trái, nhưng bài đăng ở các
trang hải ngoại thì giọng điệu của họ trở nên ngược ngạo, vô văn hóa
(được bọc trong vỏ trí thức) một cách hung tợn.
Lynh Bacardi viết trên Talawas:
“ở các website chính thống thì mấy nàng chơi hàng khác (mềm mại, dẻo
dai, chớp mắt đá lông nheo dịu dàng như con mèo nhà hàng xóm của tôi).
Còn ở những website phi chính thống, thì mấy nàng đưa toàn hàng… trắng
(phùng mang trợn mắt, gồng mình như lực sĩ, và sẵn sàng nhảy bổ vào nồi
lẩu đạo đức sôi ùng ục của dân tộc để khám phá tôm mực mà xực trước).
Trương Quế Chi nhận xét: “Tuổi
trẻ luôn có sự hoang mang và những góc tối trong tâm hồn dù trong cuộc
sống, họ là những con người trẻ trung, đầy nhiệt huyết. Họ viết như thế
không có nghĩa là họ cũng sống tối tăm và bi quan như thế. Đơn giản là
họ muốn viết về những gì gần gũi nhất, gắn bó nhất với cái tôi của
mình…”(1)
Xin đọc: (ghi chú: Tôi không trích những bài rác rưởi, nói tục chửi thề,
tác giả nói năng với thái độ vô văn hóa. Bởi, văn chương là sự sáng tạo
cái đẹp, mà căn gốc là cái đẹp của lời, của hình tượng, tư tưởng và nhân
cách.)
Đỗ Trí Vương, Tôi trốn trong bóng tối.
Tôi
trốn sau lưng tôi/
và không thể làm gì
(Khiêu
vũ với chó)
Bóng tối tung hứng tôi trong lòng
Và nhốt tôi trong xà lim chật hẹp
(Với tôi)
Nguyệt Phạm, “một mình lẻ lạc”
Thành phố trên cao
Một
mình tôi lẻ lạc..(Cầu vồng mưa) Khương Hà Bùi, một Cái Tôi “tự
thấy mình hèn dần đều một cách đáng kể”:
Haizz thiệt tình là có
những ngày vác bầu ra đường
nghĩ mà phát ngấy
chứ héo dám chửi thẳng
(Gây
sự 2)
Lynh Bacardi, một Cái Tôi bệ rạc dù đã
được “phục hồi nhân phẩm”:
“…tôi
tru hú vào khoảng không. nuôi loài khuyển dại trong cơ thể. chiếc nịt
ngực bỗng khô cằn xiết cứng từng đốt xương. lằn ranh thế hệ thoái hóa
vùi trong đất. trợn trừng trơ xác đòi trọng đạo tôn sư. những dương vật
nối đuôi nhau ngỏng trường kỳ. tôi 1m6 sau khi
phục hồi nhân phẩm. trí thức
rao bán chứa vừa quả trứng úng. hai túi cao su cân bằng mệnh giá. tôi
trồng chuối ngược bận quần ba ống. chiếc micro buổi mit-ting mọc lông
cương cứng. tôi rách chiếc ống thứ ba. tối nay cần vài cái lỗ để đút. sẽ
trí thức ngày mai. cuốn kinh thánh chảy máu đen đầu giường. lời phúc âm
đi bụi. tôi làm mới bộ não bằng lớp sơn mác chức vị ở chợ trời. cao sang
nát nước…” (Rêu rao đời mình)
Huỳnh Lê Nhật Tấn, Tôi-bản năng một con vật giống đực:
Em lại
ứng phó chõng mông khoe, khoe cái hàng…
rồi
nhìn tôi đắm đuối – mắt ngợ chờ…
Tôi
nóng cả mình ở dưới dương vật cũng dài như em.
Bao
cặp mắt mấy thằng đàn ông nhồm ngó.
Tôi
lầm lỳ thèm nứng muốn chết mồ luôn.
Tiếng
O ó ô cứ huyền (`) muốn đụ bỏ mẹ.
(Cộng hưởng nguyên âm)
Nguyễn Hữu Hồng Minh, một
Cái Tôi vô luân- biến thái.
Hắn muốn làm tình với Nguyễn Thị Thu Huệ -Hắn tàn bạo điều đó
Hắn muốn hiếp Lê Thị Mỹ Ý – Hắn thèm muốn điều đó
Hắn không nứng trước Phan Thị Vàng Anh – Hắn khẳng định điều đó
Hắn yêu Ly Hoàng Ly – Hắn mãi tôn thờ điều đó
Hắn sợ hãi lỗ nẻ của Vi Thùy Linh –Hắn khiếp hãi điều đó
Nhân loại chui ra từ háng –Hắn quả quyết điều đó
Dân tộc Việt là một dân tộc mê lồn – Hắn xác tín điều đó…
(Lỗ Thủng lịch sử)
Nguyễn Thúy Hằng, Cái Tôi hướng nội, cô độc.
“ở San
Francisco, tôi đã mường
tượng mình ngồi đấy, trong một quán cũ nát tôi chờ ai đó sẽ đến và mở
toang cửa tối âm u này, nhưng rồi hắn sẽ đứng ngần ngại một chút vì
ngoài kia cũng không sáng sủa là bao.(Những
thứ xưa kia là tạm bợ)
Tôi
không thể nhấc nổi chân tay và sự lười biếng
khiến tôi bỗng thấy mình hoà nhập với nhiều vât thể đang bất động quanh
đây. Những dây leo đang bám vào hốc đá cũng không lung lay, tôi cũng
thế, cũng dính chặt vào chiếc ghế và dường như, những năm sau này người
ta sẽ tìm thấy sự im lặng của tôi cùng với khối đá cằn cỗi và dây leo
kín mặt kia.
“Tôi
loay hoay trong nhiều chăn ấm, thức dậy, thấy mình cần giết một ai đó,
một cà phê, một cái cống, con ngựa đen, kẻ lạc đường
(Thời hôm nay, khoái cảm, điên rồ hợp lí)
Như Huy, hướng nội, một con vật bất lực: Hắn (5)
“Hắn
là ai? một con vật xã hội? một con vật đạo đức? một con vật ngôn ngữ?
Không, hắn không là ai hết trong số ñó. Thật ra, hắn là một bi kịch ngôn
ngữ - nhìn dưới góc độ cuộc đời hắn đang bị căng trành ra đến mức nghịch
dị giữa hai xung lực, xung lực thứ nhất: hắn – kẻ vô tình sở hữu một
khối lượng khủng khiếp những mảnh ngôn ngữ rời, xung lực thứ hai: hắn –
kẻ bao lâu nay, dẫu nỗ lực đến mấy, cũng không tài nào tự chiết xuất ra
nổi, thậm chí nửa giọt nước bọt giúp dán liền vào nhau hai vẩy chữ lẻ
chứ đừng nói đến việc làm thế nào kiếm được cho đủ hồ dính để
có thể gắn kết lại cả cái đống vĩ đại những mảnh rời ngôn ngữ ấy,
đang đè sụp xuống đời hắn.”
Trần Wũ Khang, một Cái Tôi hoang đàng,
một đứa con lai căng.
“Tôi
thằng con lai căng qua đụng độ văn hóa Champa/ Đại Việt,
Vũ Thành Sơn, như người nói nhảm:’
1.
Bàn tay
phải của tôi mất trí nhớ. Có thể nó đã quá già, cần phải nghỉ hưu. Hoặc
nó có quá nhiều giấc chiêm bao dữ
2.
Vợ tôi thường hay quan trọng hóa những chuyện nhỏ nhặt. Chẳng hạn
nàng nói cần phải diệt trừ kiến, dán, bởi vì chúng làm cho tư duy của
chúng ta không thể liên kết thành một hệ thống hợp lý
3.
Tôi đọc thấy câu này trên một tờ báo: Tự tin hơn với làn da sáng
khoẻ!
4.
Một con ốc sên đi qua cửa. Tôi không biết nó có phải là con ốc
sên trong vườn nhà tôi hay của bà hàng xóm. Ngày hôm qua chúng tôi sang
bên nhà bà chơi, bà than phiền về giá xăng và một vài thứ cần thiết khác
quá đắt đỏ
(Lý
do tôi không uống cà phê sáng nay)
Phan Bá Thọ, cái tôi nhập vai để
phản kháng.
“…
nhưng chúng tôi là nhà văn. ừa, là một lũ những nhà văn việt nam nên
chúng tôi chỉ biết ca ngợi con trâu, cánh cò, cây bông, đồng cỏ… chả
biết tại sao [như thế]”….(việt
nam nó vậy)
Bùi Chát: Cái tôi mặt đối mặt
“Tôi
gặp gỡ những người cộng sản
Những người anh em của chúng tôi
Những người làm chúng tôi mất đi ký ức
Mất đi tiếng nói bản thân
Mất đi những cái thuộc về giá trị
Chúng tôi còn sở hữu duy nhất một điều
Nỗi sợ…”
(Ai?)
Ly Hoàng Ly, một tiếng nói thương yêu
những kiếp khổ:
Những con ngựa đêm hí bạt gió
…Đời này sang đời khác
(Ngựa đêm Bắc Hà)
Văn Cầm Hải, Một tình yêu quê hương, một nỗi buồn thế hệ:
Chiếc nôi lật ngược
THƠ TRẺ VÀ SỰ CÁCH TÂN THƠ VIỆT
So với thơ kháng chiến 1945-1975, “thơ trẻ” có những cách tân đáng kể.
1.Thơ trẻ không còn “phản ánh
hiện thực cách mạng và kháng chiến” mà là
hiện
thực
thông qua cảm thức của Tôi
khi Việt Nam hội nhập toàn cầu hóa. “Cảm
thức của Tôi” được ướp trong đủ mọi thứ tư tưởng phương Tây:
Chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, chủ nghĩa thực dụng,
Nữ quyền luận, Hậu hiện đại
cùng với văn hóa phương Tây…tất cả góp phần tháo tung truyền thống văn
hóa Việt Nam.
(Ghi chú: để chọn một bài thơ trẻ “sạch sẽ”, không dơ, không rác, không
tục tĩu, không nói năng lảm nhảm những chuyện tào lao… làm dẫn chứng
thật khó)
Hoa một loài một bông độc sáng
(Vi Thùy Linh)
Móp đầu
tôi biết nó sẽ ụp xuống tóc
rơi thẳng vào đầu-méo đến buồn
(Nguyễn Thúy Hằng)
2.Thơ trẻ không viết bằng thi pháp truyền thống mà dùng hình thức tự sự,
kiểu thơ
văn xuôi, không vần không nhạc, nhiều bài dùng kiểu ngôn ngữ nói của
người bình dân,
Một bộ phận người làm thơ trẻ dùng các
thủ pháp Hậu hiện đại, chẳng
hạn, dùng cái “tục”, cái “rác”, cái “dơ”, để biến bài thơ thành “rác”
(nghĩa là những cái tạp nhạp, tào lao không có gì đáng đọc); dùng “diễu
nhại” để “giải
thiêng”,”giải trung tâm”,
để “gây hấn”, để “lật
đổ” tạo sự chú ý; dùng các ký hiệu, cách làm méo chữ, không viết
hoa, đưa tên người thật đương thời vào bài thơ; dùng kiều nói năng không
chuẩn mực; dùng hình ảnh, dùng bản tin…để tạo ra sự khác biệt về hình
thức văn bản thơ so với thơ truyền thống (thơ Bùi Chát, Lý Đợi, Khúc
Duy…). Tất cả những “thủ thuật” này đều phi nghệ thuật (nghĩa là người
đọc không tìm đâu thấy “Cái Đẹp”).
“…bùi chát ăn giấy vụn , xác ướp & cả những
cái lồn bỏ đi [tu]
vi
thùy linh ăn mặn nên luôn mồm la làng:
khát [khát, khát quá mẹ ui]
nói
chung họ, thèm từ cái bình dị cho ñến những thứ ghê rùng rợn [chính
ñáng] & ăn uống cũng bô la bố láo bạo tàn, đủ các kiểu loại
có đứa ăn mày dĩ vãng [nghiệp
dư] & cũng khối em ăn mày văn
chương [nghiệp dĩ]
nguyễn huy thiệp ăn: hoa [
thủy tiên ] & trò chuyện với cứt [nghe đồn: tất cả các nhà văn việt nam
cả nội lẫn ngoại không phải chỉ là đồ hâm hấp vô học, dốt nát, đồ bỏ đi
đâu. mà là đồ cứt. cứt, cứt hết]
trần đăng khoa [cầu kỳ - thi họa, thì] chỉ ăn những thứ mong mỏng [… như
là rơi nghiêng ]. chẳng hạn: siêu mỏng có cánh, hoặc có 2 cánh siêu
mỏng. ăn tuốt…”
(Phan Bá Thọ)
(Ghi chú của BCT: những chữ in nghiêng
là tên tác phẩm: “Khát” là
tập thơ của Vi
Thùy Linh, “Ăn mày dĩ vãng”
tác phẩm của Chu Lai. “Hoa”
lấy bài “Trò chuyện với hoa Thủy
Tiên” của Nguyễn Huy Thiệp. Trong bài này, Thiệp chửi cả Hội Nhà văn
Việt Nam; “Ăn mày văn chương”
là tên một trang web văn chương ở Pháp. Hình ảnh thơ “…như
là rơi nghiệng” trong bài thơ Đêm Côn Sơn của Trần Đăng Khoa:
“Ngoài
thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”
bị xuyên tạc thành “thứ mong
mỏng”. “siêu mỏng có cánh”…tức là băng vệ sinh cho phụ nữ. Phan Bá
Thọ cho trần đăng khoa “ăn tuốt”. Tuy nhiên, các tên người (tên riêng)
không được viết hoa, nên nó không được quy ước là tên riêng của người,
vì thế ”trần đăng khoa” không phải là nhà thơ “Trần Đăng Khoa” Phó chủ
tịch Hội Nhà văn. Sự “lật đổ, sự đểu cáng” của Phan Bá Thọ nằm ở chỗ
này)
Một
bộ phận khác làm kiểu “thơ khó
hiểu”. Người làm thơ kể những câu chuyện như
ngụ
ngôn, dùng liên tiếp các hình ảnh ẩn dụ, hoặc phá vỡ cấu trúc ngữ pháp
của câu, phá vỡ cấu trúc logic liên tưởng của người đọc; hoặc chen vào
những chữ không cùng trường nghĩa. Có tác giả làm theo bút pháp Hậu hiện
đại, phá vỡ 4 yếu tố cơ bản của một bài thơ truyền thống là cấu trúc,
thời gian, không gian, và nhân vật trữ tình. Hình ảnh thơ được bày ra
(liệt kê) như những “mảnh vỡ” kết nối phi logic, chen vào đó là những
yếu tố ngẫu nhiên, hoang tưởng để “gây rối”. Những bài thơ như thế không
dễ gì có thể hiểu. Thực ra, loại thơ này không cần hiểu theo ý tác giả,
thơ chỉ gợi ý cho người đọc (nghĩa của bài thơ là do người đọc tự cảm
nhận). Kiều thơ này tiếp cận được với kiểu thơ tư tưởng, và thực sự góp
phần cách tân thơ Việt. Xin đọc:
hoe chân lời
Mùi quế hương lưu vong
Se tháng năm vất vưởng đáy rốn
Văn Cầm Hải
Người đọc không thể xác định được cấu trúc bài thơ; không thể nhận ra
không
gian
thực mà tác giả nói đến; không thể lần ra đầu mối thời gian sự việc xảy
ra; và không tìm thấy nhân vật trữ tình Tôi như trong thơ truyền thống
(thí dụ, Tôi trong Tương tư của Nguyễn Bính). Hình ảnh thơ là
những mảnh vỡ của hiện thực, có những quan hệ hết sức lờ mờ với nhau,
rất khó để liên tưởng theo một logic quen thuộc. Những bài thơ như thế
này thực sự là một nỗ lực cách tân so với thơ truyền thống, và vì thế nó
phải được đọc bằng cách đọc khác với đọc thơ truyền thống.
THỬ LẦN TÌM NHỮNG
MANH MỐI
1.Những tư tưởng mở
đường
“Thơ Trẻ” xuất hiện và phát
triển trong xu thế “đổi mới”, “Khuyến
khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác”.
Năm 1998, nghị quyết Trung ương 5 đã mở ra những hướng nhìn mới:
“ Phấn
đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và
nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng sâu
sắc xây dựng con người.
Năm 2008, Nghị quyết 23 cũng nhấn mạnh:
“Tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa
dạng của văn học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp
sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn
học, nghệ thuật nước nhà…”
2.Ngọn gió thời đại
Trước khi Thơ Trẻ xuất hiện thì dòng
văn chương Nhân văn và Dân chủ
đã có những thành tựu đáng kể.
Xin đơn cử:
Đứng
trước biển (1982), Cù lao Tràm (1985-
Nguyễn Mạnh Tuấn), Chiếc thuyền
ngoài xa (1983-Nguyễn Minh Châu),
Thời xa vắng (1984-Lê Lựu),
Thiên sứ (1989-Phạm Thị Hoài)
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu-1987),
Nỗi buồn chiến tranh (Thân
phận tình yêu 1987- Giải thưởng Hội Nhà văn 1991-Bảo Ninh),
Bên kia bờ ảo vọng (1987) và
Những thiên đường mù
(1988-Dương Thu Hương), Mảnh đất
lắm người nhiều ma (1990-Nguyễn Khắc Trường),
Một người Hà Nội (1990-Nguyễn
Khải), Chuyện kể năm 2000
(2000-
theo lời tác giả,
tiểu thuyết này
được viết
từ tháng 6 năm 1990 đến 30 tháng 11 năm 1991 thì hoàn tất. Bản thảo được
xem lại lần cuối vào tháng 8 năm 1998),
Cánh
đồng bất tận
(2005-Nguyễn Ngọc Tư), Ba người
khác (2006-Tô Hoài), Thời của
thánh thần (2008-Hoàng Minh Tường)
Những thành tựu này mở đường cho người
làm Thơ Trẻ . “Văn chương phản
kháng” Hiện thực Xã hội Chủ
nghĩa của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương tiếp sức
cho “Thơ Trẻ”. Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Lynh Bacardy…mạnh mẽ, táo bạo,
thực ra chỉ là người đi sau Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương …
3.Internet
Những người trẻ làm thơ trong nước được cổ vũ, đánh bóng, thổi phồng lên
bởi các trang mạng như Talawas, tienve.org, Hợp Lưu…và thế là, họ
nghiễm nhiên trở thành “hiện tượng”, viết lách của họ trở thành “những
tập thơ quan trọng nhất của nền thi ca Việt Nam”.
Trên Talawas,
Nhạc sĩ Tuấn Khanh nhận xét:
“Với tư cách là một độc giả lâm thời của Bùi Chát, tôi cho rằng “Bài
thơ một vần” là một trong những tập thơ quan trọng nhất của nền
thi ca Việt Nam trong thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ thứ 3 này“.
Quả là những lời “có cánh” đưa người làm thơ trẻ lên tận mây xanh.
Talawas
chủ nhật giới thiệu:
“thơ rác Phan Bá Thọ là một hiện
tượng
không thể bỏ qua của giai đoạn văn học này. “Đống
rác vô tận” cũng
là một trong những tập thơ hiếm hoi mang đậm phong cách đô thị lớn ở
Việt Nam hiện nay.”
Hóa ra những thứ “rác rưởi dơ bẩn”
lại là “của hiếm”!
Người làm thơ trẻ Lý Đợi khi trả lời
phỏng vấn của Nhã Thuyên thú nhận:
”thời
đó các tạp chí Thơ (do
Khế Iêm chủ biên) và Hợp Lưu (do
Khánh Trường chủ biên) đã gợi nhiều cảm hứng cho chúng tôi.”
4.và
văn chương hải ngoại
Ở phần
trên tôi đã nhắc đến các nhà thơ hải ngoại có ảnh hưởng đến người làm
thơ trẻ Sài Gòn. Trong phạm vi một bài viết ngắn, người viết không thể
chỉ ra những ảnh hưởng cụ thể trong từng tác phẩm mà chỉ có thể xác định
ảnh hưởng của khuynh hướng sáng tác. Xin nêu vài ghi nhận.
Người trẻ làm thơ Tân Hình thức có thể
học từ Khế Iêm, Đỗ Quyên (bài:
Tay trái thơ tay phải núi, Chúng mình thiệt tình…), hoặc học cách
nói lảm nhảm trong thơ Tân Hình thức của Nguyễn Đăng Thường (bài
Những nụ hồng của máu)…Xin
đọc “Rác
& bảng tổng phổ trừu tượng sắc màu”
của Trúc Ty.
Người trẻ làm
thơ phản kháng có thể học
được nhiều điều từ thơ của Bác sĩ Nguyễn Đức Tùng (Canada). Ông viết
nhiều bài về thời sự chính trị Việt Nam với tinh thần phản kháng rất
“thâm hiểm”. Ông nhập vai để diễn lại sự việc một cách diễu nhại (theo
kiểu “lấy gậy ông đập lưng ông”).
Xin đọc Khúc Duy: “Thơ của đồng
bào ta ở vỉa hè đấy các chú” và
“I(ai) có thơ dùng thơ”;
và xin thử so sánh với thơ Nguyễn Đức Tùng, các bài: “Lệnh
miệng” và bài “Tốt lắm!”.
Họ cũng có thể học Đỗ Kh. về sử dụng cái tục, cái đểu, cái trịch thượng
trong cách phản kháng. Xin đọc bài “Tôi
thích ngồi sau em trên yên xe” của Đỗ. Kh.
Người cầm bút nữ làm “thơ
Tục” trong nước chắc chắn không thể không biết thơ của Lê Thị Thấm
Vân. Nhà thơ nữ (ở Mỹ) này có cá tính mạnh mẽ. Tiếng nói đòi Nữ quyền
của cô gây được ấn tượng. Tuy sử dụng Cái Tục, nhưng phẩm chất nghệ
thuật và tính tư tưởng của Lê Thị Thấm Vân là nét trội, trong khi Thơ
Trẻ trong nước đem cái “tục tĩu
bẩn thỉu” vào thơ, làm cho thơ trở thành một đống chữ bốc mùi, không
sao chịu nổi! Xin đọc Na Thị Chua, các bài:
“Ca dao. tôi & tôi”,
“Đồ đểu”, “Ch. thông cảm”,
“Về bằng cửa sau nghe Ch.” Và
so sánh với bài “Trăng trối”
của Lê Thị Thấm Vân.
5. và
sự kế thừa
Người
trẻ làm thơ có khuynh hướng thơ tư tưởng như Văn Cầm Hải, Ly Hoàng Ly,
Vi Thùy Linh chắc chắn kế thừa tính nghệ thuật và tính tư ưởng trong thơ
Thanh Thảo và Nguyễn Quang Thiều trước đó.
Đây là một bài thơ của Thanh Thảo năm
1992:
Người
đàn bà trong tranh
Những người đàn bà
(2001)
Tất nhiên, Ly Hoàng Ly, Văn Cầm Hải làm mới hơn so với Nguyễn Quang
Thiều và
Thanh
Thảo. Ly Hoàng Ly còn là
một họa sỹ - nghệ sỹ nghệ thuật thị giác, cô
kết hợp thơ ca với
nghệ thuật sắp
đặt,
trình diễn thơ và nghệ thuật
trình diễn .
Văn Cầm Hải làm thơ theo cảm thức và
thủ pháp Hậu hiện đại. Anh phá vỡ cấu trúc bài thơ truyền thống, đập vỡ
nhân vật trữ tình chủ thể của thơ, phân mảnh thời gian và không gian.
(xin đọc lại bài Hoe chân lời
đã dẫn ở trên)
Tuy vậy Thơ Trẻ không theo được kiểu
thơ tư tưởng của Nguyễn Quang Thiều. Ông kết hợp cách kể chuyện của
Kafka với thi tứ của R. Tagore. Sự khó hiểu của thơ Nguyễn Quang Thiều
nằm trong tư tưởng triết
học (thí dụ bài Bầy cừu ở
trên). Không hiểu Kafka, không đọc được R. Tagore thì khó thâm nhập thơ
Nguyễn Quang Thiều (3). Tuy nhiên, ông cũng có nhiều bài thơ trữ tình
làm theo lối thơ truyền thống (Tập:
Sự mất ngủ của lửa-1995).
Nguyễn Quang Thiểu chỉ thực sực cách tân từ tập
Nhịp điệu châu thổ mới (1997)
và Dưới cái cây ánh sáng
(2003).
NHỮNG
GÌ CÒN LẠI
Thơ Việt vẫn tiến về phía trước. Sau cao trào những năm 1995- 2010, thơ
Việt lắng xuống để định thần về con đường đã đi.
Con đường cách tân từ nhóm Sáng Tạo (Sài Gòn), các nhà thơ Hoàng Cầm, Lê
Đạt, Trần Dần, đến Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều và Thơ Trẻ (Hậu hiện
đại) vẫn tiếp tục. Nhưng cho đến nay (2020) chưa có có gì mới hơn so với
những gì thơ Việt đã đạt được.
Những
người làm Thơ Trẻ tôi kể tên ở trên giờ mất tăm (có người vẫn làm thơ,
nhưng đã không vượt qua được chiếc bóng của mình). Ly Hoàng Ly đã in 3
tập: Cỏ trắng (1999), Lô Lô
(2005), Quà (2008), nhưng chỉ đọng lại tập
Lô Lô. Vi Thùy Linh sau 3 tập
thơ: Khát (1999)
Linh (2000) và
Đồng tử (2005) cũng chỉ ghi
dấu ấn bằng tập thơ Khát.
Nguyễn Hữu Hồng Minh sau 3 tập thơ:
Giọng nói mơ hồ
(1999),
Chất trụ (2002),
Vỉa từ (2003), anh chuyển
sang viết
Ổ thiên đường (tập truyện-
2011). Nguyễn Vĩnh Tiến chỉ có tập thơ
Những bình minh khác
(2001). Linh Bacardy trả lời phỏng vấn của Nguyễn Viện, rằng cô đến với
văn chương chỉ là ngẫu nhiên, trước kia cô là
Ngựa Trời, giờ thì không, cô
chuyển sang dịch sách.(4)…
Thơ
phong trào (tràn ngập trên các trang báo) vẫn làm theo thi pháp thơ
“truyền thống” (thơ chống Mỹ, thơ Lãng mạn) nên rất cũ. Thơ cách tân,
kiểu “thơ khó hiểu” sau một thời gian dài bị công chúng từ chối đã dần
dần xích lại gần với thơ truyền thống, tuy vẫn giữ
đôi nét đặc trưng về kiểu ngôn ngữ của Thơ Trẻ. Thơ Tân hình
thức, thơ Hậu hiện đại, con đường còn ở phía trước (trường ca
Lòng hải lý của Đỗ Quyên là
một thí dụ). Những nhà thơ lớp trước như Thanh Thảo, Trần Quang Quý, Mai
Văn Phấn… vẫn giữ được phong độ cũ. Chẳng hạn, Trần Quang Quý đã in 11
tập thơ. Năm 2012, ông đạt giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam với tập thơ
Màu tự do
của đất.
Ông
lại vừa được giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam năm 2019 với tập thơ
Nguồn…
Khoảng 10 năm trở lại đây chưa xuất hiện một tài năng mới nào, chưa một
tập thơ mới nào như một hiện tượng văn chương vượt lên giai đoạn thơ đầu
thế kỷ XXI. Vì thế Thơ Trẻ đầu
thế kỷ XXI vẫn ghi được dấu ấn riêng trong tiến trình đổi mới thơ ca
Việt.
Tháng
01. 2020
___________________
Ghi chú
(1)
https://vnexpress.net/giai-tri/truong-que-chi-trong-tho-toi-song-that-voi-ban-than-1894273.html
(3)
Đọc thêm bài BCT
viết về thơ Nguyễn Quang Thiều: “Ta vẽ mắt nhân loại hình lục giác”
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18902
(4)
http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=539487&mpage=1
***
|