PHÁT MINH CỦA THI SĨ
Về trí nhớ của tôn sư Lê Quý Ðôn Hồi nhỏ tôi rất phục Lê Quý Ðôn, thần đồng về mặt trí nhớ. Theo truyền thuyết ông có thể đọc vanh vách những gì mình chỉ nhìn thoáng qua hoặc nghe qua một lần, ông đã từng cứu bồ một bà chủ quán rượu bị mất sổ ghi nợ chép trên vách vì cháy nhà. Ông cũng đã từng thoát một trận đòn của thân phụ nhờ ứng đối trước mặt khách của cha một bài thơ Ðường Luật về rắn mà câu nào cũng đề cập đến từng chủng loài bò sát. Tôi không “xịn” như tiên sinh Lê Quý Đôn, nhưng theo lời bạn bè thì trí nhớ cũng thuộc hàng cao thủ. Từ lúc 11 tuổi đến nay tôi đã làm trên 1000 bi thơ đủ nội dung thể loại và tự hào thuộc tối thiểu cũng hơn 800 bài mình ưa thích. Khác với bậc trí giả Lê Quý Đôn, tôi bắt buộc phải thuộc thơ mình vì yếu tố thời thế. Nói hú họa, chẳng may tôi bị bọn cường quyền bạo chúa nào đó bịt miệng thì với trí nhớ trời cho, ít ra tôi cũng để dành một số lượng thơ cần thiết để lại cho thế nhân qua ghi chép hoặc khạc thơ truyền khẩu trong bàn rượu thân hữu. Năm nay bước qua tuổi ngũ thập tri thiên mệnh đáng lẽ trí nhớ kém dần, nhưng cũng may roi vọt cuộc đời không ngừng quất vào nên trí nhớ của thi sĩ lần lượt lại khôi phục. Nếu thiên tài Lê Quý Đôn có bài thơ thất ngôn bát cú câu nào cũng nói về RẮN thì tôi cũng nối chí cha ông bằng bài thơ năm chữ câu nào cũng nói về CHÓ, vừa mua vui trong bàn rượu, vừa được chủ quán cho “xù” trong việc trả tiền. Nhân đây, bằng trí nhớ cá nhân, tôi chép lại bài thơ RẮN của Lê Quý Đôn và bài thơ CHÓ của tôi để mọi người tủm tỉm cười chơi. BÀI TH Ơ RẮN ĐẦU BIẾNG HỌCChẳng phải LIU ÐIU cũng giống nhà RẮN đầu biếng học lẽ không tha Thẹn đèn, HỔ LỬA đau lòng mẹ Nay thét, MAI GẦM rát cổ cha RÁO mép chỉ quen lời lếu láo LẰN lưng cam chịu vệt năm ba Từ nay TRÂU lỗ siêng năng học Kẻo HỔ MANG danh tiếng thế gia
BÀI THƠ VỀ CHÓ
Sáng sớm nghe tiếng KHUYỂN Giữ a trưa bén mùi CẦYChiều bước vào quán CẨU Chú TUẤT nằm đâu đây
Tiếng ÐỒNG QUÊ là NAI Tiếng giang hồ là CỚM Gần MỰC thì chú đen Gần đèn thì chú ÐỐM
Thăm chú nhớ BÁNH TRÁNG Mới nhất BẠCH nhì VÀNG Nhâm nhi dăm XỊ ÐẾ Mới tứ VỆN tam KHOANG
Về bà Hồ Xuân Hương, thuỷ tổ thơ tiếng lái Ngoài trường hợp độc đáo của tôn sư Lê Quý Đôn về mặt trí nhớ như đã nói ở trên, còn một nhân vật nữa trong văn học sử Việt Nam mà tôi cực kỳ ngưỡng mộ. Ðó là nữ sĩ Hồ Xuân Hương, từng được mệnh danh là “Bà Chúa thơ Nôm”, từng được coi là một trong những người phụ nữ hiếm hoi trên trái đất dám thực hiện nữ quyền một cách triệt để nhất trong thời đại phong kiến trên đe dưới búa bất chấp có thể bị nguy hại đến tính mạng. Tuy nhiên, những danh xưng ấy vẫn chưa đủ để nói về sự mở mang ngôn ngữ của bà. Theo tôi, thiên tài Hồ Xuân Hương còn là thủy tổ làm thơ về tiếng lái, là chưởng môn nhân đầu tiên của môn phái “đảo ngữ” một cách kỳ ảo tạo nên tứ thơ đối nghịch khôn lường mà những người đi sau như Bùi Giáng tha hồ kế thừa để phát huy nghệ thuật chơi chữ. Hồ Xuân Hương là một nhà thơ ngôn ngữ hai mặt, người đời thường truyền tụng là thơ “đố tục giảng thanh”. Nhưng thơ tiếng lái của bà lại chơi đòn tréo ngoe là “chuyển thanh sang tục”. Một minh chứng trong bài “KIẾP TU HÀNH” như sau: C ái kiếp tu hành nặng đá đeoVị gì một chút tẻo tèo teo Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc Trái gió cho nên phải lộn lèo Nếu chịu khó đọc kỹ và có máu giang hồ một chút, ai nấy phải bật cười bởi “đá đeo” tức là “đéo đa”, “trái gió” tức là “chó dái”, “lộn lèo” tức là “lẹo… l” Một thí dụ khác trong bốn câu đầu bài thơ “CHÙA QUÁN SỨ”: Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo? Chày kình, tiểu để suông không đấm Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo… Tương tự bài trước, nếu chiết tự ba chữ “đáo nơi neo” tức là “đéo nơi nao”, “suông không đấm” tức là “đâm không sướng”, “đếm lại đeo” tức là “đéo lại đêm”. Sự tài hoa của nữ sĩ họ Hồ biến thành phát minh mở đường cho các thi sĩ. Tôi không có máu ngông cuồng như Bùi Giáng khi xài tiếng lái bắt chước bà, tôi cũng không sử dụng tiếng lái trong chốn phòng the, tôi “thảy” tiếng lái của thế kỷ 21 vào những nỗi đau thế thái nhân tình, những trận phong ba cơm áo tạo nên tiếng cười cay đắng cho những ai đang bị áp bức. Ít nhất tôi cũng thu thập từ truyền khẩu, giai thoại của nhân dân để viết hơn 10 bài thơ tiếng lái, xin chép ra đôi bài sau để mọi người thưởng lãm. Ðó là 2 bài thơ mang tựa “QUỐC KỲ” và “ĐẢO NGỮ HÀNH”. QUỐC KỲ CỜ VÀNG thì tình CÀNG VỜ CỜ XANH sao rụng CÀNH XƠ xác cành CỜ ĐỎ ông CÒ ĐỠ anh CỜ HỒNG cái CÒNG HỜ nhanh lắm bồ Treo CỜ GÌ đỡ KỲ GIỜ? Ê, CỜ TÂY hạ CẦY TƠ ra đời! ĐẢO NGỮ HÀNH Hành đảo ngữ kể từ GIẢI PHÓNG Thi ca làm PHỎNG DÁI niêm vần Muốn in báo phải làm đầy tớ Nhưng ta nào phải kẻ lòn trôn
Ta nào phải là ông Hàn Tín Phò Lưu Bang phản bạn lừa thầy KỸ SƯ vì thế thành CƯ SĨ THẦY GIÁO từ đây chịu THÁO GIÀY
Họp ĐỒNG CHÍ thấy toàn ĐÌ, CHỐNG XÔ VIẾT ngày nay khoái XIẾT VÔ Hình treo LỘNG KIẾNG như LIỆNG CỐNG Ðể thằng TO DỰ hét TỰ DO
Chú đeo BẢNG ĐỎ mà BỎ ĐẢNG Mượn SAO VÀNG che đậy SANG GIÀU CĂNG BỒNG nhờ nói CÔNG BẰNG nhỉ LƯU MANH nào lại chẳng LANH MƯU?
Theo CHÍNH PHỦ ai ngờ CHÚ PHỈNH Vào CHIẾN KHU thì bị CHÚ KHIÊNG Mồm ĐÁNH MỸ mà tâm ĐĨ MÁNH TIỀN ĐÂU? chú chặn họng ĐẦU TIÊN
GIÁO CHỨC đói meo đành DỨT CHÁO Làm NHÀ THƠ vô bót NHỜ THA THIÊN TÀI không đủ THAI TIỀN hả? CẤT ĐUỐC về quê CUỐC ĐẤT à!
KHIẾN CHÁN ta làm thơ KHÁNG CHIẾN Gào THI ĐUA chú bịp THUA ĐI LÀM THƠ mà LỜ THAM mới nhục THÌ CẤY cày mất đất THẤY KỲ
LÃNH TỤ sạch nhờ ôm TỦ LẠNH BẨN NGƯỜI DO bác BỎ NGƯỜI DÂN BÁC ĐI quá sớm thành BI ĐÁT NGHỆ SĨ tụi con NGHĨ XỆ quần… Về loại thơ “bỏ dấu xuống chữ” của chính tôi Sau những cơn stress nặng về cơm áo gạo tiền công danh địa vị phù phiếm hư ảo, con người ta luôn cần có sự thư giãn. Nối tiếp tiền nhân, tôi tự thể nghiệm mình qua kiểu thơ chơi chữ đời mới cho thanh thản tâm hồn. Cụ thể tôi bỏ các dấu gồm “dấu huyền, dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng” xuống các mẫu tự của 24 chữ cái hoặc các từ để chúng thành thơ. Xin giới thiệu cùng các bạn một số bài thơ về chữ A, B, C, các từ bão, quậy, thớ như sau: A Con gái ta thường kêu bằng: ả Ðôi khi đụng “xẩm” đổi thành: a Các em xinh đẹp thì ta: á Giống Chung Vô Diệm thì ta: ạ Á ạ gặp ta cũng phải: à B Nhìn em, ta muốn: bế Muốn bế thì phải: bê Bê em như bê: bệ Bê bệ dễ rớt: bể Ðặt xuống giường, ta: bề C Trong tình yêu không xài: xể Làm như thế hai đứa: xệ Thà rằng giận nhau, ta: xê Ta đi bộ, em đạp: xế Lúc gối chăn, bụng sẽ: xề BÃO Giữa cuộc đời giông: bão Ta ruột xé gan: bào Văn miếu nuôi cường: bạo Triều đình nuôi hổ: báo Mình ta nuôi chiêm: bao QUẬY Ở biển ta là cá: quẫy Sao ngươi đem bỏ mặt: quầy Giang hồ có câu phải: quấy Lẽ nào ta chịu lăn: quay Lẽ nào ta không dám: quậy THỚ Có con ong: thợ Không thèm hít: thở Khí hậu đền: thờ Cho nên có: thớ Mật thành ra: thơ
19.7.2008 GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, PHẦN 1
Vừa rồi sau khi ra mắt hai tập THƠ TÌNH BÙI CHÍ VINH và THƠ ĐỜI BÙI CHÍ VINH trong nước lẫn trên mạng, tình cờ tôi được nghe một số giai thoại hay hoặc không hay của thiên hạ bàn tán về mình. Đối với tôi, hay hoặc không hay đều vẫn là giai thoại. Nhưng giai thoại phải có cơ sở xác đáng, có thực tế chứng minh, có những người trong cuộc chứng kiến thì giai thoại đó mới trường tồn, truyền khẩu hợp lý và khoa học được. Những giai thoại đồn đại chung quanh hình tích, sự đi đứng, năng khiếu làm thơ ứng khẩu của tôi xuất hiện ngay từ sau giải phóng, lúc tôi còn rất trẻ, đang làm việc tại một tờ báo và chỉ mới 21 tuổi đầu. Giai thoại mỗi ngày mỗi phát triển thêm lúc tôi đi bộ đội, rồi đi giang hồ, rồi làm đủ mọi thứ nghề để sống, thậm chí cả giai thoại lúc tôi bày tỏ chính kiến của mình… Trong phạm vi bài viết này tôi xin mở đầu bằng một giai thoại quái đản nhất vừa nghe được. Sự quái đản ở đây tùy nghi ai muốn hiểu sao thì hiểu trong khi câu thơ đồn đại về tôi lại khởi nguồn từ một tình bạn rất đẹp. Cụ thể từ hai câu thơ tam sao thất bổn sau đây: “Trọc đầu BÙI làm sao CHÍ ở Nhục còn chưa có lấy gì VINH” Và họ nói rằng hai câu thơ trên là do Bùi Giáng ứng khẩu tặng tôi trong bàn nhậu lúc tôi đang múa may chữ nghĩa, khiến tôi hoàn toàn tâm phục khẩu phục. Suy nghĩ như thế không riêng gì tôi mà những người quen biết tôi đều phải phì cười. Bởi một lẽ đơn giản, tác giả hai câu thơ trên không phải là Bùi Giáng tiên sinh mà là ông anh Mặc Tuyền, một nhà thơ kiêm kịch tác gia bụi đời làm “chọc quê” tôi khi tôi mạt lộ đang ngồi ở vĩa hè phụ sửa xe cùng anh Phan Văn Bồng tự Bế Văn Bồng mưu sinh kiếm sống vào thời điểm cuối thập niên 80 đói rách. Thời điểm ấy nạn dịch bo bo khoai mì hoành hành, mâm cơm không có gạo trắng mà ăn, Mặc Tuyền cố kiềm chế sự ngông cuồng của tôi nên làm hai câu khá cảm động. Vừa chơi chữ, vừa nói về chữ “nhục”, nhục ở đây có nghĩa là “thịt”, thi sĩ lớn cỡ nào mà đầu cạo trọc và thiếu thịt ăn thì bao tử cũng đói meo và chí khí lẫn chí mén cũng đi chơi chỗ khác. Còn Bùi Giáng tiên sinh đương nhiên thuộc về đẳng cấp khác. Ông và tôi không phải huynh đệ hoặc thân thiết tri kỷ nhưng khi gặp nhau chưa bao giờ ông dèm pha biếm nhẽ thế hệ sau mình. Giai thoại giữa tôi và ông độc đáo hơn nhiều. Cách đây hơn 20 năm tôi và Hồ Lê Thuần (con trai cố bí thư Thành Đoàn trước 1975 là Hồ Hảo Hớn) vi hành xuống miệt Gò Vấp chợ Long Hoa lúc nửa đêm. Nhằm vào lúc Bùi Giáng rời chùa Long Huê gần đó ra chợ quậy tưng bừng khói lửa với một cây chổi rách tượng trưng cho ấn kiếm. Gọi là ấn kiếm vì Bùi Giáng luôn vỗ ngực xưng vương bất cứ lúc nào cao hứng. Đêm đó chúng tôi ngồi uống rượu vĩa hè chứng kiến “vua cỏ” Bùi Giáng làm bà con chạy tán loạn và nhìn ông múa chổi tiến về phía chúng tôi. Ông vừa đi vừa khạc thơ rồi dòm trừng trừng vào mặt tôi. Trong cơn say xỉn ngất trời, Hồ Lê Thuần xúi tôi đọc thơ đáp lễ. Thế là người ngồi người đứng xuất khẩu thành thi qua lại liên tục. Không biết Bùi tiên sinh “phê” thơ tôi ra sao, chỉ biết Người tự động quỳ xuống bàn chúng tôi dâng cây chổi rách lên và tuyên bố “Đêm nay Trẫm thay mặt cựu hoàng Bảo Đại giao ấn kiếm cho thế hệ Hồ Chí Minh”. Câu nói đầy tính “chính trị” và đối phó của Bùi Giáng bắt buộc tôi phải nhận cây chổi và làm một bài thơ tặng ông tại chỗ, có chép lại nhét túi ông đàng hoàng, xin mạn phép ghi ra đây để khép lại lời đồn về sự “tâm phục khẩu phục” của tôi trước Bùi Giáng: CÁCH LẠY CỦA BÙI GIÁNG “Liên tồn, l… tiên, liền tôn” Bác Bùi chưa gặp đồng môn đây mà Ta hăm bảy tuổi đăng khoa Bác hơn sáu chục mới là Trạng Nguyên “Bác đi, bi đát” cơn điên Để mua trí tuệ “l… tiên, liên tồn” “Riêng ta” thành “ra tiên” con Lúc say xỉn vỗ hậu môn cười khà “Bán dùi Bùi Giáng” xót xa “Bình Chí Vui” ta vốn là “Bùi Vinh” Bác không màng nhắc triều đình Có đâu ta nỡ cố tình làm vua Chi bằng giữa chợ say sưa Bùi to Bùi nhỏ đi lùa các em Kìa sao bác lạy như điên Đợi ta đỡ dậy chiêu hiền nữa sao?!? Ngoài ra tôi còn chép cho Bùi tiên sinh bài thơ BÌNH CHÍ VUI khi ông muốn tôi bình tĩnh chí nam nhi trở lại để có thể tồn tại trước bọn sâu bọ làm người. Tôi đã làm bài thơ này theo “môđen “ tiếng lái và chơi chữ của ông:
BÌNH CHÍ VUI “Bùi Chí Vinh, Bình Chí Vui” Không bình chí, chắc tiếng cười mất tiêu Chí trong bình, chí mốc meo Chui ra bình, chí mới nhiều nhục vinh Bùi làm thiên hạ giật mình Sờ ngay “cái đó” kẻo em mếch lòng “Bùi như lạc” nhậu sướng không? “Trần như nhộng” Bùi tồng ngồng đái chơi Bất bình nên chí chưa vui Các em nên gọi ông Bùi Chí Vinh Chuyện gặp Nguyễn Đức Sơn giang hồ hơn. Trước đó khi mạn đàm về thi ca cùng đồng nghiệp, tôi luôn luôn khẳng định miền Nam trước giải phóng có 4 chưởng môn nhân đại diện cho 4 trường phái thi ca tiêu biểu. Đó là Bùi Giáng thơ trên trời, Nguyễn Đức Sơn thơ dưới đất, Thanh Tâm Tuyền thơ tự do kiểu Tây phương, Tô Thùy Yên thơ hành cổ điển kiểu Đông phương. Vì thế lần hạnh ngộ Nguyễn Đức Sơn trên cao nguyên Đại Lào sơn lam chướng khí, tôi đã ăn những gì ông tự trồng tự hái và đã đấu khẩu những gì ông muốn. Nguyễn Đức Sơn vốn sở trường thơ lục bát và nổi tiếng trước những bài thơ tinh gọn đến mức độ tối thiểu về chữ mà vẫn dào dạt ý tứ. Có bài thơ chỉ hai câu, mỗi câu hai chữ như “Cái lỗ – Tối cổ” đủ nói hết về chế độ mẫu hệ, về nơi khai sinh ra loài người. Có bài thơ chỉ ba câu, mỗi câu một chữ như “Hột – Thì – Le” đủ nói hết về bản chất sinh tồn thiện ác của nhân loại. Và tôi đã mượn những ý thơ độc đáo đó để đưa vô bài thơ làm tặng ông như một thứ giai thoại truyền khẩu: ĐỤNG ĐỘ NGUYỄN ĐỨC SƠN “Hột thì le” thật đó sao? Ta dân “thảy lỗ” đến chào đồng môn Xưa nay hai kẻ du côn Ít khi đời sống cô hồn như nhau Như miếng trầu khác miếng cau Nhưng có cau, chẳng có trầu, như không Như không sinh chuyện động phòng Hột sao le được “nụ hồng thi ca” Như không sinh nở đàn bà “Cái lỗ tối cổ” thành ra tầm thường Ta thừa văn, bác dư chương Hôm nay một chén Hồ Trường chao nghiêng “Thiên tài” nhờ lỗ “tai thiền” Buồn lên núi hú chẳng phiền Tarzan Buồn hái nấm luyện thành sâm Buồn quay vào vách thương thầm Đạt Ma Buồn hơn xuống động bẻ hoa Buồn hơn chút nữa kiếm ta đỡ buồn Kiếm ta ta cứ ngông cuồng Sánh vai với Nguyễn Đức Sơn cũng kỳ “Kỳ” thì theo “Thiệu” mà đi Ta theo bác đã chắc gì tịnh tâm Chẳng thà bút vẩy thơ đâm Rong chơi đợi trận cát lầm đi qua Đừng khen chê trước mặt ta Sợ e tiếng gáy làm gà ghét nhau Chẳng thà trong cuộc bể dâu Cưa nhau chén rượu cho sầu chia hai… Riêng đối với Phạm Thiên Thư thì tôi “quậy” theo kiểu bụi đời hơn. Năm 1980 tôi được nghỉ phép mặc đồ bộ đội rách xác xơ đi lang thang cùng Hoàng Linh qua đường Lý Chính Thắng (tức Yên Đỗ cũ). Hoàng Linh là bạn giang hồ của tôi, anh là con trai nhà văn Hoàng Ly và là em vợ Phạm Thiên Thư lúc đó. Anh giới thiệu tôi với Phạm tiên sinh đang mở tiệm hớt tóc và bỏ mối rượu ngay trên đường này. Cuộc hội ngộ diễn ra y chang truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Ngoài trời mưa tầm tã, bên trong tiệm Phạm tiên sinh ngừng hớt tóc cho vị thân chủ mặt mũi kỳ dị và kéo vị ấy ngồi xuống rót chai rượu màu xanh tiếp tôi và Hoàng Linh. Sau tuần rượu đầu đàm đạo về thơ, vị khách lạ đứng dậy chỉ vào mặt tôi và phán “tuổi Giáp ngọ phải không, sanh vào cuối tháng 9 âm lịch phải không, chào đời nửa đêm phải không?” Rồi ông ta đứng dậy bỏ đi một mạch. Lời phán của kẽ dị nhân khiến tôi hoang mang nhưng hai anh em Phạm Thiên Thư, Hoàng Linh chỉ khẽ gật gù khoái trá. Đến giờ này tôi vẫn chưa hiểu dị nhân đó là ai và tại sao chỉ sau một quẻ Dịch ông ta lại biết ngày giờ năm sinh tháng đẻ của tôi trong khi cả bàn không ai biết. Hôm đó trong lúc cụng ly nghe Phạm tiên sinh thố lộ về cuộc đời trôi nổi lên voi xuống chó của ông làm tôi ngậm ngùi vô tận. Tôi thừa biết họ Phạm sở trường về thơ bốn chữ nên ứng khẩu tặng ông bài thơ cùng thể loại mà ông ưa thích. Bài thơ như sau: GHẸO PHẠM THIÊN THƯ Rượu Phạm Thiên Thư Thơ Bùi hiền sĩ Một chén càn khôn Đất trời túy lúy
Tưởng huynh tên “Thị” Nên mới vào chùa Dè đâu tửu sắc Cũng ghiền nam mô
Huynh giữ một bồ Chứa toàn thịt chó Ta giữ bồ kia Chứa toàn tín nữ
Vì huynh quân tử Như Nhạc Bất Quần Ta đành tiểu tử Như Điền Bá Quang
Tiếu Ngạo cung đàn Một gian lều cỏ Huynh mới bẻ gươm Ta còn mãi võ
“Đoạn Trường” hai chữ Huynh ngâm nát lòng “Vô Thanh” đâu chứ Cửa thiền huynh trông
Ta con nhà tông Giống lông giống cánh Quen ngủ chiếu rơm Dùng cơm khổ hạnh
Gặp chiều mưa lạnh Chén tạc chén thù Đem thơ tặng Phạm Đếch cần Thiên Thư! Cũng trong thời gian đó tôi lang bạt rất nhiều nơi, làm quen với nhiều người, trong đó có thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn từ Phan Thiết vô là tác giả tập thơ CHIẾN TRANH VIỆT NAM VÀ TÔI nổi tiếng. Nguyễn Bắc Sơn có hẹn hò đâu với Trần Mạnh Hảo nên rủ tôi lên chung cư Hội Văn Nghệ số 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa lai rai ba sợi chơi. Khi đi, tôi có rủ thêm Trần Hữu Dũng, Vũ Ngọc Giao là hai chiến hữu giang hồ cùng cạn chén tang bồng hồ thỉ. Rượu vào lời ra. Tôi và Nguyễn Bắc Sơn thay phiên nhau khạc thơ chan chát. Có lẽ Nguyễn Bắc Sơn không ngờ tôi là một kẻ hậu sinh chưa hề có tên tuổi trước giải phóng mà khạc thơ quá đã, nên anh “bốc” liền một câu: “Thằng cha Bùi Chí Vinh này làm bài thơ nào cũng hay hết, nhưng thơ họ Bùi là Đồ Long Đao, còn thơ Nguyễn Bắc Sơn ta mới là Ỷ Thiên Kiếm”. Nguyễn Bắc Sơn đâu biết câu phát biểu đó vô tình làm “mồi” cho một bài thơ giai thoại về anh và tôi sau này. Bài thơ được tôi ứng khẩu tại chỗ như sau: CÁCH NHẬU VỚI NGUYỄN BẮC SƠN “Ta làm thơ bài nào cũng hay” Nghe gã Nguyễn Bắc Sơn nói thế Té ra gừng già ngươi chưa cay Ta chỉ hạt tiêu mà rơi lệ Làm thơ ta làm từ bụng mẹ Đợi ngươi nổi tiếng là ta sinh Sinh sau đẻ muộn giống Hạng Thác Cho người Khổng Tử đỡ hợm mình Sinh sau đẻ muộn giống chim hạc Cho đàn cò đói đỡ ăn đêm
Nhà ngươi bốc ta cứ như chưởng: Rằng thơ ta ngông như Tạ Tốn Câu trước câu sau Đồ Long Đao Vần dưới vần trên Ỷ Thiên Kiếm Đao kiếm dành cho bọn cường hào Có đâu đưa vào thơ bố trận Tại đời lắm muối nên thơ mặn Chứ thiết gì ta nghiệp võ công Kìa coi hoàng đế Quang Trung đó Đến chết còn ghê chữ má hồng
Tiếc rằng ngươi không là thiếu nữ Thiếu nữ bốc, ta thành vua Trụ Nhà ngươi bốc, ta thành bia hơi Uống say bọt bay hết lên trời… Đối ẩm với Nguyễn Bắc Sơn tại nhà Trần Mạnh Hảo mà quên nhắc đến họ Trần thì quả là điều không phải phép. Khi tôi 15 tuổi tham gia phong trào sinh viên học sinh đấu tranh đô thị ở Sài Gòn thì bộ đội Trần Mạnh Hảo đã siết cò AK ở trong rừng. Ngay giải văn học TPHCM đầu tiên sau giải phóng 1976 – 1977 tôi và Trần Mạnh Hảo đã biết nhau khi anh đoạt giải thơ với tập TIẾNG CHIM GÕ CỬA còn tôi đoạt giải thơ với tập HẠNH PHÚC CÓ THẬT. Tôi với anh còn thân nhau bởi cùng đi lưu diễn đọc thơ các trường đại học cùng với Nguyễn Duy, Văn Lê, Nguyễn Nhật Ánh. Phải nói thật tôi thân với Trần Mạnh Hảo hơn những nhà thơ ngoài Bắc khác một phần vì quê quán cha tôi thuộc tỉnh Nam Định, đồng hương với anh. Trần Mạnh Hảo và tôi mỗi người đều tạo ra những sóng gió và dư luận riêng bởi cá tính và thơ của mình. Trong bàn nhậu đám đông, tôi và anh luôn luôn giữ vai trò chủ lực trong việc đọc thơ phục vụ bè bạn bằng thơ trí nhớ hoặc thơ ứng khẩu. Ai cũng khẳng định rằng tôi và anh đều có trí nhớ đặc biệt, thuộc lòng bất kỳ bài nào của mình viết ra, cho dù là viết giỡn chơi. Thậm chí giới giang hồ mỗi lần nghe tôi và anh đấu khẩu bằng thơ đều gọi là “Nam Chinh, Bắc Chiến”. Một lần ngồi dưới chân cầu Công Lý trước nhà chị Phương Huệ, có mặt khá đông bá tánh tín đồ Phật Giáo, Trần Mạnh Hảo đã cao hứng đọc oang oang bài thơ chinh phục thiên hạ. Bằng trí nhớ tôi chép ra đây sau một thời gian quá lâu hơn 20 năm, nếu có sơ xuất hoặc thiếu câu nào đoạn nào mong Trần Mạnh Hảo thông cảm: PHÙNG PHẬT, SÁT PHẬT Phùng Phật phải sát Phật Sát Phật, Phật quay về Ngộ rồi mà chưa ngộ Tỉnh tỉnh mà mê mê
Thúy Kiều vừa thành Phật Mười lăm năm tu hành Cõi tâm là cõi Phật Lầu không lầu không xanh
Phật tự thân người đẹp Không dưng, sao Phật Bà A Di Đà sát Phật Phật hóa thành đôi ta! Tôi thấy tình hình căng quá bèn giải thoát cho các tín đồ Phật Giáo bằng bài thơ thức ngộ sau đây: PHÙNG PHẬT, CỨU PHẬT Trần Mạnh Hảo sát Phật Giữ lại mình Quan Am Nói theo kiểu phàm tục Diệt dục mà sinh dâm Nói theo kiểu cờ bạc Úp Tây mà lật Đầm Nói theo Bùi hiền sĩ Muốn vậy chìa hai trăm! Bao giờ cũng vậy, những cuộc đấu khẩu thơ giữa tôi và Trần Mạnh Hảo đều làm thiên hạ bật cười nhẹ nhõm tới bến sau khi thần kinh căng thẳng cũng tới bến. Anh em văn nghệ mà. Những người có khả năng khuấy đảo thiên hạ chỉ đếm trên đầu ngón tay, tại sao lại không biết thương nhau bảo vệ nhau trước những cặp mắt cú vọ của đám tiểu nhân rình mò tâu hót ám hại. Một giai thoại nữa có liên quan tới Trần Mạnh Hảo khi họ Trần dẫn theo hai vị chức sắc thuộc tỉnh Hà Nam Ninh đến Hội Văn Nghệ 81 Trần Quốc Thảo ăn nhậu và ra câu đối thách thức. Chuyện đó đã hơn 15 năm. Hôm đó tôi đang ngồi uống bia dưới gốc cây đa cùng với Nguyễn Quốc Chánh, Đoàn Vị Thượng … và nhiều anh em văn nghệ khác. Hai bên chào nhau và ráp bàn. Trần Mạnh Hảo tuyên bố “Có một câu đối chúng tôi ra vế mà từ Bắc vô Nam chưa ai đối được hoàn hảo về mặt nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nếu các bạn trong bàn giải được, chúng tôi cá độ một chầu nhậu thả giàn”. Vế đối ra như sau: “BATA đi giày vải” Phải thú thật là vế ra quá độc. Bởi băng “Hà Nam Ninh” của Trần Mạnh Hảo gồm đúng 3 người, mà cả 3 đều đi giày vải, và giày vải đều mang hiệu BATA. Thế là anh em chiến hữu đều hướng mắt về phía tôi. Trong tình thế chỉ mành treo chuông, tôi gật đầu cái rụp. Sau 15 phút động não nhằm xác minh một đơn vị tiểu thủ công nghiệp mang tên “Đại Chúng” chuyên sản xuất dép râu ở Chợ Lớn, tôi hùng hồn đứng dậy đối lại như sau: “ĐẠI CHÚNG lết dép râu” Câu đối lại đã quá rõ ràng. Khi ba cán bộ đi giày Bata thì đám đông đại chúng nghèo khổ đành phải mang dép râu lết bánh. Thế là sau một hồi tranh cãi gọi điện thoại bàn xác minh cơ sở sản xuất dép lốp Đại Chúng có thật hay không thì băng Trần Mạnh Hảo đành phải chung độ chứ còn phải hỏi. Cũng trong giai thoại về câu đối, nhân đây tôi nhắc chuyện này như một nén nhang thắp tặng linh hồn hai vị thuộc giới văn nghệ đã khuất. Đó là hai nhà thơ trào phúng Tú Rua và bác Cử Tạ vốn là hai nhân vật nằm trong hai câu đối của tôi. Chuyện xảy ra vào cuối thập niên 80 khi tôi và Lê Dụng (con trai cố nhạc sĩ Hoàng Việt) đến nhà Tú Rua chơi. Nhà thơ trào phúng Tú Rua vừa là chủ tiệm may đắt khách vừa là một cộng tác viên đắc lực của báo Văn Nghệ TP nơi Lê Dụng công tác. Trong lúc trà dư tửu hậu chén tạc chén thù ông chủ tiệm may Tú Rua cao hứng phán một câu “Nghe đồn Bùi Chí Vinh có kh ả năng ứng tác về ca từ thi phú cổ điển. Vậy ông có ngon làm hai câu đối nói về chí khí của Tú Rua tôi trong sáng như sao Tua Rua trên bầu trời đêm thì tôi sẵn sàng đãi ông và Lê Dụng suốt một ngày khắp các quán Sài Gòn”. Lời phán của Tú Rua như một tiếng sét đánh ngang mày. Mà đã là sét đánh thì nháng lửa và tung tóe như sao. Bất giác tôi liên tưởng đến bác Cử Tạ phụ trách mục “Ôn Cố Tri Tân” trên báo Long An cuối tuần thường hay bốc thuốc Đông Y ở khu Ông Tạ. Tôi nháy mắt với Lê Dụng như một nhân chứng và xuất khẩu thành…hai câu đối như sau:TÚ RUA “rua” SAO RUA CỬ TẠ tạ ÔNG TẠ Tôi thấy Lê Dụng khoái trá còn Tú Rua lặng người. Trong ba từ “rua” của vế trên thì chữ “rua” thứ nhì là tiếng Pháp có nghĩa là “bắt tay”. Tương tự trong ba từ “tạ” của vế đáp thì chữ “tạ” thứ nhì thuộc tiếng Hán có nghĩa là “vái chào”. Và kết quả là chúng tôi say xỉn quắc cần câu như thế nào có lẽ các bạn cũng hình dung ra được. Cũng trong thập niên 80 tôi thường xuống khu Ông Tạ giao du với gia đình nhà văn Lưu Ngũ và các hảo hớn anh chị sống ngoài vòng pháp luật ở khu vực đó. Lưu Ngũ xuất thân là cựu trung úy Biệt Động Quân của quân đội Sài Gòn sau giải phóng đi học tập cải tạo và trở thành nhà văn bất đắc dĩ nhờ đoạt giải văn học thành phố năm 1976 – 1977 với truyện dài VŨNG LẦY. Anh chán ghét chiến tranh đến mức độ chỉ muốn làm con người, nhưng làm con người giữa thời đại “bo bo” và “xuyên tâm liên” thì quả khó làm sao. Trong một đêm nhậu đã đời với những kẻ “Đảng nghi ngờ, nhân dân chú ý” chúng tôi đã đi lang thang trên đường phố chỉ toàn xe đò chạy bằng than, nhìn thấy những chiếc xích lô kiếp ngựa thồ mà phu xe toàn là cựu chiến binh bộ đội lẫn quân đội chế độ cũ, chúng tôi tiếp tục nhìn thấy những giọt lệ ứa ra từ các mệnh phụ phu nhân, các tiểu thư nghèo khổ phải “đứng đường” đón khách kiếm tiền độ nhật. Bài thơ SINH NGHI HÀNH mở đầu một giai thoại truyền khẩu sau này ra đời từ đó: SINH NGHI HÀNH Sinh nghi ta viết một bài hành Vợ nghi chồng, em út nghi anh Cha nghi con cái, bè nghi bạn Thủ trưởng thì nghi hết ban ngành Láng giềng dòm ngó nghi hàng xóm Ngoài đường nghi phố chứa lưu manh Ngay ta khi viết bài in báo Cũng nghi mình kiếm chác công danh Trời ơi, mọi chuyện sinh nghi thật Chén kiểu thường nghi kỵ chén sành
Thời buổi công hầu như chén cứt Thiếu chó, mèo ăn cũng rất nhanh Mèo ăn cho chó leo bàn độc Vừa sủa vừa nhai riết cũng rành Trẻ con khát sữa, ai cho bú Vú mẹ gầy, sâu rúc nồi canh Quang Trung bỏ núi Tây Sơn xuống Hoảng hốt vì gương vỡ chẳng lành Nguyễn Du chỉ một đêm dạo phố Đoạn Trường ngồi viết lại Tân Thanh Thúy Kiều phát triển nhiều như thế Thảo nào đất nước hóa lầu xanh Nhà tù phát triển nhiều như thế Kẻ sĩ làm sao dám học hành
Ta làm thơ mà lòng đứt ruột Suốt đời bao tử chạy loanh quanh Lãnh tụ nói “đói quên nghi kỵ” Ơn ấy ngàn năm sáng sử xanh Trước khi tạm ngưng phần đầu bài viết GIAI THOẠI CỦA THI SĨ này, tôi thiết tưởng không có gì ý vị hơn khi nhắc đến một ông bạn phương xa là Nguyễn Lương Vỵ. Hồi còn ở trong nước chưa định cư ở Mỹ, Nguyễn Lương Vỵ sống cùng địa phương với tôi và những lúc buồn bã cô độc, anh thường ghé nhà rủ tôi nhâm nhi chén rượu quên sầu. Anh buồn vì một lý do cực kỳ giản dị: anh là một con người chứ không phải một con thú hoặc một cỗ máy. Thậm chí anh còn rung động nhanh hơn con người bình thường một bậc, bởi anh là… thi sĩ. Nguyễn Lương Vỵ thường ngồi bứt tóc trong lúc đánh cờ tướng. Đánh xong bàn cờ là tóc anh rụng như mưa. Anh sống nửa dại nửa khôn nửa tỉnh nửa điên như thế nên phải tự giải thoát mình trong triết lý Phật Giáo. Mỗi lần say xỉn anh thường thuyết giảng cho tôi nghe về tiểu thừa đại thừa, về sắc sắc không không, về cõi luân hồi sát na sát khí… để cho tôi “choáng” mà bớt quậy. Nào dè tôi quậy còn tưng bừng hơn. Tôi có tặng anh bài thơ sau đây trươc khi anh sum họp gia đình bên Mỹ: PHẬT SỐNG Chư huynh bàn về tu luyện Đứa đại thừa, đứa tiểu thừa Đứa nào cũng sắp thành Phật Chỉ mình ta còn gươm khua
Đời này nói đến hơn thua Biết bao giờ cho hết chuyện Ta thấy chư huynh yêu chùa Cũng là tự thân bảo hiểm
Nhưng tu như vậy còn kém Biết khôn lựa gốc bồ đề Có người tu hang Pắc Bó Sau này thành Phật sướng ghê! 7 - 2008 GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, PHẦN 2
Khi đặt bút viết GIAI THOẠI CỦA THI SĨ tôi không hề nghĩ rằng đây là bài đầu tiên vén màn cuộc đời hoặc hồi ký cá nhân của người viết. Chỉ đơn giản cảm thấy ngứa ngáy tứ chi cảm thấy miệng cần nói ra những điều mình biết được cho nhẹ lòng để đánh tan một số nghi hoặc từ phía người đời. Đơn giản chỉ là như thế. Tôi luôn luôn chủ trương viết về cái đẹp của các nhân vật mình đề cập v cố gắng không đá động đến phần u tối, phần “sống để bụng chết mang theo” của họ. Tôi quan niệm đã coi một người nào đó là bạn, là huynh đệ thì tôi sẽ chỉ chơi với phần ưu điểm mà họ có. Còn chính quyền và ai đó chụp mũ, kết án hành vi của những người tôi đề cập thì là chuyện thiên hạ. Tôi không quan tâm. Tự truyện của tôi chẳng những không đẩy bất kỳ ai đến chân tường mà ngược lại thanh lọc chất người và chất thú dưới ánh mặt trời. Thanh lọc và chiến đấu với bọn bất lương quen thói dìm kẻ sĩ lẫn tráng sĩ xuống tận đáy xã hội .Trên cơ sở đó tôi bắt đầu cuộc ghi chép văn minh và vệ sinh cho phần hai của bài viết này. Đó là khoảng thời gian đẹp đẽ tôi có cơ hội giao du với các chính khách, thân hào nhân sĩ, các kỳ nhân quái khách trong những lãnh vực khác nhau.
Những năm đầu sau giải phóng khi còn phụ trách biên tập trang văn nghệ cho báo Tuổi Trẻ, tôi có chơi với một người bạn công tác tại Thành Đoàn xuất thân từ phong trào công giáo Thanh Lao Công tên là Nguyễn Trì tự Trương Hùng Thái. Nguyễn Trì tuy làm cách mạng nhưng có máu giang hồ hảo hớn mê truyện Bình Xuyên, truyện 108 anh hùng Lương Sơn Bạc hơn là mê “Thép Đã Tôi Thế Đấy” của Paven. Tôi thường xuống khu Bà Quẹo, Bình Hưng Hòa ngao du sơn thủy cùng Nguyễn Trì và đọc thơ uống rượu cho bá tánh hâm mộ nghe. Trong một lần say khướt, hai đứa tôi kéo ra quán ngã tư miệt Tân Kỳ Tân Quý uống nước chanh “giải cảm”. Không ngờ ở bàn kế bên một đám anh chị sống ngoài vòng pháp luật đang cụng ly bàn chuyện làm ăn, tất cả đều cởi trần xâm mình vằn vện và chửi thề ỏm tỏi. Sau đợt chửi, do chia chác không đều hay sao đó, một vỏ chai bia bị đập bể toang và hai cây mã tấu được thẩy lên bàn cái rầm. Không khí căng thẳng như sắp xảy ra một trận huyết chiến. Tôi và Nguyễn Trì đều hồi hộp thì … một kẻ đẹp trai lầm lì nhất trong bàn gầm lên như sư tử hống để tạo sự chú ý rồi lẳng lặng cầm ly rượu xây chừng vừa uống cạn đưa lên miệng nhai rôm rốp như nhai bánh tráng. Anh chàng nhai hết nửa ly thì lè lưỡi ra cho đồng bọn thấy mớ mảnh thủy tinh vụn nhọn lễu, xong xuôi tiếp tục chiêu một ngụm rượu ực gọn xuống bao tử và nhai tiếp nửa ly còn lại với hai tròng mắt đỏ ngầu. Khỏi phải nói, đám anh chị há hốc mồm kinh hãi mạnh ai nấy thu “đồ nghề” rút lui có lễ độ chứ sao. Bởi đối với một kẻ dám nhai ly khinh thường tính mạng mình thì chuyện nhai xương đối thủ chỉ là đồ bỏ.
Lúc ra về Nguyễn Trì thều thào với tôi “Thằng đó có võ gồng hoặc võ bùa làm bọn kia sợ chết khiếp”. Tôi bóp mạnh vào tay Trì lầm bẩm “Tao sẽ nhai được như thằng đó. Chỉ có cách đó thì đụng độ mới bớt đổ máu”. Đã nói là làm. Trở về trụ sở cơ quan ở số 12 Duy Tân (bây giờ đổi thành đường Phạm Ngọc Thạch) đêm nào tôi cũng tập nhai ly. Tôi nhai hết những chiếc ly xây chừng nhỏ xíu mà chị hậu cần không hề hay biết. Tôi nhai rồi phun ra chứ không nuốt những mảnh thủy tinh vào bụng. Mới đầu tôi có bị đứt lưỡi, rách môi, trầy nướu tóe máu nhưng dần dà rút được kinh nghiệm, mỗi lần cắn ly tôi cho vành ly chỉ chạm vào phần cứng áp lực giữa hai hàm răng. Khi ly bể toang, tránh phần môi dưới và phần tay cầm bị chỗ nứt xé toạc. Tôi đã nhai từ những chiếc ly nhỏ, ly mỏng dính cho đến những cái ly cối dành uống bia dày cộm. Tôi còn thí nghiệm qua nhai chén sành, chén kiểu, tròng mắt kính… và đều thành công. Có nghĩa là “trăm hay không bằng tay quen” chẳng có bùa ngải, võ gồng, thần quyền nào cả. Nói là nói vậy nhưng để có hứng thú nhai ly, trong bàn nhậu bắt buộc phải xảy ra biến cố. Khi đó tôi tu rượu ừng ực, cơn hứng nổi lên, men nồng bốc hỏa…tôi gần như bị “nhập” trước mắt bè bạn hoặc kẻ thù. Lúc đó thay vì thượng cẳng chân hạ cẳng tay dễ bị tổn thương, tôi đã làm cho chiến hữu khâm phục hoặc kẻ thù im phăng phắc. Chẳng những nhai mà tôi còn nghiền vụn những mảnh thủy tinh nhọn lễu thành cám và nuốt gọn với ý niệm trong đầu “bản thân thủy tinh vốn dĩ là cát mà ra, cát cát cát…”. Tôi đã sống và nhai ly một cách “cõi trên” như thế khi gặp lại Nguyễn Trì khiến hắn hoảng hồn. Những người khác trong giới văn nghệ chứng kiến năng khiếu quái đản đó của tôi cũng không ít, kể cả dân anh chị giang hồ…
Hơn 15 năm trước tôi và Nguyễn Quốc Chánh đã từng “cứu bồ” nhà thơ Hội Văn Nghệ Cần Thơ Võ Minh Đường, phóng viên báo Tuổi Trẻ Nguyễn Ngọc Vinh trong một chầu nhậu tại quán số 43 đường Đồng Khởi với nội dung “Đường và Vinh bị đám thủy thủ viễn dương và lũ con ông cháu cha đời mới ăn hiếp”. Thế mà Nguyễn Ngọc Vinh sau này cao hứng bày đặt “test” tôi nhai ly tại quán Trống Đồng thuộc khuôn viên Tao Đàn. Bạn bè đã thích thì chìu ngay. Trước sự chứng kiến của khá đông anh em văn nghệ chiều hôm đó tôi đã xỉn quắc cần câu để “nhai” và “nuốt” phân nửa ly bia cối dày cộm chỉ chừa phần đáy và phần tay quai ly. Sẵn đà phấn khích cao độ tôi đã nhai tiếp cặp kính mát của Ngọc Vinh rồi nhả gọng ra, và đến giờ này tôi vẫn còn ân hận…Tôi ân hận bởi những chuyện tầm ruồng trẻ con bồng bột không cân xứng với chí hướng của một kẻ làm thơ dám lập ngôn và đương đầu với những cái lớn hơn trong cuộc đời. Đến giờ này trong bụng tôi đã nuốt tương đương “4 ly lớn thủy tinh” cộng thêm một trận xuất huyết dạ dày suýt qua đời tại bệnh viện Saint Paul chỉ vì đống mảnh chai vớ vẩn. Tôi đã nằm hôn mê 2 ngày 2 đêm tại Saint Paul, được linh mục làm phép Xức Dầu Thánh dành cho người hấp hối, với sự túc trực của bà mẹ nghèo “có công với cách mạng” rưng rưng nước mắt. Có lẽ khi viết những dòng này tôi sẽ từ bỏ luôn ý niệm “biến thủy tinh thành cát” như lời tụng thầm trong mỗi lần nhai.
Sự khủng hoảng lý tưởng của tôi trong giai đoạn đó được thể hiện qua bài thơ LỘ BẢN CHẤT thường được mọi người yêu cầu đọc lên mỗi lần đối ẩm:
LỘ BẢN CHẤT
Tất nhiên đây không phải là lần đầu Anh đã cư xử với em như một người phàm tục Dù thân thể anh không có gì xuất sắc Trán không triết học giống Ăng Ghen,đầu không được hói giống Lênin Sự dũng cảm của anh có khi trở thành phản động với Paven Và thần kinh anh “mát” làm buồn lòng Các Mác Nói chung anh là thằng cha có tử vi không đạt Thầy tướng ở Lăng Ong mới liếc đã thở dài Cha mẹ sinh con không ai muốn con gầy Nhưng anh ốm nhách đến nỗi thành bất hiếu Ai cũng muốn người yêu mình có nụ cười hàm tiếu Nhưng anh đã cười méo mó rất khó coi Chưa kể những đêm say xỉn đã đời Anh rất giống kẻ tình nghi hình sự Anh cũng hay “kên xì po “ với đám du côn ngoài chợ Và thích so găng với những kẻ cầm còi Em chỉ cần sáng trí một chút thôi Sẽ thấy anh xa huy chương mà rất gần tù tội
Nhưng đây không phải lần đầu anh lại nói Mỗi chúng ta đều có cuộc sống của mình Đừng đem nỗi buồn tham nhũng cùng anh Rồi hà tiện sự hồn nhiên cần thiết Anh không phải là cái phao “Acsimét” Để em bám vào lơ lửng đời nhau Anh càng không phải là một con sâu Lợi dụng tình yêu để thành chú bướm Trời sinh hai tay anh dài như vượn Vừa để quàng vai vừa để thượng đài Trời sinh hai chân anh lắm vết chai Đủ đi bộ và đủ tìm nhà trọ Buồng phổi anh cháy dần vì thuốc lá Trái tim anh hằng khốn nạn vì yêu Anh có cái đầu thì thơ chiếm mất tiêu Khiến bao tử cứ loét ra vì rượu Đó là những điều mà nếu em tham dự Đừng bao giờ xâm lược đến đời nhau Không ai ưa bọn Hồng Vệ Binh mới lớn chút nào: “Em ơi dang ra cho anh làm cách mạng Nhích lại gần anh là mất Đoàn mất Đảng” Nhưng cũng không ai ưa thứ ái tình ăn trộm An cướp ăn xin ăn giựt ăn mày Bởi vì ái tình đâu phải dĩa trái cây Mà lúc tim đói há mồm ra cắn
Erich Segan nói “Yêu là đừng hối hận” Anh cũng tiếp lời: Yêu là phải chịu chơi Lúc yêu nhau mình đã rất lắm lời Nên lúc đối thoại em làm ơn tiết kiệm Ở đời sống anh là thằng gác kiếm Thì với ái tình anh không muốn rửa tay Đời sống gờm nhau ngôn ngữ “tao mày” Trong tình ái gọi tiếng “em” mát ruột Ở đời sống người ta cần phong tước Trong ái tình anh chỉ thích làm dân Em là Thảo Bích Dung Phương Nhạn Thu Vân Kim Đào Liễu Phụng Giang… gì cũng mặc Miễn là chúng ta tôn trọng ngầm nguyên tắc Anh là đàn ông, em là đàn bà Chúng ta khác nhau từ lúc lọt lòng ra
Nên đây không phải lần đầu anh phẫn nộ Nhưng trong tình yêu nếu em làm toán đố Thì xin mời em mai cắp sách đến trường Anh vốn sợ giáo điều như sợ bảng cửu chương Đừng xoa đầu anh như xoa đầu đứa trẻ Đừng bắt chước nữ hoàng đi săn nô lệ
Đừng để anh phải chửi tục thật kỳ Thà mang tiếng Mã Giám Sinh còn hơn là ôm hận Trương Chi!
Cũng cần mở ngoặc đơn chỗ này, giữa một xã hội mà tuổi trẻ không dám yêu nhau, sẵn sàng vì địa vị mà sống giả dối với nhau theo kiểu “em ơi dang ra cho anh làm cách mạng, nhích lại gần anh là mất Đảng mất Đoàn” như thế, tôi đã sống trong cảnh hiểm nguy rình rập thường xuyên. Tại nhiều quán nhậu khác nhau tôi đã từng bị đám xã hội đen lẫn xã hội đỏ bao vây đe dọa bằng bạo lực “hội đồng”, từng bị vài tên “tiểu sát tử” xông qua bàn khiêu khích với ý đồ buộc tôi phải tử chiến để gài vào hành vi phạm pháp dân sự, nhưng tôi đều vượt qua những “lỗ chân trâu” đó. Tôi không dại gì “thí mạng” mình trong những trò hề chính trị rẻ tiền. Có lẽ các anh Cung Tích Biền, Hồ Thành Đức hiểu sự liều lĩnh của con người tôi hơn ai hết, khi tôi đi bộ đội về phép dám mang lựu đạn của đơn vị để đi cầm cố cho các anh lấy tiền đãi nhậu bạn bè. Dù sao ba cái chuyện “anh hùng rơm” ấy giờ đã xưa như trái đất.
Thời điểm sau khi bị buộc cởi áo lính cũng là thời tôi thê thảm nhất. Đi đâu tôi cũng nghe đồn rằng cấp trên “cấm đăng bài Bùi Chí Vinh trên báo bằng… miệng” nếu kẹt quá vì phải phục vụ yêu cầu của quần chúng thì “chỉ đăng Thơ Tình và duy nhất Thơ Tình”. Tôi phải tồn tại mưu sinh bằng một nghề mới là… làm thơ bóng đá. Thuở ấy Hồ Nguyễn phụ trách tờ Long An Bóng Đá và tờ Long An Cuối Tuần rất ưu ái tài nghệ làm thơ đa hệ và hoàn cảnh bi đát của tôi bèn đề nghị cứ mỗi số báo ra tôi phải có một bài thơ về thể thao hoặc trào phúng hài hước. Nhờ vậy tôi đã chế tạo thêm một trường phái mới về thơ là THƠ BÓNG ĐÁ với hơn 300 bài thơ đã đăng báo kể từ 1978 đến nay. Hơn 300 bài thơ trên đã được nhà báo Huy Vĩnh công nhận như một thứ kỷ lục Việt Nam trong cuốn GUINESS THỂ THAO do anh là tác giả. Những bài thơ thành một loại biên niên sử ghi chép các giải World Cup, Euro lẫn các giải vô địch Việt Nam mà sau này nếu có dịp tôi sẽ in ra. Bây giờ tạm giới thiệu cùng các bạn hai bài thơ về bóng đá tiêu biểu:
ANH VÀ QUẢ BÓNG
Đời sống có gì hơn quả bóng Tay trơn không níu được bao giờ Hạnh phúc có hơn gì quả bóng Lủng mấy lần xì hết ước mơ
Vậy mà anh vẫn rất trẻ thơ Thấy bóng lăn là chân động đậy Bóng lăn đến một nơi nào vậy Sao bàn chân mãi ở bậc thềm?
Bàn chân có lúc cạnh chân em Khi hai đứa dìu nhau trên sỏi Bàn chân có lúc lạ chân em Khi trên cỏ: banh và đồng đội
Biết nói thế nào về cái lưới Về xà ngang, cột dọc, khung thành Hay chỗ đó lọt vào nông nỗi Quả bóng tình em buốt ngực anh
Quả bóng tròn như thể công danh Anh chụp suốt một đời không dính Chỉ thương thầm những cọng cỏ xanh Không lớn nổi trên sân mùa lạnh
Sau trận đấu khán đài hiu quạnh Như Charlot, anh hát một mình Có ngọn cỏ biết yêu buồn quá Níu giày anh để đến thăm em
HOAN HÔ BRAZIL
Không riêng mình anh, tất cả đã sẵn sàng Mọi nhà thơ bắt đầu cầm lấy viết Các nhạc sĩ đều chuẩn bị dây đàn Những phòng tranh sửa soạn trưng bày không kiểm duyệt
Bảy ngành nghệ thuật đã họp nhau ra nghị quyết Phiên họp cuối cùng là hai chữ: Brazil “Nghệ thuật thứ tám” khiến hành tinh khủng khiếp Brazil Brazil như máu thịt của mình
Brazil Brazil trống ngực đập bình bình Khi quả bóng lăn, cầu thủ đều chơi nhạc Quả bóng rơi đều lên mỗi trái tim Rap Rock, Disco phải chuồn đi chỗ khác
Quả bóng Brazil làm loài người biết hát Anh biết làm thơ và em biết nhảy đầm Quả bóng Brazil cho địa cầu bóng mát Mọi thứ đầu hàng kể cả chiến tranh
Quả bóng Brazil lặn trong ngực anh Lúc nổi lên thành bài thơ em đang đọc Em đã biết gì về sông Amazon Nơi mặt trời Brazil sừng sững mọc
Ở đó có đứa bé da đen ôm mặt khóc Đập bể máy thu thanh vì quả bóng bị “xì” Để mười năm sau thành ông vua thứ nhất Mở đầu thời kỳ vương quốc Pêlê
Ở đó sân gôn trên đường phố vĩa hè Những “Pêlê nhỏ” mê banh hơn vào lớp Học kiểu nhà trường, tiền đạo dễ bị “me” Không thể sút những đường banh khó nhất
Sút Parabol, sút Hypebol, sút nổ tung hình học Pythagore sống lại cũng hoảng hồn Đội đầu căng, đội đầu thẳng, đội đầu chìm, đội đầu khép góc Socrate có đội mồ cũng chẳng thể đội đầu hơn
Ở đó em ơi không có hoàng hôn Tên họ Vava, Didi, Garincha… có nghĩa là buổi sáng Cúp “Nữ Thần Vàng” trở thành của hồi môn Cho kẻ cầu hôn ba lần chiến thắng
Ở đó người ta quyên sinh sau mỗi lần bại trận Các cô gái gọi Pêlê và nguyền rủa căm thù Quốc Hội ngưng họp chuyển sang phần “quốc táng” Cờ rũ treo ba ngày, toàn Nam Mỹ âm u
Anh sẽ kể với em về trận thua Uruguay Bảy người chết vì đứt tung mạch máu Hàng ngàn người phát điên, hàng triệu người mếu máo Bệnh viện thiếu lương y vì bác sĩ cũng… từ trần
Quả bóng chính là tôn giáo của Brazil Đó cũng là đạo mà anh đang theo đuổi Em đừng ngạc nhiên trên chiếc giường đám cưới Sẽ có quả banh da làm biên giới giữa hai người
Chỉ trừ khi em biết đặt bóng vào môi Bằng không chắc anh sẽ suốt đời ở góa Cám ơn Pêlê và “một ngàn một trăm trái phá” Dạy anh biết yêu em và phát triển tín đồ
Sau màn bóng đá là tiếng đồn về khả năng chuyển hệ từ thơ sang văn xuôi của tôi. Phải công nhận rằng khi dựa lưng vào chân tường tôi chuyển hệ thật nhanh, phản xạ nghề nghiệp để mưu sinh và để tự tồn tại. Lúc sinh con trai đầu lòng năm 1990, NXB Long An qua trung gian Mặc Tuyền đặt hàng tôi viết tiểu thuyết YỂU ĐIỆU THỤC NỮ. Đây là tiểu thuyết đầu tay của tôi được hoàn thành trong vòng đúng 15 ngày. YỂU ĐIỆU THỤC NỮ hao hao như một kiểu tự truyện, vừa ra đời lập tức được bán hết, được một NXB khác tái bản, và được Hãng Phim Giải Phóng kết hợp với Đài Truyền Hình Cần Thơ thực hiện thành phim nhựa màu 35 ly Agfa đầu tiên trong thời điểm đó. Phim do ông Huy Thành đạo diễn với dàn diễn viên trẻ tuổi ăn khách Lê Công Tuấn Anh, Thành Lộc, ca sĩ Ngọc Sơn, Diễm Hương, Kim Khánh, Thế Anh… chiếu rộng rãi khắp các rạp trên toàn quốc. Phim YỂU ĐIỆU THỤC NỮ sau đó được một Việt Kiều mua đứt bản quyền đem sang Mỹ kinh doanh và coi như tuyệt bản ở Việt Nam. Sẵn đà thắng lợi, hàng loạt tiểu thuyết của tôi với đề tài tương tự về giới trẻ tiếp tục xuất hiện trên diễn đàn các báo cho tuổi mới lớn qua hình thức đăng Feuilleton, xuất bản thành sách và sau đó làm phim như TÓC TIÊN, CỎ VEN ĐƯỜNG, MÊNH MÔNG TÌNH BUỒN…
Năm 1994, ông Nguyễn Thắng Vu giám đốc NXB Kim Đồng lúc đó có vào Sài Gòn gặp tôi và đưa nguyên tác tiếng Đức cuốn TKKG của nhà văn Stefan Wolf lẫn bản dịch tiếng Việt của dịch giả Vũ Hương Giang, đề nghị tôi phóng tác thành bộ truyện trường thiên thiếu niên giang hồ võ hiệp mang hơi hướm ngôn ngữ và cuộc sống thời kỳ hiện đại. Không hiểu ai giới thiệu tôi cho ông, nhưng qua sự tín nhiệm của ông Nguyễn Thắng Vu, tôi thấy có bổn phận phải đưa đến cho độc giả trẻ tuổi Việt Nam đang thiếu thốn thức ăn tinh thần một bộ truyện bổ ích nói lên được ước mơ, khát vọng hành hiệp của các em. Tôi liên tưởng đến phong cách dịch tài hoa của Ngọc Thứ Lang qua cuốn BỐ GIÀ của Maria Puzzo mà tôi từng mê đắm. Thế là 70 cuốn TỨ QUÁI TKKG ra đời gây sóng gió dư luận trong suốt 2 năm với số bản in trung bình mỗi cuốn là 60 ngàn bản hằng tuần, phá mọi kỷ lục về số lượng phát hành lúc đó (và tới tận bây giờ). Sau thành công bất ngờ của TKKG, ông Nguyễn Thắng Vu tiếp tục đặt hàng tôi bộ truyện đặc sản Việt Nam mang tựa NĂM SÀI GÒN và bộ truyện này trong năm 1997 cũng tiếp tục gây chấn động dư luận với 40 cuốn, mỗi cuốn ra hằng tuần có số lượng in trung bình 20 ngàn bản, cũng là con số kỷ lục của một bộ sách Việt Nam cùng với KÍNH VẠN HOA của Nguyễn Nhật Ánh. Bộ truyện NĂM SÀI GÒN đã thực hiện thành phim truyền hình năm 2006 – 2007 với bước đầu 15 tập mang tên NGŨ QUÁI SÀI GÒN chiếu trên màn ảnh nhỏ khắp cả nước. Bí quyết duy nhất của tôi khi viết những bộ truyện bán chạy có lẽ không khác gì người tù vượt ngục Henry Charriere phát biểu với báo chí khi viết cuốn PAPILLON. Đó là “Nếu viết hồi ức về cuộc đời kiểu đó có nhiều người mua thì tôi dư sức viết được”. Nghe thì đơn giản nhưng để đạt khái niệm “dư sức viết được” có khi phải đổi bằng máu và nước mắt suốt cả cuộc đời.
Cũng trong thời gian này tôi còn mở màn cho đầu sách truyện tranh màu của NXB Kim Đồng bằng 15 cuốn HẢI ĐẠI BÀNG nói về tuổi thơ của những đứa trẻ giống tôi ở những khu xóm bùn lầy nước đọng. Tôi chỉ đáng tiếc bộ truyện NĂM SÀI GÒN vì những lý do khác nhau phải “chết non” ở tập 40, trong khi tôi chuẩn bị cho năm nhân vật của mình đi chu du vòng quanh thế giới cho đến cuốn 70. Bộ truyện kết thúc đột ngột kéo theo bao nhiêu là thư từ và nước mắt của những độc giả trẻ tuổi khắp ba miền đất nước đổ về tôi như một lời trách móc.
Năm 1994 với tôi có khá nhiều biến cố. Ngoài chuyện “ăn nên làm ra” trong lãnh vực văn xuôi, tôi còn tham dự Hội Nghị Nhà Văn Trẻ toàn quốc tổ chức tại Hà Nội. Theo lịch trình của Ban Tổ Chức đại hội thì tôi và Phan Thị Vàng Anh sẽ phát biểu về thơ và về văn. Trên diễn đàn, thay vì đọc diễn văn tôi lại hùng hồn bày tỏ nguyện vọng khí phách của một người cầm bút cô độc qua bài thơ TUYÊN NGÔN THI. Bài thơ làm choáng váng hai hàng ghế đầu của giới lãnh đạo chính trị, văn hóa ngồi phía dưới. Nhưng ngược lại tạo nên sự phấn khích tột độ chưa từng có của đa số những người cầm bút trẻ hôm đó. Tôi đã nhận được những tràng pháo tay vang dội, những cuộc đề nghị phỏng vấn riêng của báo chí, truyền hình, tuy nhiên điều quan trọng nhất là bài TUYÊN NGÔN THI không bao giờ được xuất hiện nguyên văn trên mặt báo. Nó mãi mãi tồn tại như một giai thoại độc nhất vô nhị tại thủ đô Văn Miếu cho đến lúc mạng Internet xuất hiện trên toàn cầu:
TUYÊN NGÔN THI
Bằng sáng tác của mình – Tôi đánh tan những điều nghi hoặc – Tôi trồng cỏ khắp nơi trên mặt đất – Chuẩn bị cho cổ tích loài bò – Tôi nắm tay Whitman, tôi quàng cỏ Rousseau – Đem cỏ bao vây triều đình và nhà ngục – Đem cỏ tấn công bọn vua quan phàm tục – Làm rêu mọc đầy râu, làm hoang phế mọi lâu đài – Tôi sẽ dùng cỏ trong thơ đeo lủng lẳng ở vành tai – Thay các trang sức, các huân chương hèn mọn – Tôi sẽ tròng vào khuôn mặt háo danh một sợi dây thòng lọng – Được tết bằng cỏ mọc ở nơi mất vệ sinh duy nhất trên đời – Còn loài cỏ đẹp mà tôi hằng chúc tụng – Chính là vòng nguyệt quế thơ tôi.
Bằng sáng tác của mình – Tôi thực sự ăn mày phép lạ – Tôi thương Rimbaud, tôi mê Remarque quá – Các bạn đi bộ khắp Châu Au không có một mái nhà – Tôi cũng đã mõi giò trên lộ Nguyễn Du – Gối quỵ xuống lề đường Cao Bá Quát – Tôi đạp lên xương sườn hai nhà thơ Việt Nam có cuộc đời đầy bất trắc – Nghe nhói đau ở phía dạ dày – Thế kỷ trước tôi, ở Tiên Điền ở Quốc Oai, hai người đồng nghiệp – Tôi chắc đã từng tê buốt chỗ này đây.
Bằng sáng tác của mình – Tôi tăng tuổi thọ cho người sắp chết – Tôi giúp đỡ những ai thất nghiệp – Phát chẩn thi ca để kiếm việc làm – Với trẻ nhi đồng, tôi cẩn thận hỏi han – Xin được tháp tùng lên bầu trời mà Giê Su, Thích Ca dành cho con nít – Với đàn bà, tôi tỏ ra ưa thích – Xin được phiêu lưu xuống hỏa ngục nàng dành – Tôi đã cạo đầu và dài tóc rất nhanh – Đã khiếm nhã và cực kỳ lễ phép – Tôi đỏ tôi đen vô cùng khắc nghiệt – Cách ăn mặc trong thơ như y phục tắc kẻ – Nếu có lần nào áo quần đứt cúc – Đó cũng là lần tôi tập si mê.
Bằng sáng tác của mình – Tôi xuất bản không cần trang bị – Sách vở cung đình đang chờ cân kí – Tôi cân kí lô cái lưỡi của mình – Dù vua chúa triều thần tiểu tiện lên các phát minh – Dặn tôi uốn lưỡi bảy lần thì cho nói – Uốn một lần coi như tốt nghiệp nghề múa rối – Lần thứ hai đạt danh hiệu hát tuồng – Lần thứ ba chuẩn bị phong quan – Lần bốn lần năm thì tha hồ chức tước – Uốn đến lần cuối cùng hẳn quyền to cả nước – Vì cái lưỡi bẩm sinh đã bị bảy lũy thừa – Cũng may là tôi không biết dạ biết thưa – Nên cái lưỡi vần còn nguyên mùi vị – Mỗi lần lưỡi cong là nhảy ra thằng thi sĩ.
Bằng sáng tác của mình – Tôi nhổ nước bọt vào những điều lừa mị – Tôi hôn thiết tha người con gái nghèo làm đĩ – Và bạt tai đứa công chúa hợm mình – Tôi cho Lệnh Hồ Xung nói tục với Doanh Doanh – Và Trương Vô Kỵ gọi Triệu Minh bằng ả – Tôi theo phò người giang hồ quân tử – Và tẩy chay đám quyền quý nịnh thần – Tôi sẵn sàng đạp xích lô đến chỗ hẹn với tình nhân – Và mặc quần rách dìu nàng đi ăn phở – Tôi sẽ trò chuyện với nàng bằng ngôn ngữ dân đen mạt lộ – Và đối thoại với vua quan bằng ngôn ngữ thiên tài – Tôi sẽ làm cho các nhà bác học – Thấy mình còn cận thị trước tương lai.
Bằng sáng tác của mình – Tôi bắt tay bè bạn anh em – Bắt tay các tiệc tùng giai cấp – Cám ơn chút rượu về khuya cho tôi cảm giác – Cám ơn bữa ăn mẹ cha dưa mắm rau cà – Cám ơn những bài thơ sinh đôi sinh ba – Đẻ khó nhọc như từng lon gạo chợ – Cám ơn những người tôi yêu không thành chồng thành vợ – Và hỡi kẻ thù tôi nữa, cám ơn!
Cũng bài thơ TUYÊN NGÔN THI năm 1995 kỷ niệm 20 năm giải phóng một lần nữa tôi có dịp đọc tại Nhà Văn Hóa Thanh Niên thành phố khi cùng với 19 đồng nghiệp khác được biểu dương về sự nghiệp sáng tác văn học. Hôm đó có mặt các vị chức sắc, đầu ngành thành phố ngồi dưới, người bạn Đỗ Trung Quân trong vai trò MC đã cao hứng giới thiệu tôi lên đọc bài thơ mà anh gọi là “danh bất hư truyền” này. Một lần nữa bài TUYÊN NGÔN THI gây hiệu ứng dây chuyền mạnh mẽ với khán giả đến nỗi Đỗ Trung Quân bị “văng miểng”. Tôi nghe anh em văn nghệ đồn là họ Đỗ bị rờ gáy khuyến cáo còn tôi có quan chức đề nghị là “Nếu chịu chơi dám ăn dám nói như vậy thì trả lại ba triệu đồng giải thưởng cho nhà nước”. Trời đất, giải thưởng là do nhân dân đóng thuế mà ra (trong đó có cả tôi) ấy là chưa kể ba triệu bạc lì xì cho 20 năm lao động đổ mồ hôi chất xám của một thi sĩ thua xa số tiền hối lộ của một cán bộ bất lương mỗi ngày, thì xin lỗi… còn lâu tôi mới ngu ngốc nhả lại những đồng tiền xương máu của chính tôi từng đóng thuế.
Nhiều người cho rằng tôi có tài tiên tri. Họ nói rằng tôi có khả năng đoán việc sắp xảy ra cho vận mệnh đất nước từ những bài thơ thời sự mang tính dụ ngôn. Chẳng hạn các bài thơ như CON ĐĨA, TÂM SỰ CỦA NGƯỜI MÁY… Bài thơ CON ĐĨA tôi đã chớm thai nghén ý tưởng từ những chuyến viễn du ra Bắc, tiếp xúc với các giới thân hào nhân sĩ trí thức ngoài đó, để rồi thấy rằng dòng sông Bến Hải oan nghiệt hơn cả một cuộc chiến tranh 30 năm. Sự đứt khúc tạo nên hai chủ nghĩa xuất phát ngược chiều nhau không dễ gì hàn gắn chỉ trong vài thế hệ.Tôi xin chép bài thơ ra đây:
CON ĐỈA
Đất nước đứt làm đôi Như đứt đôi con đỉa Mỗi con lớn lên không hề ngắm nghía Phía phần đuôi đau nhức của mình
Lịch sử dùng phẫu thuật văn minh Nối hai chú ký sinh làm một Rồi thả lại vào ao nhưng đỉa không bơi được Bởi hai cái đầu quay hai hướng khác nhau
Đất nước tôi như hai phần con đỉa Dính liền bằng…lưỡi dao!
Năm 1994 ra Bắc tôi không còn cơ hội gặp Lưu Quang Vũ, người anh em giang hồ tài hoa quen biết sau giải phóng qua sự giới thiệu của Lưu Trọng Văn. Đơn giản là vì anh đã chết một cách bất đắc kỳ tử. Bất đắc kỳ tử đến độ cái chết của anh đến bây giờ vẫn còn là một dấu hỏi với quá nhiều lời giải đáp. Khi anh mất , tôi có làm vài câu thơ tưởng niệm về hai vở kịch nổi tiếng của anh là NHÂN DANH CÔNG LÝ và TÔI VÀ CHÚNG TA như sau:
CÔNG LÝ là một KÝ LÔNG Lúc cân, chẳng biết phải NHÂN DANH gì?
Mới đầu TÔI VÀ CHÚNG TA Đến khi màn khép TAO VÀ CHÚNG BÂY!
Một người cầm bút khác ngoài Bắc vô Nam tìm gặp tôi là nhà văn Bảo Ninh thành danh với cuốn NỖI BUỒN CHIẾN TRANH. Hôm đó cách đây hơn 15 năm, chiều mưa rả rích ở một quán nhậu trên đường Mạc Đỉnh Chi có tôi, Bảo Ninh, Nguyễn Trọng Tín, Vũ Ngọc Giao, Trần Hữu Dũng… Trong cơn say, hai kẻ hành khất chống nạng bán vé số rong ôm đàn guitar phím lõm hát bài nhạc SƯƠNG TRẮNG MIỀN QUÊ NGOẠI não nùng đến bàn chúng tôi chào mời khách. Tôi bàng hoàng bởi anh chàng cụt giò nghêu ngao vọng cổ có khuôn mặt bầu bĩnh chính là một người lính Sài Gòn cũ trong Xóm Lách mà tôi cư ngụ. Tôi kể chuyện đó cho Bảo Ninh, một người cầm súng ở chiến tuyến ngược lại. Cảm giác rờn rợn và liêu trai ấy đã giúp tôi hoàn thành bài thơ ĐÊM LÍNH CŨ đọc cho bạn bè, và sau đó chép vào sổ tay theo yêu cầu của Bảo Ninh. Không biết người bạn giang hồ phương Bắc giờ này còn lưu những bút tích đó hay không?
ĐÊM LÍNH CŨ
“Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm” Bài nhạc đầy cải lương nói về người lính Nam Bắc phân tranh, chiến hào Nguyễn Trịnh Điệu Habanara nón sắt úp trên đầu
“Sương trắng rơi vai tôi ướt rồi sao?” Vai ai ướt, Bắc Kỳ hay Nam Bộ? Đời lính thú lưu đồn quên cố thổ Một chữ lính viết hoa, bao ngôn ngữ đều thừa
Gặp lại bạn bè cũ vẫn như xưa Thằng nào cũng hát những bài ca tang chế Điệu Bolero như một lời trách khẽ Tiếng đàn đêm bỗng hóa tiếng than dài
Phải rồi tiếng đàn quen thuộc ở Chu Lai Nắp hầm đầy rêu ta ngồi bưng mặt khóc Nghe gõ nhịp điệu sênh tiền lóc cóc Nhạc ngựa reo thấp thỏm giọng nam trầm
Phải rồi tiếng đàn quen thuộc ở Chư Pông Dân “sinh Bắc tử Nam” không cần Trương Lương thổi sáo Thằng ca sĩ lính Cộng Hòa cụt đầu, cây guitar chảy máu Khán giả hét “xung phong” qua tiếng pháo ngậm ngùi
Phải rồi phải rồi, tiếng đàn quen thuộc ở đây thôi Thằng đang là đồng chí, thằng từng là chiến hữu Cũng tiếng đàn ấy tưởng xưa mà chẳng cũ Dù đứt một dây, gân cổ vẫn nghẹn ngào
Mười năm mới gặp nhau, mỗi đứa một cơn đau Cởi áo binh chủng sao hồn còn vằn vện Nói gì đây khi rửa tay gác kiếm Chỉ biết lặng im chờ thái độ tiếng đàn
Nhưng tiếng đàn của binh nhì thì không chọn lọc giống sĩ quan Lại Habanara, lại Bolero, lại những bài hát ấy Không phải Tango, không phải Valse quý phái Mà rất rưng rưng con mắt kẻ giang hồ
Giải phóng về ta bỏ súng làm thơ Bạn bè tàn phế phải ăn mày hát dạo Tiếng đàn từ đó trở thành ra giọt máu Máu đã ứa ra không thể ứa hai lần
Không thể quay đầu trước xương máu nhân dân Và đóng ngược vào đời mình đinh nhọn Cám ơn lời ca và tiếng đàn chưa muộn Đã đánh thức ta sau mười tuổi công hầu
Theo tôi, sự tiên tri và cảnh báo những bi kịch của thời đại không chỉ dành độc quyền cho cá nhân tôi mà là tài sản tinh thần chung của các thi sĩ có tài năng bẩm sinh, từng trãi vốn sống và chịu sự vùi dập sóng gió của định mệnh. Vấn đề là kẻ nào “dám ăn dám nói dám viết đầu tiên”. Những kẻ đi tiền phong trong lãnh vực thơ tiên tri đều có sứ mạng thiêng liêng như các thánh tông đồ trong Thiên Chúa Giáo hoặc các hành giả trong Phật Giáo. Họ có thể tử đạo vì thơ của mình nhưng tên tuổi họ mãi mãi bất tử trong lòng quần chúng.
Trong những người khuyến khích tôi làm thơ “thời sự” để lưu lại cho đời sau ngoài các bậc tiền bối như Trang Thế Hy, Sơn Nam, Kiên Giang, Phạm Thiên Thư, Cung Tích Biền… còn có những chính khách “VIP” như Trần Bạch Đằng, Huỳnh Bá Thành…
Năm 1981 khi rời khỏi bộ đội, tôi bắt đầu phát hiện những thằng “Cuội” trong các lãnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, văn hóa… Chúng tồn tại và phát triển bằng hệ thống vây cánh mới, vừa liên minh vừa sẵn sàng tiêu diệt lẫn nhau nhằm bảo vệ quyền lợi riêng. Chỉ tội nghiệp chú Cuội của Hằng Nga quá trong sáng trước bài thơ này:
CUỘI
Sáu năm ta mới rành chú Cuội Chê gốc đa, Cuội ở văn phòng Chê cuốc bộ, Cuội trèo xế hộp Ở rừng về Cuội sợ đau chân
Cuội quên hết muối mè, cơm nắm Thực đơn bảy món Cuội cười khà Căng bụng Cuội hô hào nghị quyết Kế hoạch nào cũng xạo bỏ cha
Ai cũng biết mặt trăng có Cuội Nhưng Cuội mặt trăng khác địa cầu Đứa nào Cuội “dạ dày dân tộc” Đẻ con không lỗ đít về sau!
Một bài thơ khác cũng mang tựa đề một chữ, được tôi đọc trong bàn nhậu của một Mạnh Thường Quân bất đắc chí thách thức tôi làm bài thơ về đề tài CỨT. Với vị đại gia bất đắc dĩ đó, bàn tiệc ê hề sơn hào hải vị chỉ tương đương một đống phân. Tôi đã khạc như sau:
CỨT
Con gì ăn không ỉa Cứt voi toàn bã mía Cứt chim lắm cào cào Cứt loài người ra sao?
Lấy giùm ta kính lúp Phân tích văn minh cứt Cứt nhiều nhờ ăn no Cứt ít nhờ bo bo
Đói thì đầu gối bò Bò mỗi thời mỗi khác Bò làm sao ra cứt Có cứt là có cơm
Thường ta rặn thấy rơm Trong rơm thấy thóc sạn Giận dạ dày khốn nạn Không ị ra bánh mì
Cục cứt nhiều trọng lượng Để dành cho vua quan Riêng cứt ta lõng bõng Phải thuộc về nhân dân!
Như đã đề cập về mối quan hệ của tôi với các chính khách như Trần Bạch Đằng, Huỳnh Bá Thành… Kỷ niệm tiếp theo xem như một nén nhang thắp viếng linh hồn hai người đã khuất. Năm 1988 tôi lập gia đình tổ chức đám cưới ở Hội Liên Hiệp Thanh Niên do Huỳnh Tấn Mẫm chủ tịch Hội làm “chủ xị”. Quan khách có cấp bậc cao nhất tham dự lúc đó là Trần Bạch Đằng đương nhiên ở cương vị “chủ hôn”. Bàn của ông Trần Bạch Đằng tức ông Tư Ánh có mặt nhiều vị lãnh đạo cấp Thành Phố. Lúc lên phát biểu, chú Trần Bạch Đằng có nhắc nhở vợ tôi rằng “Lấy thằng Vinh là con phải trang bị một khẩu súng để bóp cò lúc cần thiết”. Câu nói vừa hài hước vừa mang tính ẩn dụ đã thắt chặt tình chú cháu hơn bao giờ hết, thậm chí pha chút tình phụ tử bởi tôi là một đứa trẻ mồ côi cha từ năm 17 tuổi (cha tôi chết năm 1971 vì những vết thương do bị tra tấn trong nhà tù khi hoạt động cách mạng). Những lần đến nhà ông, lúc đi với Nguyễn Quốc Chánh lúc đi với vợ con, hai chú cháu đều tranh luận nhiều chuyện nảy lửa. Nguyễn Quốc Chánh khoái đấu khẩu với “chú Tư Ánh” về chính trị, còn tôi chỉ thích lạm bàn quanh vấn đề văn nghệ chuyên môn và nhân cách kẻ sĩ. Vài lần thấy chú Tư đăm chiêu trước sự phát biểu cực đoan của Chánh, tôi có quay qua hội ý với thím Tư (là cô Chơn, cựu Thứ trưởng Bộ Tư Pháp, vợ ông Trần Bạch Đằng) thì thím Tư Ánh cười hiền hậu “Không sao đâu con à. Thím rất thích được nghe tuổi trẻ phản biện về chính trị”. Khi tôi ví von Trần Bạch Đằng là một Nguyễn Trãi thời nay nhưng thiếu minh chúa Lê Lợi thì ông có vẻ chột dạ. Ông hỏi tôi “Mày nghĩ về Nguyễn Trãi ra sao?” thì tôi đọc bài thơ này cho ông nghe khiến ông rất hể hả:
SỰ NHẸ DẠ CỦA NGUYỄN TRÃI
Sử cho hay Nguyễn Trãi bị tru di Cốt đạo Nho mà không rành Khổng Tử Thân chưa tu đã muốn bình thiên hạ Trị quốc thua cái váy của đàn bà
Ta cũng muốn làm ông tướng bình Ngô Tưởng thời này khác thời xưa chúa đất Ngờ đâu minh quân chỉ yêu mến công thần Lúc hạt gạo vẫn còn nguyên hạt thóc
Gạo thành cơm để dành cho hoàng tộc Lúa nổi thóc trôi đám tiện dân nghèo Nghĩ mà thương những anh chàng đánh giặc Tuổi về hưu còn mài kiếm trăng treo
Ta đốt binh thư ra ngủ ở chuồng heo Sợ sự thông thái làm mình mê nghiệp bá Rồi lỡ tay đi cướp ấn công hầu Mùi cứt lợn lại chồng lên lịch sử
Chẳng thà một lòng quăng con trủy thủ Ngồi khạc thơ coi lũ cá hóa rồng Kìa Nguyễn Công Trứ xưa còn rành tục ngữ: “Cùng thì tắc biến, biến thì thông”.
Còn với sư huynh Huỳnh Bá Thành, tôi lại có nhiều kỷ niệm khác. Cuối thập niên 80 anh Huỳnh Bá Thành lúc đó là Tổng Biên Tập báo Công An TP lôi tôi về viết mảng văn hóa văn nghệ của tờ báo khi tôi đang thất nghiệp. Trong cương vị mới tôi đã làm được “rất nhiều chuyện” với anh, trừ chuyện thơ. Anh nói “Chú mày lo viết truyện dài Feuilleton và làm phim cho hãng Người Bảo Vệ mới thành lập của báo. Riêng THƠ ĐỜI thì cứ ghi chép theo kiểu thời sự hàng ngày để thế hệ sau này đọc và biết những gì xảy ra của nước ta thời điểm đó. Có điều chừng nào anh chết thì chú mày mới in THƠ ĐỜI nhé.”
Thưa hương hồn anh Huỳnh Bá Thành, tôi đã làm những gì anh khuyến cáo và dặn dò. Có lẽ dưới suối vàng anh hẳn còn nhớ những đêm anh em tâm sự cụng ly nhau, tôi đã làm anh khinh khoái và nhẹ lòng biết bao nhiêu trước những bài thơ theo thể Hành về nỗi đau cơm áo gạo tiền của nhân dân thống khổ. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin chép lại bài thơ phổ biến nhất anh đã từng nghe và được các nhạc sĩ giang hồ chuyển thành ca khúc với ca từ tam sao thất bổn. Đó là bài XÍCH LÔ HÀNH.
XÍCH LÔ HÀNH
Tưởng mình ta đạp xích lô Nào hay phố xá ngựa thồ như nêm Buộc cho ta miếng băng đen Để cho cặp mắt làm quen mù lòa Xỏ giàm vào mõm nữa cha Để cho số tuổi ta già theo răng Giật cương đi, hõi mấy thằng Ê sao nước mắt chợt lăn xuống cằm
Ta đi dụ khị người phàm Thấy huynh hiền sĩ từ quan lên rừng Dạ dày ta nhảy lung tung Nhảy dăm phút nữa dám khùng nghe cha Cũng may vừa tới ngã ba Cô em yểu điệu tà tà leo lên Lưng ta khòm giống cái yên Chổng mông em cỡi, mùi thiền nhấp nhô
“Ba đồng một cuốc, mại dzô” Có con ngựa đực vừa ho vừa gào Ta thồ ngang động hoa đào Thấy dăm kỹ nữ chém nhau giành bề Thồ ngang đống rác thúi ghê Thấy bầy tiểu tử chửi thề giành moi Thồ ngang khách sạn em ơi Chó ngồi ăn nhậu, còn người ăn xin
Nhưng mà chớ có rùng mình Tại ta kéo thắng chưa linh em à Gân chân lõm tựa ổ gà Mặt xương bụng lép đếch ma nào ngồi Mới ra nghề tưởng khơi khơi “Bác Hồ ngó thẳng” đâu chơi gà mờ Dạ dày lại đánh lô tô Mồm ta méo xệch bên bờ tử sinh
Như là thiếu phụ tắt kinh Ruột xe có chữa thình lình, chết cha Té ra trong cõi người ta Ruột lô ruột xịn khéo là ghét nhau Đếm tiền còn thiếu xu hào Đếm ta thấy chớm bệnh lao mất rồi Vá giùm chút bạn hiền ơi Chiếc xe cà chớn của thời cà chua!
Cũng bài thơ này và bài VE CHAI HÀNH được tôi đọc cho ông Võ Văn Kiệt thời ông làm Bí Thư Thành Ủy Sài Gòn khi ông mời nhóm sáng tác của báo Tuổi Trẻ trong đó có tôi đến nhà dùng bữa cơm thân mật. Trong lúc trà dư tửu hậu, ông nghe báo cáo rằng có một nhà thơ nổi loạn chuyên làm “Thơ Đen” truyền khẩu trong nhân dân. Các đồng nghiệp khác có vẻ lo âu nhưng tôi thản nhiên công khai hóa nỗi niềm mình trước vị lãnh đạo cao nhất của thành phố. Nghe xong ông Kiệt vỗ tay gật gù khoái trá khiến bầu không khí bớt căng thẳng. Tôi không biết ông nghĩ về tôi ra sao chứ những chính sách của ông ban hành sau này với giới trí thức và văn nghệ sĩ “dám ăn dám nói” rõ ràng bị… siết chặt hơn.
Một kỷ niệm có dính dáng tới ông là tôi vài lần chở nhà văn Sơn Nam đậu trước biệt thự nhà ông để lão tiền bối Sơn Nam gõ cửa xin “viện trợ” của đồng chí cũ thời cùng chung tỉnh ủy Long Châu Hà. Những lúc đó tôi thấy thương kiếp nhà văn của ông Sơn Nam vô cùng. Ngày xưa vua chúa phải hạ mình đi cầu hiền sĩ còn thời nay hiền sĩ phải đi cầu cạnh ngược lại. Đúng là kiếp cầm bút bọt bèo giữa bể dâu chính trị.
Nói là nói vậy chứ trong cửa tử luôn luôn có cửa sinh. Đã là một nhà văn nhà thơ đứng về phía nhân dân thì buổi giao thời chủ nghĩa với những cảnh “bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” như thế bao giờ cũng là môi trường thuận lợi nhất để ra đời những tác phẩm lớn. Chỉ trừ khi bản thân người cầm bút bất tài và thích đổ thừa. Cũng may trong cuộc đời lang bạt giang hồ tôi luôn được tiếp xúc với nhiều kỳ nhân dị sĩ trên các lãnh vực nghệ thuật khác nhau để “hâm nóng” sáng tác.
Chẳng hạn trong hội họa tôi có dịp giao du với những họa sĩ, điêu khắc gia vừa có tài năng vừa hào khí ngất trời trong… bàn rượu, đủ để làm được bài thơ HỌA HÀNH. Đó là các họa sĩ từng vẽ chân dung tôi mà tôi còn lưu giữ như Nguyễn Trung, Nguyễn Trọng Khôi, Khánh Trường, Vi Vi Võ Hùng Kiệt. Đó còn là các bậc đàn anh tên tuổi khác như Hiếu Đệ, Rừng, Nguyên Khai, Hồ Thành Đức, Hồ Hữu Thủ, Trịnh Thanh Tùng…
HỌA HÀNH
Làm thơ mà quậy toàn họa sĩ Là “thi hữu họa, họa hữu thi” Ai dám bảo đó điều cấm kỵ Ngày xưa Lý Bạch quậy Vương Duy
Lý Bạch quậy Vương Duy còn đỡ Ta nâng ly toàn đụng dân gầm Mỗi tên cầm cọ chừng dăm vợ Nói gì tiểu thiếp đến chào sân
Mỗi tên cầm cọ dăm người mẫu Chữ mẫu nghe đâu giống mẹ hiền Các em làm mẫu, ta làm phụ Phụ mẫu kề nhau dễ đảo điên
Mà cật vấn chi nhau chữ sex Picasso biết được mất lòng Chagal biết được đâm xích mích Họa pháp làm sao cọ khỏi run
Cọ run thì cũng như ngòi viết Người mẫu, nàng thơ có khác gì Có em trường phái đều thua hết Tranh cởi trần, chữ cởi dâm thi
Đọc dâm thi chỉ cần manh giấy Xem tranh phải ngó lại túi tiền Tội nghiệp bạn chọn nghề quý phái Gỗ, lụa, màu… giá rẻ vài “thiên”
Ơi, Khôi, Trung, Đệ, Trường, Khai, Đức… Hội họa ngày nay xuống chợ trời Tranh ảnh quốc doanh bày như rác Gác cọ, mình đi uống rượu chơi…
Chẳng hạn trong âm nhạc, môn phái gần gũi với thi ca nhất, tôi tha hồ “đi bụi” với nhạc sĩ Trần Quang Lộc, Lã Văn Cường, Vũ Ngọc Giao, Nguyễn Hải… Cách đi bụi với mỗi người cũng khác nhau. Năm 1975, lúc còn làm biên tập viên trang văn nghệ báo Tuổi Trẻ tôi gần như là cặp bài trùng với họa sĩ “đa hệ” Nguyễn Trọng Khôi, bởi Khôi là họa sĩ trình bày đầu tiên của tờ báo vừa có thể sáng tác nhạc. Anh có đặc điểm là hát rất hay bằng giọng “têno” bài MỘT CÕI ĐI VỀ của Trịnh Công Sơn lúc bài nhạc này bị cấm. Trong bàn nhậu bạn bè, tôi phun thơ giang hồ liên tục còn anh kết thúc bằng bài hát BÀI CHÒI về người chồng nhà quê bị vợ phụ rẫy khiến ai nấy bật cười ha hả. Năm 1977 tôi bắt đầu quen với Lã Văn Cường như một cặp bài trùng thứ hai. Cuộc hội ngộ của chúng tôi ly kỳ như… phim. Lã Văn Cường thách tôi cứ sau một bài thơ là Cường sẽ hát đáp lễ bài nhạc do Cường sáng tác. Và trên thực tế Cường đã thực hiện đúng như vậy. Tôi đọc 50 bài thơ và Cường hát đủ 50 bài nhạc cho đến lúc cả đám trong bàn đều quắc cần câu. Với Vũ Ngọc Giao thì đượm mùi tráng sĩ hơn. Năm 1978 khi nằm ở Ban Tổ Chức Thành Đoàn chuẩn bị lên đường nhập ngũ, tôi đã cùng Vũ Ngọc Giao nhạc sĩ guitar cổ điển một thơ một nhạc ngả nghiêng phục vụ công chúng xó chợ lề đường dọc khu Bà Lê Chân, Trần Quang Khải… trong những quán nghệ sĩ thời đó của Huy Tưởng và cà phê Hạ Trắng. Sau này đi bộ đội về tôi lại tiếp tục “bài trùng” với nhạc sĩ kiêm ngâm sĩ Nguyễn Hải của xứ Ngũ Hành Sơn và với Trần Quang Lộc, người sáng tác bài VỀ ĐÂY NGHE EM với những giai điệu và ca từ rất đỗi tình tự dân tộc ngọt ngào. Đây là thời gian tôi làm thơ về đề tài âm nhạc nhiều nhất. Bài guitar sau đây là một ví dụ tiêu biểu:
GUITAR
Một bài thơ cho cây đàn Như bài hát cuộc đời ban cho mình Như là lúc mới làm quen Anh không dại dột yêu em bằng lời Anh ôm guitar lả lơi “Tout L’amour” dạo hết thời con trai Trong vườn hoa giấy vừa bay Khi rơi xuống ở trong tay hồi nào
Trong tay hoa ở rất lâu Trong anh, em ở bạc đầu chưa xa
Cám ơn nhạc cám ơn hoa Cám ơn phụ nữ sinh ra loài người Cám ơn tất cả lứa đôi Biết nghe âm nhạc nói lời mối mai Biết anh mỗi bận so dây Là em đang dạo gót hài trong anh “Love is blue” tình yêu xanh Thiếu guitar sẽ trở thành đen thui…
Chẳng hạn bên điện ảnh, tôi từng hạnh ngộ và la cà với rất nhiều người, những người có bụng “lân tài” giúp đỡ tôi về mặt tinh thần lẫn cơm áo cũng không ít. Tôi có thể kể tên đến cố đạo diễn Hồng Sến, cố diễn viên Lê Chánh, đạo diễn Hồ Ngọc Xum, tài tử đẹp trai Nguyễn Chánh Tín… Các huynh đệ khác như Lê Cung Bắc, Châu Đen, Phạm Thùy Nhân…
Với đạo diễn Hồng Sến thuở còn sinh tiền mỗi lần có cha ông lên thăm là ông luôn nhớ đến tôi. Ông đãi tiệc bắt tôi đọc hai bài thơ ÔNG GIÀ RỪNG SÁT và ÔNG GIÀ BẮT RẮN cho phụ thân ông thưởng lãm. Các bạn thử tưởng tượng Hồng Sến hơn tôi gần 20 tuổi thì “ông cụ” của ông phải bô lão đến chừng nào. Thế mà khi đọc xong hai bài thơ trên, đôi mắt “bô lão” của ông ướt như trẻ con. Đến giờ này tôi vẫn hãnh diện về những buổi đọc thơ cho gia đình đạo diễn Hồng Sến lúc ông còn sống.
Với Nguyễn Chánh Tín thì lại hoàn toàn bất ngờ. Chúng tôi làm quen nhau ở nhà họa sĩ kiêm diễn viên Lê Chánh trên đường Vườn Chuối đầu thập niên 80. Thuở ấy tất cả đều nghèo, trên mâm rượu chỉ có “xị sô” Gò Đen, Cây Lý và me xoài cóc ổi. Thuở ấy Nguyễn Chánh Tín đã là một ca sĩ phòng trà thành danh và là diễn viên điện ảnh có khuôn mặt “mỹ nam tử” hút hồn phụ nữ, còn tôi là một thi sĩ giang hồ bụi bặm. Thuở ấy chỉ cần “ngửi” nhau qua một bài nhạc có đẳng cấp hay qua một bài thơ khẩu khí độc đáo là mọi người đã thương nhau như ruột thịt. Thuở ấy đẹp đến nỗi mãi hơn 20 năm sau này tôi mới tái ngộ Nguyễn Chánh Tín mà hai người vẫn nhớ như in những bài thơ đã đọc, những bài nhạc đã hát ngày xưa lúc anh Lê Chánh còn sống. Chính kỷ niệm gắn bó hơn 20 năm trước đã kết dính tôi và Nguyễn Chánh Tín thành “cặp bài trùng” hiện nay trong điện ảnh. Hiện nay chúng tôi đang hợp tác làm việc cùng nhau qua thương hiệu một hãng phim tư nhân được thành lập vào năm 2007 mang tên là CHÁNH TÍN FILM. Tôi đảm nhận việc viết kịch bản phim còn Nguyễn Chánh Tín làm đạo diễn. Chúng tôi chủ trương khôi phục dòng phim kinh dị đã mất tích từ sau giải phóng bằng hàng loạt phim nhựa ngắn 45 phút chiếu các rạp lớn trên toàn quốc và phát hành đĩa DVD tại Bắc Mỹ và Châu Au. Chúng tôi đã thực hiện liên tiếp 4 phim mang tựa NGÔI NHÀ BÍ ẨN, SUỐI OAN HỒN, CHẾT LÚC NỬA ĐÊM, BỐN THÍ NGHIỆM TRONG ĐÊM TÂN HÔN và hiện lên kế hoạch làm 2 phim kinh dị, hành động mang tựa NỢ MÁU, SÁT THỦ ra mắt công chúng trong và ngoài nước vào dịp Tết Nguyên Đán sắp tới.
Cuộc đời Nguyễn Chánh Tín cũng thăng trầm không kém gì tôi. Anh từng vượt biên nhiều lần và bị bắt một lần để đời. Nếu không nhờ ông Dương Đình Thảo, giám đốc Sở Văn Hóa Thông Tin Thành Phố lúc đó bảo lãnh đóng phim VÁN BÀI LẬT NGỬA của Trần Bạch Đằng thì chắc bây giờ còn lâu anh mới tái xuất giang hồ cùng tôi lần nữa. Lần được ông Dương Đình Thảo “cứu bồ” đó, Nguyễn Chánh Tín đã gây dấu ấn xuất sắc trong làng điện ảnh nước nhà với vai diễn trung tá tình báo Nguyễn Thành Luân, một nhân vật ảo từ nhân vật có thật là trung tá Phạm Ngọc Thảo. Nếu ai đó “chụp mũ” anh vì anh tham gia một cuốn phim “Việt Cộng” thì họ đã quá lầm. Thật ra Nguyễn Chánh Tín chỉ là một thanh niên Việt Nam yêu nước đến tận cùng không hề phân biệt chủ nghĩa quốc gia hay cộng sản. Nhân nhắc đến ông Dương Đình Thảo, một chính khách của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam từng xuất hiện ở Hội Đàm Paris Bốn Bên, không riêng gì Nguyễn Chánh Tín, bản thân tôi cũng là người chịu ơn ông. Chính ông Sáu Thảo tức Dương Đình Thảo đã cùng anh Huỳnh Bá Thành, Vũ Quang Hùng lo hộ khẩu cho tôi khi tôi nằm quân lao H39 vì dám chống lại cấp chỉ huy độc đoán trong quân đội.
Kỷ niệm về tôi với ông Sáu Thảo thật thơ mộng và mang mùi vị Lương Sơn Bạc. Khoảng đầu thập niên 80 phái đoàn Văn Nghệ Sĩ và Báo Chí Thành Phố do ông Dương Đình Thảo dẫn đầu có rủ tôi theo xuống đất Duyên Hải tức Cần Giờ. Đêm đó trước công chúng đông đảo bao gồm công nhân lâm trường và học viên các trường Thanh Niên Xây Dựng Cuộc Sống Mới, ông Sáu Thảo có đọc diễn văn khích lệ tinh thần và các nghệ sĩ sân khấu khác có biễu diễn vài tiết mục phục vụ họ. Chỉ có điều tiếng vỗ tay và sự hưởng ứng quá rời rạc. Ông Sáu Thảo liền quay sang tôi “Lần này phải nhờ đến tài xuất khẩu thành thơ của Bùi Chí Vinh đó”.
Dĩ nhiên là tôi nhận lời “chữa cháy” ngay lập tức. Tôi liên tưởng đến cảnh ngộ những người vượt biên và những người săn đuổi kẻ vượt biên ngay trên đất Cần Giờ, nơi được mệnh danh là “Siberia” của Sài Gòn này. Tôi liên tưởng đến những lần cụng ly với những người bí ẩn hâm mộ thơ tôi tại quán rượu nhà sàn “ÔNG THẦY” nằm chơi vơi mé biển. Tôi liên tưởng đến chính đời mình đời Nguyễn Chánh Tín đời của nhiều anh em giang hồ hảo hán ôm mộng làm cách mạng như Thủy Hử ngày xưa nhưng suốt đời bất thành phải mài kiếm dưới trăng giống tráng sĩ Đặng Dung. Thế là bài thơ LƯƠNG SƠN BẠC ra đời. Bài thơ kéo theo tiếng vỗ tay rầm rộ phấn khích của công chúng phía dưới. Tôi xin chép bài thơ ra đây như một cách tạm thời kết thúc phần hai GIAI THOẠI CỦA THI SĨ:
LƯƠNG SƠN BẠC
Lên Duyên Hải gặp Lương Sơn Bạc Đứa vác cần câu đứa kéo chài Cùng săn cá sấu quanh rừng Sác Thả xuồng ghé quán nhậu lai rai
Người trung niên ta gọi: anh Hai Xâm con ó bảy màu trên ngực Gió biển nhiều sao ó chưa bay Còn đậu chiều nay trong quán cóc Hay con ó còn sợ bầy chim cắt Mài cựa quanh năm móng vuốt dài Hay rượu làm anh Hai xếp cánh Công hầu thua một chén đưa cay Thảo nào hồi đó huynh Tiều Cái Tống tửu vài chung đã rớt đài
Anh Hai giới thiệu bạn vãng lai Đầu trọc như nhà sư họ Lỗ Xưa Trí Thâm không chơi rắn hổ Tu mười năm chỉ nhớ thịt cầy Nay anh Ba tu chùa mãi lộ Rắn mãng xà quàng vắt trên vai
Hà tất phải khà như phun nọc Để chạnh lòng đám rắn hổ mây Đệ dù sao cũng dòng phàm tục Mời chư huynh một chén rượu đầy
Rượu đầy nào phải là sóng dữ Mà biển gầm lên tưởng nứt quầy Anh Bốn đi quyền quên luật rượu Chém ba dao thua một dao gài Lý Quỳ còn cả thời ngang dọc Lẽ nào anh Bốn sớm chồn tay Đệ dân thành phố chưa quen sóng Cũng tiếp tứ ca một chén đầy
Mà rượu đầy huynh uống chưa say Quyền Mai Hoa thiếu gái cũng hoài Coi kìa tì nữ cười khiêu khích An ái cần chi phải mập gầy
Nữ tì thừa biết khi lên ngựa Anh hùng lỏng gối chẳng hơn ai Võ Tòng bất lực nên sát tẩu Tội Kim Liên chết uổng tuyền đài Phải giống Yến Thanh vào hắc điếm Thường động phòng nương tử mới hay Nếu cha mẹ không ghiền tửu sắc Làm gì có đệ có huynh đây
Mà đệ gặp huynh mới chục chai Chưa đáng mặt mà xưng hảo hán Con voi khi sa xuống đầm lầy Giọt lệ ngàn năm còn nuốt hận Chúng ta những ông thần nước mặn Vốn khinh thường áo mão cân đai Vốn ghét công hầu như ghét cứt Muốn trèo mây như Lý Thiết Quài Muốn đạp gió như Tôn Hành Giả Lương Sơn trăm lẻ tám thiên tài Hôm nay gặp gỡ làm giông bão Thêu cờ “trăm lẻ tám thiên tai”…
10-08-2008
GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, PHẦN 3
Tôi sinh ra đời nhằm một ngôi sao… quậy, rất thích ứng với thời đại bất ổn. Bốn câu thơ đầu trong bài NGÃ HÀNH đủ nói lên điều đó: Ta sinh ra gặp buổi nhiễu nhương Bất lương bàn luận chuyện hiền lương Kẻ sĩ cúi đầu làm binh sĩ Thơ quốc doanh cười cợt thơ Đường… Hầu như anh em văn nghệ đều thuộc lòng bốn câu thơ trên và truyền khẩu cho nhau, truyền khẩu sâu đậm đến mức nhà báo Võ Đắc Danh trong một bài viết tranh luận giáo dục với Trần Mạnh Hảo, nhân đó bàn về một số chủ trương chính sách sai lầm của nhà nước trong việc cải tạo đất đai thổ nhưỡng đồng bằng sông Cửu Long đã lấy bốn câu thơ của tôi để làm phần kết bài đăng báo và phổ biến rộng rãi trong một phiên họp quốc hội toàn quốc ở Hà Nội. Hậu quả của đợt phổ biến đầy nhiệt huyết, đầy tinh thần ái quốc ấy là đương sự Võ Đắc Danh bị thu hồi thẻ nhà báo, bị miễn phận sự đại diện báo Người Lao Động ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long và phải bắt đầu kiếp mưu sinh kiếm sống như bất cứ kẻ sĩ nào bị tước quyền ăn nói. Vừa rồi đọc tin trên báo thấy Võ Đắc Danh hiện công tác tại báo Sài Gòn Tiếp Thị đoạt giải nhất cuộc thi bút ký phóng sự năm 2008 của báo Văn Nghệ TW nghĩ cũng mừng cho anh. Như vậy là nhà nước bây giờ ít ra cũng tiến bộ hơn thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, bớt thù dai và hành hạ kẻ sĩ bị khoanh vùng. Trước đó lùi lại thời gian khoảng vào trung tuần tháng 5- 1995 nhân kỷ niệm lần thứ 179 ngày sinh cụ Nguyễn Đình Chiểu, một đợt bút chiến cũng đã diễn ra chung quanh bài báo của nhà báo Đỗ Quang Hạnh viết về tôi trên tạp chí Diễn Đàn Văn Nghệ Việt Nam. Bài báo mang tựa “MỘT CHÚT RÔNG DÀI VỀ THƠ QUẬY CỦA BÙI CHÍ VINH” trong đó Đỗ Quang Hạnh cố tình ví von lối thơ dân gian hiện đại đượm nét giang hồ du đãng của Bùi Chí Vinh ngang tàng nhưng tương tự như thơ Lục Vân Tiên bình dân cổ điển của cụ Nguyễn Đình Chiểu thời trước. Bài báo thẳng thắn đầy bản năng chủ quan của người viết đã tạo nên phản ứng dữ dội của một số “cây đa cây đề” vốn được coi là ngự sử văn đàn của văn chương Nam Bộ, khiến Đỗ Quang Hạnh sinh trưởng ngoài Bắc vốn chưa nếm mùi sông rạch miền Nam bị bao vây suýt… chết đuối. Nói tóm tắt, tôi sinh ra đời từ một ngôi sao “quậy” chứ không phải một ngôi sao được đánh bóng ở các bàn tròn, chính vì thế hãy cho tôi khước từ mọi sự so sánh của bàn dân thiên hạ về đời sống và thơ của mình. Thơ tôi chắc chắn không “từ chương bác học” như cụ Nguyễn Du nhưng cũng không “thật thà dân dã” như cụ Đồ Chiểu. Thơ tôi khó chịu đến mức nhiều đồng nghiệp phải nhăn nhó bởi phong cách không giống ai. Tôi còn nhớ năm 1990, đúng một năm sau khi tập THƠ TÌNH BÙI CHÍ VINH xuất bản lần đầu, trên báo Lao Động đã có cuộc thảo luận của nhiều nhà thơ, nhà lý luận, nhà phê bình văn học xoay quanh chủ đề “PHẢI CHĂNG LÀ MỘT NGÔI SAO LẠ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH” với phần mở đầu như sau “Tập THƠ TÌNH BÙI CHÍ VINH ra đời từ năm ngoái đã gây xôn xao như sự xuất hiện của một ngôi sao lạ. Sự đánh giá thì lại trái ngược nhau rất nhiều. Có bạn trẻ chữa vào trang đầu:”TẬP THƠ ĐÁNG ĐỌC NHẤT THẾ KỶ”, có nhà thơ lại hạ một câu:“THƠ VĨA HÈ”. Có điều chắc chắn thơ Bùi Chí Vinh đã có nhiều người đọc, nói theo kiểu bây giờ là bán được. Chúng tôi xin giới thiệu bốn bài phát biểu của các nhà thơ, nhà phê bình có tên tuổi đánh giá tập thơ này”. Bốn bài phát biểu đó là của các vị Nguyễn Văn Lưu, Anh Ngọc, Lê Quang Trang, Lại Nguyên Ân. Nhân đây tôi cũng xin cám ơn nhà văn nữ Phạm Thị Hoài trong một lần vào Sài Gòn năm 1989 gặp tôi đã gom 100 tập thơ Bùi Chí Vinh ra Bắc và phân phối đến những địa chỉ cần thiết của sĩ phu Bắc Hà. Hiệu quả của đợt phân phối ấy là bài phê bình đầy thiện ý của Vương Trí Nhàn trên báo Thể Thao Văn Hóa “Thơ Tình Bùi Chí Vinh xanh vỏ đỏ lòng”. Là bài viết của cố nhà văn nhà phê bình Xuân Tửu trên báo Công Giáo Và Dân Tộc so sánh “Thơ tình yêu Bùi Chí Vinh có thể là một cái mốc trên con đường phát triển thơ ca… Yêu thương và Chúa và Phật là đồng nhất. Điều thánh thiện không phân chia đạo này hay đạo khác. Như thế mới đích thực là người”. Là bài tựa của nhà văn Vũ Quần Phương cho tập thơ Bùi Chí Vinh của Nhà Xuất Bản Kim Đồng “Những bài thơ trong ruột sách, bài nào cũng nghịch. Nhận xét là nghịch thì không bao quát được đặc điểm thơ ông. Nhưng phải tạm dùng để nói cái khác thường, cái bất ngờ, cái không thuận… tai của thơ Bùi Chí Vinh. Không thuận tai nhưng lại thuận lý, thuận tình, nghĩa là có tính thơ. Là thơ thực sự mà bề ngoài, thoáng đọc thoáng nhìn lại ngỡ không thơ. Hóa ra đây là một thủ pháp, một biệt tài, một bản lĩnh. Người đọc ít lịch lãm hoặc thiếu trân trọng nhiều khi không thâm nhập được…”. Là sự đồng cảm của Huỳnh Dũng Nhân trên một tờ báo “Tôi khoái nhất cách xưng ta của chàng thi sĩ tuổi con ngựa này. Cái ta ấy là sự cao ngạo, là ý thức coi thường khách thể, vượt qua những rào chắn tập quán, chỉ còn biết cái tôi đang được nâng lên thành cái ta, cao hơn, ngang tàng hơn và quân tử hơn”. Là Nguyễn Thái Sơn nhận xét trên báo Văn Nghệ TP “Tôi muốn ví dụ Thơ Tình Bùi Chí Vinh như thứ cà phê quán cóc, pha bằng túi vải, uống bằng ly đất nung, không sang trọng nhưng là cà phê thứ thiệt, pha đặc, người uống lần đầu có thể thấy đắng, bỏng miệng nên nhíu trán thôi…”. Là Nguyễn Quốc Chánh viết trên báo Thanh Niên “Thơ Bùi Chí Vinh thuộc loại mạnh, ngang và tàng. Nó như một con ngựa sợ yên cương, khoái tung bờm hí rền trên thảo nguyên, nó háo hức đòi được trao thân để trở nên chính nó, dù chỉ trong khoảnh khắc… “ Đại khái là như vậy. Riêng tôi có thể tự đánh giá một cách ngẫu hứng về mình qua bài thơ NGÓ LẠI TIỀN NHÂN: NGÓ LẠI TIỀN NHÂN Với trí nhớ của Lê Quý Đôn Cái đầu đội trời của Cao Bá Quát Lại thêm Tú Xương chút mùi khinh bạc Ta đem thân ta đùa giỡn với công hầu
Ta cấm “bể xanh hóa thành ruộng dâu” Cho người có muối và cho tằm có lá Ta cấm cửa những nhà thơ đon đã Nguyễn Công Trứ làm quan chỉ đáng mặt vi thần Ta cấm cửa những nhà thơ kẻ cả Nguyễn Khuyến về già chưa đủ lộc để chăn dân
“Trường giang như kiếm lập thanh thiên” Ta thương Cao Chu Thần nên tuốt gươm làm giặc Ta thương mặt trời bị chôn xuống đất Cho lũ hủ nho nhà Nguyễn mặc hoàng bào Ta thương mặt trăng gặp phải thời nguyệt thực Cho lũ nịnh thần lấm tấm mọc như sao
Ta thương anh hùng “ở phố Hàng Nâu” Giả làm “phỗng sành” mặt mày lơ láo Ta thương Tú Xương giả say bên chén rượu Không dám ngâm thơ sợ lộ cốt rồng Ta thương bậc Tú tài quân tử Mượn áo giang hồ đùa lũ Trạng tiểu nhân
Ta có lời xin lỗi Trần Tử Ngang Hà tất phải “độc sảng nhiên nhi thế hạ” “Niệm thiên địa chi du du” bạn niệm một mình thì phí quá Ta chẻ đầu ta chia hết thảy mọi người Thế gian này những kẻ bình thiên hạ Có còn gan lớn mật để rong chơi Có giống Quát chép thơ vào vách đá Có như Xương nhét chữ xuống mông ngồi Và có dám như ta: đọc những lời khí phách Rồi rủ Hồ Xuân Hương chơi cờ tướng tay đôi! Tôi bước vào ngôi trường tiểu học chậm mất hai năm so với bạn bè cùng lứa tuổi vì một lý do bất đắc dĩ. Ba tôi là ông Bùi Văn Trình, đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam thời kháng Pháp, ông từng sang Paris học nghề thợ giày dành cho người tàn tật và gia nhập đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp. Lúc về nước ông tiếp tục hoạt động và bị bắt giam dưới chế độ Ngô Đình Diệm, bị tịch thu cửa hiệu mặt tiền “Tiệm giày tàn tật Bùi Văn Trình” trên đường Yên Đổ (tức đường Lý Chính Thắng bây giờ). Mẹ tôi, bà Nguyễn Thị Mùi cũng tương tự như vậy, bà cũng là đảng viên Đảng Lao Động (tiền thân của Đảng Cộng Sản) nhưng thời gian ở tù ít hơn chồng. Bà thường tự hào nói với con cái rằng “Gia đình mình là gia đình Công Giáo yêu nước”. Bà từng bị giam ở bót Hoàng Hùng, bót Catina… và có thời gian ở chiến khu. Trong tù bà bị nhốt chung với vài nhân vật lịch sử như bà Nguyễn Thị Bình, Đỗ Duy Liên, Lan Mê Linh… như lời bà kể. Còn trong chiến khu bà từng mô tả về cách sinh hoạt đặc biệt của ông Lê Duẩn thuở hàn vi, đầy lam lũ và khôi hài không thua gì ông Lưu Bang lúc chưa lập nên nhà Hán. Những chuyện kể của bà loáng thoáng như món rau muống luộc chấm nước tương trong bữa ăn nhà nghèo khiến tôi không mấy quan tâm. Điều tôi quan tâm là bà đã thay mặt người chồng nằm trong vòng lao lý, dạy dỗ ba đứa con nên người bằng nghề thợ may thuê cực khổ. Năm 1961 ba tôi được chế độ Ngô Đình Diệm thả về, trên lưng và ngực đầy những vết thương tím bầm do bị tra tấn bằng roi điện, roi cá sấu. Ngày ông xuất hiện trước cửa căn nhà sàn vách ván lềnh bềnh trên mặt sông với bộ đồ bà ba đen, thằng con trai đầu lòng mới 7 tuổi là tôi đã từ chối ông. Từ trước đến giờ tôi quên mất mình có cha và chỉ được học đánh vần bởi người mẹ bằng cuốn “Nhị Thập Tứ Hiếu”. Tôi đã quay lưng với ông suốt một tuần lễ mặc kệ đêm nào ông cũng rơi nước mắt khi nằm bên cạnh các con. Ấy thế mà chỉ trong vòng một năm tập làm quen tình phụ tử với nhau, tôi đã được ông dạy gần hết chương trình tiểu học. Tôi đã học giỏi đến mức có thể đi biểu diễn ở các trường công và trường tư lúc mới vừa…8 tuổi. Tại trường tiểu học tư thục Sao Mai dưới chân cầu Công Lý, các thầy giáo nhà dòng đã dẫn tôi đến tất cả mọi lớp từ lớp năm đến lớp nhất (tức lớp 1 đến lớp 5) để đọc bảng cửu chương từ 2 cho đến 9 đọc xuôi rồi đọc ngược, sau đó làm toán chia bốn con lẫn toán phân số của bậc trung học. Tôi biến thành tấm gương hiếu học một cách kỳ lạ. Tại trường tiểu học công lập con trai Tân Định (giờ là trường tiểu học Nguyễn Thái Sơn) tôi đã được thầy hiệu trưởng đặc cách nhận vô học lớp tư (tức lớp 2) sau khi trắc nghiệm năng lực về văn và toán. Kể từ đó tôi luôn luôn lãnh phần thưởng hạng nhất cuối năm học từ lớp tư cho đến lớp nhất. Chỉ cần đứng hạng nhì trong một tam cá nguyệt (học kỳ) là tôi đã bị trừng phạt bằng những ngọn roi da giày của ba tôi quất tới tấp vào mông. Những lần bị đòn như thế tôi rất oán hận và nguyền rủa ba tôi nhưng bây giờ ngồi nghĩ lại mới thấy ông có cách giáo dục và thương con cực kỳ đặc biệt. Ông có cách giáo dục như bà mẹ thầy Mạnh Tử dạy con lúc còn thơ trong sách Cổ Học Tinh Hoa. Tôi lại may mắn thụ giáo những bậc thầy giỏi ngay từ tiểu học. Lớp Tư 1 học thầy Nhạ. Lớp Ba 1 học cô Cổ Tấn Mỹ Loan. Lớp Nhì A học cô Phan Thị Mai. Lớp Nhất A học bà Giáo. Thi Đệ Thất vô trường trung học công lập Trần Lục năm đó chỉ lấy 170 người trên hơn 10.000 thí sinh ứng thí, tôi thi đậu hạng 7 và được nhận học bổng suốt những năm trung học đệ nhất cấp. Số điểm hạng 7 của tôi so với hạng nhất thủ khoa chỉ cách 1 điểm rưỡi. Ba tôi bằng cách nào đó đã xem phiếu điểm thi và rất hài lòng khi thấy bài văn tôi đạt điểm cao nhất, còn bài toán được tôi giải theo kiểu phân số của bậc trung học và bị trừ 2 điểm dù đáp số y chang của Bộ Giáo Dục. Trong phạm vi bài viết này thiết tưởng cũng cần nói lên sự ưu việt của nền giáo dục thời đó dành cho trẻ em nghèo. Tuy đất nước trong thời chiến, nhưng những đứa trẻ con chúng tôi mỗi buổi sáng đến trường không cần phải lấy tiền của cha mẹ, bởi trước khi vào lớp đều được nhận một phần ăn bánh mì phô mai và ly sữa bột nóng miễn phí. Đến cuối năm đứa nào nghèo quá thì được lãnh phần thưởng “CÂY MÙA XUÂN” gồm quần áo sách vở, không hề phân biệt gia đình có hoạt động chống lại chế độ hay không. Cụ thể là gia đình “tù chính trị” nghèo mạt hạng của tôi luôn có thêm phần thưởng ấy. Chưa kể học tiểu học được dạy môn Đức Dục, lên trung học có môn Công Dân đều là những môn dạy căn bản đạo lý làm người. Chính nhờ đạo lý làm người ấy mà tôi biết được cô Phan Thị Mai còn có bút hiệu là Nhất Chi Mai, cô giáo lớp nhì trường Tân Định hiền lành dễ thương của chúng tôi nhà ở xóm Nhà Đèn, là một nữ anh hùng dám tử đạo vì lý tưởng ái quốc. Tại miền Nam vào những năm 1965-1968 mức độ phát triển và cường độ chiến tranh ngày càng ác liệt và tàn khốc. Cô giáo Nhất Chi Mai của tôi noi gương Morisson tự thiêu trước Tòa Bạch Ốc để phản đối chiến tranh. Ngày 16-5-1967 cô tự tưới 10 lít xăng lên người rồi châm lửa, biến thân mình thành đuốc tại chùa Từ Nghiêm, đường Bà Hạt gây chấn động dư luận trong nước và thế giới. Lúc đó tôi đang học Đệ Lục (tức lớp 7) trường trung học công lập Trần Lục. Tôi bàng hoàng không phải vì mình là đứa học trò giỏi nhất được cô cưng nhất, mà bàng hoàng trước bài thơ “CHẮP TAY TÔI QUỲ XUỐNG” do cô để lại như một di chúc: CHẮP TAY TÔI QUỲ XUỐNG Sao người Mỹ tự thiêu? Sao thế giới biểu tình? Sao Việt Nam im tiếng Không dám nói Hòa Bình
Tôi thấy mình hèn yếu Tôi nghe lòng đắng cay Sống mình không thể nói Chết mới được ra lời
Hòa Bình là có tội! Hòa Bình là cộng sản! Tôi vì lòng nhân bản Mà muốn nói Hòa Bình!
Chắp tay tôi quỳ xuống Chịu đau đớn thân này Mong thoát lời thống thiết! Dừng tay lại người ơi!
Dừng tay lại người ơi! Hai mươi năm nay rồi Nhiều máu xương đã đổ Đừng diệt chủng dân tôi!
Chắp tay tôi quỳ xuống… Bài thơ chỉ đơn giản như thế. Nhưng đối với tôi nó là ngọn đuốc sống. Ngọn đuốc ấy hừng hực và trường cửu hơn bất kỳ một thứ hào quang nào đã dẫn dắt và kích động tôi bước vào con đường làm cách mạng. Một con đường chông gai, nguy hiểm mà tôi đã trả giá bằng tuổi trẻ cho tới tận tuổi trung niên ẩn sĩ bây giờ. Năm 11 tuổi tôi bắt đầu có thơ in báo ở các trang thiếu nhi của các nhật báo, tuần báo thời đó. Tôi đọc ngốn ngấu cổ văn kim văn, nhai nuốt và tiêu hóa hết kho sách cũ của ba tôi và cậu tôi giấu kín dưới gầm giường. Ở trường dạy loại thơ gì là tôi thực hành ngay loại thơ đó, kể cả thể loại thơ khó nhất là thơ Đường Luật. Tôi làm thơ Đường bảo đảm có đủ “mạo, thực, luận, kết” với cặp thực và cặp luận đối nhau chan chát. Số lượng thơ đăng báo của tôi cho đến 15 tuổi không dưới vài trăm bài thơ được cắt dán trong sổ hẳn hoi. Năm học Đệ Lục trường Trần Lục tôi và hai người bạn cùng lớp là Vũ Hào Hiệp, Ngô Đình Hải dám thành lập “Nhóm Thơ Hồn Trẻ” với những tôn chỉ, mục tiêu, thủ tục kết nạp nhóm viên đăng lên các báo. Chúng tôi có quỹ riêng tích lũy bằng sự đóng góp của các tân nhóm viên và đăng đàn sáng tác thơ, truyện y chang những ngòi bút chuyên nghiệp. Hai thành tích của tôi trong giai đoạn này là đoạt giải thưởng Hội Họa Thiếu Nhi Châu Á lúc mới 9 tuổi đang học lớp Ba 1 trường Tân Định với bức tranh màu nước mang tựa “Quang Trung Hành Quân” và giải thưởng truyện ngắn Viết Trên Quê Hương Điêu Tàn của một nhật báo đối lập lúc 15 tuổi với truyện “Trái Đầu Lâu”. Trong bức Quang Trung Hành Quân tôi vẽ cuộc tiến công thần tốc của Hoàng Đế Quang Trung ra Bắc bằng cuộc chuyển quân trên võng, cảnh tượng cứ hai nghĩa quân Tây Sơn đi như chạy cáng võng một người nằm quả là hình ảnh đặc sản chỉ có ở con người Việt Nam và ở sự sáng tạo thần kỳ của Nguyễn Huệ. Còn trong truyện Trái Đầu Lâu tôi nói về sự tích trái bã đậu thường rơi rụng trên vĩa hè đường Tú Xương mà tôi hay đi qua. Trái bã đậu chín khô có hình dạng như cái sọ người. Trong số tuổi 15 non nớt tôi tưởng tượng cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn Nam Bắc đang lan dần trên thành phố qua những “trái đầu lâu” mỗi ngày rơi lộp độp. Tại trường Trần Lục tôi được dạy dỗ bởi những giáo sư tận tâm, nhưng người gây dấu ấn mạnh nhất đối với chúng tôi có lẽ là thầy Đỗ Quý Toàn. Thầy Đỗ Quý Toàn là một thi sĩ thành danh thời bấy giờ với trường phái thơ tự do hiện đại. Sáng tác của thầy xuất hiện trên nhiều tạp chí giá trị. Thầy Toàn luôn là niềm ngưỡng mộ của chúng tôi khi đứng trên bục giảng và là người phụ trách mục giới thiệu sáng tác văn học trên Đài Truyền Hình Sài Gòn với giọng Bắc trầm ấm, dáng người nho nhã, ống píp phì phà khói ngậm trên môi. Thầy đã dạy tôi hai năm liên tiếp Đệ Lục lẫn Đệ Ngũ và cũng chính thầy trong hai năm đó trao cho tôi giải thưởng Văn Chương Liên Lớp. Có một điều mà thầy không hề ngờ đến là cái tên tôi đăng thơ cùng chung một cột báo với nhà thơ Đỗ Quý Toàn trên tạp chí Đời. Bài thơ phản chiến tựa GÃ MỘT CHÂN đăng năm 14 tuổi dưới bài thơ của thầy được tôi ký bút hiệu là Chính Vi. Cái tên Chính Vi (là tiếng lái Chí Vinh) không biết có làm thầy ngờ ngợ… Tôi chỉ học hết năm Đệ Tứ (lớp 9) ở trường Trần Lục là phải chuyển qua trường trung học công lập Nguyễn Trãi ở tuốt quận 4 vì một lý do giản dị: Tôi chọn ban A và trường Trần Lục không có lớp 10A. Tại ngôi trường Nguyễn Trãi mới mẻ này trong suốt hai niên khóa trung học đệ nhị cấp tôi vẫn là một trong những học sinh xuất sắc nhất lớp. Trường Nguyễn Trãi nằm ở ngoại ô Sài Gòn với đa số học trò xuất thân từ giai cấp công nhân hoặc lao động nghèo thành thị, một môi trường hoàn toàn phù hợp với sự nổi loạn và khuynh hướng phản chiến của tôi. Một bài thơ tiêu biểu trong thời kỳ này mang tên là SIÊU THỊ CHIẾN TRANH được tôi đăng báo Chí Linh năm 1971 dưới bút hiệu Bùi Thăng Long như sau: SIÊU THỊ CHIẾN TRANH Chị em ơi mau mau bày hàng Những món đồ chơi dành cho giày ống Thịt da dân tộc bốn ngàn năm phơi nắng Một sớm một chiều thành đồ lót, cọt-xê Tuổi mười sáu đến vũ trường chân đô thị, chân quê Em khập khiểng bán hàng chào nón sắt Mẹ cha ngồi vĩa hè chén cơm chan nước mắt Đồng đô-la ôm thân phận Thúy Kiều Những con mắt hỏa châu hậm hực sợ tình yêu Tiếng đại bác lõa lồ đêm tao loạn
Anh em ơi mau mau bày bán Siêu thị chiến tranh hàng PX ồn ào Gian đầu buôn đạn bom, gian giữa chứa gươm đao Những gian kế tiếp là hơi cay, mặt nạ Gian kế nữa là đồng khô sỏi đá Nương rẫy ma tru, cây cỏ cụt đầu Anh còn gì cho những gian sau
Chị ơi, anh ơi… chúng ta ở đâu? Ổ khóa siêu thị có mùi bơ ngoại tộc Hãy phá cửa cho trái tim òa khóc Cho bốn ngàn năm đội mũ xuống đường Rào kẽm gai nào ngăn được Quang Trung Hàng song sắt nào cản đường Lê Lợi Bước chúng ta đi cổng trường bão nổi Mãi mãi không còn siêu thị chiến tranh! Năng khiếu văn chương của tôi ngay lập tức lọt vào mắt xanh của những kẻ hoạt động bí mật trong và ngoài trường học. Tại trường Nguyễn Trãi tôi giao du với Nguyễn Văn Tâm học thua tôi một lớp và hai đứa cùng thành lập nhóm Văn Nghệ Chí Linh có một tờ báo in roneo hẳn hoi. Bên cạnh đó tôi được Nguyễn Văn Vĩnh, trưởng khối báo chí của trường, học hơn tôi hai lớp, giới thiệu tôi vào Tổng Đoàn Học Sinh Sài Gòn trụ sở trên đường Hồng Bàng, Chợ Lớn. Kể từ giây phút ấy tôi biến thành một thành viên bất ngờ trên mặt trận báo chí, văn nghệ của phong trào tranh đấu sinh viên học sinh thành phố. Tôi tham gia những cuộc xuống đường, những cuộc bãi khóa đòi hỏi dân quyền dân sinh, sáng tác thơ, văn, xã luận đăng trên các báo chí phong trào sinh viên học sinh và các nhật báo đối lập với các bút hiệu Bùi Chí Vinh, Chính Vi, Lê Đại Nam, Trần Đại Việt, Bùi Thăng Long… Tôi còn nhớ vở kịch thơ NGƯỜI LÀM LỊCH SỬ của tôi nói về cuộc chia tay của hai cha con Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi ở ải Nam Quan đăng trên báo Xuân trường Nguyễn Trãi năm 1971 cùng những bài viết trên các báo học sinh sinh viên tranh đấu đã khiến tôi bị đuổi học một tuần lễ. Lần đuổi học ấy kéo theo cả một đợt bãi khóa lớn toàn trường và tôi bị thầy giám học Tạ Quang Khôi kêu lên làm việc. Thầy Tạ Quang Khôi đối với tôi không hề xa lạ, thầy chính là nhà văn từng phụ trách mục VÙNG CỎ NON dành cho tuổi mới lớn trên nhật báo Thời Thế. Hồi còn học ở Trần Lục, tôi và Nhóm Thơ Hồn Trẻ thường xuyên đăng bài trong mục của thầy. Thầy chỉ khuyên tôi đúng một câu “Em là người có năng khiếu văn chương hơn là năng khiếu chính trị. Tôi yêu mến những bài thơ của em hơn là thấy em làm nắm đấm trong tay người khác”. Trời đất, tôi mới 17 tuổi như con ngựa chứng không cương làm sao hiểu hết những ẩn ý của thầy. Thuở đó tôi lồng lộn sải vó cố tìm ra ánh sáng cuối đường hầm trên con đường sạn đạo của mình. Tôi từng trần thuyết về đề tài Tam Dân Chủ Nghĩa trước thầy Huỳnh Thành Tâm tức nhà văn Huỳnh Phan Anh nổi tiếng dạy tôi năm lớp 10A và được thầy cho điểm tuyệt đối về sự hùng biện táo bạo. Khác với hai thầy Đỗ Quý Toàn, Tạ Quang Khôi mà tôi không lần nào gặp lại, riêng thầy Huỳnh Phan Anh sau giải phóng tôi được hân hạnh tái ngộ và trở thành một đồng nghiệp nhỏ thân thiết của thầy. Tôi còn nhớ cuối năm 1975 trên báo Văn Nghệ Giải Phóng xuất hiện hai bài tùy bút nổi tiếng một của Trịnh Công Sơn và một của Huỳnh Phan Anh. Hai bài viết thuộc dạng sắc sảo trong cách nhìn của mỗi người về những biến thiên của thời cuộc, nhưng tùy bút NHÌN LẠI của Huỳnh Phan Anh được dư luận đánh giá cao hơn. Tôi không coi đó là sự giác ngộ cách mạng hoặc sám hối nghề nghiệp của Huỳnh Phan Anh như sự chụp mũ ác ý của một số người cầm bút. Tôi hiểu tâm trạng của một nhà văn tự trọng kiêm một nhà giáo lương thiện và ủng hộ con đường đi của thầy. Hai thầy trò chúng tôi đã nhiều lần cụng ly, nhiều lần lăn lóc, nhiều lần ngổn ngang tâm sự với nhau cho dù Huỳnh Phan Anh hầu như không nhớ gì tên học trò Nguyễn Trãi ngày xưa được ông cho điểm cao nhất môn trần thuyết. Có lần ông kể với tôi trong một đêm say khướt ngồi xe xích lô về nhà trên đường Võ Văn Tần (đường Trần Quý Cáp cũ) ông đã được tay tài xế xích lô xa lạ đọc cho nghe bài thơ XÍCH LÔ HÀNH của tôi, sau đó còn hát nghêu ngao ca khúc phổ nhạc bài thơ đó. Ông xúc động nói với tôi rằng:”Như vậy là mày đã tồn tại. Nhà thơ cả đời chỉ cần một sáng tác được truyền khẩu, thế mà bài thơ Xích Lô của mày được phổ biến khắp nơi. Tao hãnh diện được làm thầy của một thi sĩ nhân dân kiểu đó”. Khi tôi viết những dòng này thì vị thầy giáo đáng kính đã lưu lạc giang hồ bên Mỹ quốc, trước khi đi tôi đã cố gắng cùng thầy gõ cửa đủ mọi cơ quan, báo chí để nộp từng chồng hồ sơ khiếu nại khiếu tố dày cộm về đám cường hào ác bá tỉnh Tây Ninh cướp đất hương hỏa của gia đình thầy, nhưng tất cả nỗ lực đều thất bại bởi “con cóc không thể kiện ông trời” khi không còn thượng đế. Chẳng biết thầy còn nhớ những kỷ niệm bụi đời của chúng tôi không? Tại Tổng Đoàn Học Sinh Sài Gòn tôi có dịp giao du với nhiều cây bút tranh đấu khác trong giới học sinh như Lê Văn Nuôi, Trương Minh Nhựt… và quan trọng hơn cả là làm quen với Nguyễn Sĩ Hiền, một nhà thơ đàn anh đang hoạt động cách mạng rủ rê tôi tham gia biên tập tờ Làm Báo do anh phụ trách. Hồi đó Nguyễn Sĩ Hiền với các bút hiệu Hữu Đạo, Ba Đình, Rạch Gầm, Yên Thao, Đồng Tháp, Hồ Trường… lừng danh trong phong trào học sinh đấu tranh đô thị không thua gì Trần Quang Long bên cánh sinh viên. Đối với tôi, được chơi với anh là một sự hân hạnh. Có lần anh gõ cửa nhà tôi, căn nhà sàn tồi tàn nhất Xóm Lách trong một chiều mưa sùi sụt. Căn nhà chỉ có cha tôi làm thợ giày, mẹ tôi làm thợ may, cậu tôi biệt danh Tám Ruby làm thợ đệm và những đứa em nhỏ. Tất cả đều nhìn Nguyễn Sĩ Hiền đầy nghi ngại dù gia đình tôi đều âm thầm hoạt động cách mạng. Trên căn gác xép, Nguyễn Sĩ Hiền tâm sự với tôi rằng anh đang bị chính quyền Thiệu Kỳ truy nã và chỉ muốn tá túc một đêm. Trong đêm đó anh đã trao đổi biết bao nhiêu chuyện với tôi, từ thơ văn cho đến lý tưởng, hoài bão của thanh niên trong thời chiến. Anh đã đọc một bài thơ mang tựa là HẠNH PHÚC mà tôi còn nhớ mãi: HẠNH PHÚC Sớm mai con ra phố Thấy người nằm chết co ro trên vĩa hè Giữa chợ đời lấn chen
Má ơi Nếu con vất được trái tim Và bôi bùn lên óc Thì đời con hạnh phúc biết bao nhiêu Bài thơ “Hạnh Phúc” đọc năm 1971 ấy đến giờ này thiết tưởng vẫn còn hiệu quả nhãn tiền. Năm 1971 anh “dụ khị” tôi vào con đường cách mạng bằng bài thơ đau đớn nói về ước mơ tuyệt vọng của những kẻ bên lề bị xã hội ruồng rẫy, thì hôm nay năm 2008 cuốn phim bi kịch ấy lại lồ lộ ra trước mắt, có khi còn thảm hại hơn bởi mức độ ngụy quân tử và bội tín của những kẻ quyết định số phận của người khác cao hơn. Năm 2008 với báo cáo GDP không ngừng tăng và con số gái đứng đường, gái lấy Đài Loan, gái làm điếm ở Trung Quốc, sinh viên ra trường thất nghiệp, công nhân thợ thuyền xuất khẩu lao động như nô lệ, trẻ mồ côi không nơi nương tựa đầy vĩa hè, xăng dầu điện nước tăng giá vùn vụt, ô nhiễm từ lô cốt trên đường đi cho đến rác rưỡi đen ngòm chất thải ngập mặt nước cũng tăng theo tỷ lệ thuận cùng con số ảo của GDP. Cũng may mà Nguyễn Sĩ Hiền đã chết ngay năm đầu sau giải phóng, chấm dứt luôn tài tiên tri của một nhà thơ lớn. Nếu không thì có khi anh lại nổi cơn thịnh nộ của một thi sĩ tâm huyết và có khi lại bị khoanh vùng, quản thúc tại gia như một số nhà văn hóa yêu nước dám ăn dám nói… Qua Nguyễn Sĩ Hiền, tôi trở thành một nhóm với Nguyễn Văn Tâm và hai học sinh bí mật khác. Chúng tôi thường hẹn hò nhau uống cà phê trước cửa trường Nguyễn Trãi trước khi xuống đường hoạt động đấu tranh. Một hôm Tâm cắt một mớ giấy thủ công gồm 3 màu xanh, đỏ, vàng rồi xếp thành hình lá cờ Mặt Trận bày lên bàn nước. Tâm nói tôi nên lấy bí danh là “Hai Long” với ý nghĩa tôi là anh Hai trong gia đình có bút hiệu Bùi Thăng Long, rồi dùng quẹt diêm đốt lá cờ bằng giấy. Thế là xong. Thế là xem như tôi đã là một thành viên của Đoàn Thanh Niên Nhân Dân Cách Mạng Sài Gòn Gia Định như sau này Nguyễn Văn Tâm với bí danh là Sáu An tháng 5-1975 từ rừng ra khẳng định điều đó với tôi. Thời tuổi trẻ quả thật hào hùng. Làm trai thời loạn ở Tổng Đoàn Học Sinh Sài Gòn giao du với nhiều bạn bè cùng chí hướng thương nhau như ruột thịt, dám đứng mũi chịu sào mỗi người phụ trách phong trào đấu tranh một trường học. Như Nguyễn Văn Phúc tự Út Tâm, Lê Văn Nuôi, Lê Văn Triều ở trường Cao Thắng. Như Tiết Hồng Quân, Nguyễn Văn Vĩnh tự Tư Thuyết ở trường Nguyễn Trãi. Như Lê Văn Nghĩa, Ba Đông ở trường Petrus Ký. Như Hứa Thị Tuyết Hoa, Nguyễn Lương Ngọc ở trường Đức Trí. Như Trương Minh Nhựt tự Ba Vũ ở trường Vương Gia Cần. Như Lê Hoàng ở trường Văn Học. Như Trần Thị Mỹ Thành ở trường Gia Long. Như Đặng Thị Thục Trinh ở trường Lê Văn Duyệt… Ấy thế mà chỉ sau một cuộc bể dâu, vật chưa đổi sao chưa dời bao nhiêu, mà sau giải phóng con đường đi của mỗi người tách ra nhiều hướng theo kiểu “mạnh ai nấy sống mạnh ai nấy chết”. Ai làm quan, làm vương tướng thì thân thích bộ hạ được nhờ. Ai dám ăn dám nói dám đề kháng lại tổ chức thì chết ráng chịu. Mỗi năm một lần tôi lại được mời họp truyền thống Thành Đoàn, đến vài lần để thấy tình nghĩa ngày xưa lạt như nước ốc. Tay giả bộ bắt, mặt giả bộ mừng nhưng bằng mặt khác hẳn bằng lòng chứ sao. Nghĩ đến câu “Lính già ngồi kể chuyện Nguyên Phong” của vua tôi thời nhà Trần sau khi đánh thắng giặc Nguyên Mông càng thêm ngậm ngùi vô tận. Năm 1971 cha tôi là ông Bùi Văn Trình chết vì hậu quả những vết thương do bị tra tấn trong nhà tù khi hoạt động cách mạng. Ông chết như một liệt sĩ hy sinh cả đời mình cho tổ quốc nhưng thủ tục giấy tờ để công nhận là một liệt sĩ quá rắc rối khiến mẹ tôi bực mình dẹp qua một bên. Bà cũng dẹp luôn tờ giấy chứng nhận “Gia đình có công với cách mạng” và các huy chương cho vào rương khóa kín. Bà nói sau giải phóng chừng vài năm: “Tụi nó làm trật rồi. Hồi đó nói một đằng bây giờ làm một nẻo. Người nghèo vẫn hoàn nghèo. Chỉ là sự thay đổi của đám nhà giàu mới” . Tuy nhiên đó là chuyện hạ hồi phân giải sau này. Đầu tháng 5-1975 Nguyễn Văn Vĩnh với bộ bà ba đen, khăn rằn mang dép râu gõ cửa căn nhà sàn tồi tàn nhất Xóm Lách dưới chân cầu Công Lý tìm tôi. Không phải ai khác mà chính Nguyễn Văn Vĩnh hai lần đưa tôi vào con đường cách mạng. Vĩnh xuất thân từ một gia đình sản xuất nón ở quận 4, toàn bộ nhà đều tham gia hoạt động. Hồi ở phong trào và còn làm báo Học Sinh, anh nổi tiếng là một nhà hùng biện với những bài xã luận nảy lửa định hướng những chủ trương then chốt của phong trào. Bây giờ anh trở nên thâm trầm mộng mơ hơn khi xách xe đạp chở tôi dạo một vòng Sài Gòn và đọc cho tôi nghe những bài thơ của các thi sĩ miền Bắc. Sau cuộc tái ngộ đó, anh giới thiệu tôi với Ban Tuyên Huấn Thành Đoàn để làm Bản Tin Ban Tuyên Huấn. Dù trong Ban có sẵn những khuôn mặt quen biết từng hoạt động chung ở Tổng Đoàn Học Sinh Sài Gòn nhưng tôi cũng bị “test” khá kỹ về chuyên môn và lý lịch sau một thời gian đứt liên lạc với nhau. Bản Tin Ban Tuyên Huấn Thành Đoàn lúc đó chính là tiền thân của báo Tuổi Trẻ bây giờ. Tôi thoát ly gia đình ở hẳn số 55 Duy Tân (giờ là đường Phạm Ngọc Thạch) trở thành cây bút chủ lực của bản tin trong tất cả mọi đề tài nóng bỏng từ thời sự, chính trị, văn hóa đến thể thao. Ngày 2-9-1975 báo Tuổi Trẻ ra mắt số đầu tiên và tôi nằm trong Ban Biên Tập của tờ báo cùng với anh Hoàng Nghĩa tức Đôi Nạng Xứ Dừa phụ trách trang văn hóa văn nghệ. Công việc chủ yếu của tôi là chọn đăng sáng tác của bạn đọc và mỗi tuần viết một bài thơ theo chủ đề. Trong thời buổi cách mạng còn chân ướt chân ráo, thơ văn là thứ thức ăn tinh thần dễ đến với người đọc nhất. Thời buổi ấy đừng hòng có loại thơ tình sướt mướt hoặc loại thơ @ đồi trụy phi nhân tính như bây giờ. Thời buổi ấy tôi dùng thơ như một cây chổi để quét rác rưởi. Tôi trong sáng đến mức độ làm những bài tương tự như bài thơ dưới đây: HẠNH PHÚC CÓ THẬT Trả lại thành phố những ngày ngồi gác chân rũ rượi không biết làm chuyện gì Ngoài việc kêu một vài chai bia và nhìn con gái Trả lại thành phố một thời gian suýt làm chó dại Với nhiều tiếng sủa rất cầu kỳ
Thưa mẹ, con đi Mọi người hãy tin tôi, chưa muộn, rằng chưa muộn Mẹ hãy tin con, rằng con đang lớn Cùng quê hương
Trả lại thành phố những ngày so đủa cạnh bát cơm Quên mất ai cho tôi ăn, quên bẵng người gieo hạt Quên mồ hôi, quên nước mắt Chỉ biết ngấu nghiến và thèm thuồng
Thưa mẹ, con lên đường Mọi người hãy tin tôi, còn sớm, rằng còn sớm Mẹ hãy tin con, rằng con đang lớn Cùng quê hương
Trả lại thành phố những ngày mũ áo xênh xang Quên mất ai dệt cho tôi, ai se từng sợi chỉ Tôi đối chất với những điều phi lý Rồi lạc mất mình
Thưa mẹ, thưa cha, thưa chị, thưa em Trả lại thành phố đang thay da đổi thịt Thu về tôi hạnh phúc mỏi mắt tìm Nhưng luôn luôn có thật Suốt hơn 2 năm tôi đã ở tới 3 trụ sở của báo Tuổi Trẻ. Từ 55 Duy Tân đến 62 Trương Tấn Bửu rồi 12 Duy Tân… chịu đủ thứ nạn dịch, từ dịch “ghẻ ngứa” sau giải phóng đến dịch xếp hàng chờ tem phiếu. Từ việc đụng độ với quan điểm “chọn bài soi lý lịch” của cấp trên có thành kiến đến việc chia sẻ từng tách cà phê “bo bo rang” với các cộng tác viên xuất thân từ văn nghệ sĩ Sài Gòn cũ ghé đến gửi bài mà không biết có được sử dụng hay không. Cũng cần mở ngoặc đơn chỗ này, trong thời gian trên tôi quan hệ và giao du với hầu hết giới văn nghệ từ Nam chí Bắc trên đủ mọi lãnh vực thơ văn, nhạc, họa, điện ảnh, sân khấu… trong đó có Nguyễn Nhật Ánh vừa đạp xích lô vừa đi học Đại Học Sư Phạm. Tôi mến Nguyễn Nhật Ánh về nghị lực và tài thơ nên thường dắt luôn vào cơ quan và thậm chí cho ngủ ở phòng riêng của tôi sau tòa soạn số 12 Duy Tân. Chuyện chỉ có vậy, thế mà tôi bị tổ chức kiểm điểm, bị một vài cán bộ quy chụp là “bảo kê” cho nhà thơ “ngụy”, từng đăng bài trên tạp chí Văn của chính quyền Sài Gòn. Không riêng gì Nguyễn Nhật Ánh, tôi còn bị dèm pha soi mói về việc đăng thơ, truyện của nhiều nhà văn, nhà thơ “chế độ cũ” bằng cách thay bút hiệu của họ. Chuyện đó mất vệ sinh đến nỗi tôi không muốn liệt kê danh sách các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ… đó ở đây. Bởi họ cũng như Nguyễn Nhật Ánh hiện nay đều đang được nhà nước trọng dụng, dùng tích cực và PR hết cỡ… Y chang như thơ của Cao Bá Quát khi nói về Mặc Vân Thi Xã của Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương. Thơ rằng “Ngán cho cái mũi vô duyên – Câu thơ Thi Xã, con thuyền Nghệ An”. Thuở đó tôi đã làm một bản tự kiểm bằng thơ khạc ra tại chỗ sau khi thượng cẳng chân hạ cẳng tay với một nhân vật đáng ghét có quyền lực trong tòa soạn: BẢN TỰ KIỂM Bọn chó đẻ bắt đầu tấn công Những con lợn sủa ra ồng ộc: “Không được đánh nhau trong cơ quan Chúng tôi cảnh cáo đồng chí Vinh nghiêm khắc”
Bọn hưởng ứng mặt vênh thách thức: “Rằng nghe ngôn ngữ lãnh đạo chưa Rằng biết điều thì nên tự giác Rằng làm người chớ quên nịnh hót Làm cơ quan thì phải khù khờ”
Tội nghiệp chàng thi sĩ chúng ta Không thích thói lòn trôn kiếm chác Lẻ loi giữa thời đại bọn hèn Chàng chống kiếm hét “Đông Ki Sốt” Bài thơ làm năm 1977 và tôi bị “ghim” từ đó. Cuối năm 1977 tôi được Thành Đoàn biệt phái xuống hai trường Thanh Niên Xây Dựng Cuộc Sống Mới Xuyên Mộc và Vĩnh An để xâm nhập thực tế, vừa “tu chỉnh” bản thân vừa có thêm vốn sống của dân giang hồ anh chị đang làm học viên cải tạo tại trường. Tại địa bàn mới mẻ này, tôi có dịp làm quen chia bùi sẻ ngọt qua cương vị cán bộ tuyên huấn bất đắc dĩ với những nhân vật trong tương lai của vở kịch thơ THÀNH TABERD của mình. Đó là Trần Vĩnh Thành tự Thành Taberd con trai một ông quan chế độ cũ, xem chuyện vào tù ra khám như một chỗ nghỉ chân. Đó là Hiếu Hercule còn có các biệt danh Ngọc Pallmall, Hoàng Salem, Hương Xa Lộ… nữ quái khét tiếng trong giới chém thuê xã hội đen. Đó là Thái Gorki tay anh chị mê truyện Gorki như mê phi vụ. Đó là Hạnh Angiêlic nữ hoàng ăn chơi của các sàn nhảy về đêm. Đó là Tâm Luxiphe tướng cướp chuyên chặt tay người thò ra khỏi thành xe đò để cướp lắc, nhẫn vàng và vô tình chém cụt bàn tay của người mẹ quê lên Sài Gòn thăm mình… Tất cả bi hài kịch hỉ nộ ái ố của cuộc đời thực đó được tôi triển khai thành kịch thơ THÀNH TABERD dầy ngang một cuốn tiểu thuyết với sự hỗ trợ của hai nhà thơ, nhà văn tiền bối là Kiên Giang và Sơn Nam. Tuy nhiên đó là chuyện sau này, khi THÀNH TABERD đoạt giải đặc biệt của Lực Lượng Thanh Niên Xung Phong Thành Phố. Còn bây giờ xin trích ra một đoạn trong vở kịch thơ cho các bạn thưởng lãm: TRÍCH KỊCH THƠ THÀNH TABERD, NHỮNG KẺ ĐÀO NGỦ: Tôi phải đào ngũ, tôi phải đào ngũ Tôi đào ngũ vì tôi mặc cảm Tôi muốn trở thành một người vô sản Tôi muốn hát ca, tôi muốn yêu đời Nhưng tôi hát ca thua cán bộ mất rồi Thua tổ chức cả âm thanh và sức mạnh Tôi yêu đời thua những người ngu đang kiêu hãnh Oi ở đây tôi thấp bé đến chừng nào Đồng đội quanh tôi có những quá khứ tự hào Cộng một tương lai ít nhiều hy vọng Tôi có mặt như một khoảng trống?
Tôi cũng đào ngũ như anh vì tôi bất lực Không phải tư tưởng tôi đang xuống dốc Nhưng trước bất công tôi không dám phê bình Tôi biết một cán bộ chánh văn phòng nhận tiền đút lót của học viên Rồi đóng dấu thả về qua mặt Ban Giám Hiệu Còn sử dụng học viên làm tay chân khéo léo Đi đứng nghênh ngang ra dáng cai tù Tôi không dám đấu tranh vì tôi sợ bị trả thù Tôi chỉ là một nhân viên nghiên cứu
Tôi cũng đào ngũ như hai anh vì thành tích xấu Phụ trách kho nhưng kho rỗng tuếch rồi Hóa đơn, giấy tờ nằm ở bụng tôi Bột ngọt, sữa, đường… đã vào bao tử Tôi không còn con đường nào khác cả
Nhưng em đào ngũ khác ba anh, vì Sài Gòn đẹp quá Đêm ở Huyền Trân hấp dẫn vô cùng Người ta gọi em là “gái ăn sương” Nên thỉnh thoảng ngựa vẫn quen đường cũ Em thích uống bia, em mê khiêu vũ Em khoái đàn ông và em quý bạc tiền Còn ở đây thì em rất… vô duyên
Riêng tôi tầm thường hơn bốn người, tôi đào ngũ vì “vã” đời quá cỡ Ở Sài Gòn tôi luôn luôn có “thớ” Làm đàn anh khu xe lửa Nguyễn Thông Ban ngày đi thu thuế con buôn Ban đêm tổ chức sòng xập xám Còn ở đây thì… bỏ qua đi Tám Mặt mũi ai ngó thấy cũng cô hồn Tôi chưa làm điều gì đáng gọi… chơi ngon
Ê, vậy là riêng tôi dù mát thần kinh, tôi cũng đào ngũ luôn Tôi đào ngũ vì… nhiều người đào ngũ quá Ngoài ra không có lý do gì khác cả… Kịch thơ THÀNH TABERD được khai bút tại nhà của thi sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà trên đường Phạm Thế Hiển, quận 8 lúc ông đề nghị tôi khôi phục truyền thống kịch thơ đã bị mất tích từ thời tiền chiến. Hôm đó có mặt cả nhà văn Sơn Nam, người bạn già lừng danh của thi sĩ Kiên Giang từ thời kháng Pháp. Chú Kiên Giang nói “Sau thời Tự Lực Văn Đoàn coi như thất truyền luôn kịch thơ, một thể loại độc đáo có thể đưa lên sân khấu trình diễn thành ca nhạc kịch hoặc giao hưởng hợp xướng. Chú mày có nhiệm vụ khôi phục nó”. Để ra đời được THÀNH TABERD hai vị tiền bối Sơn Nam và Kiên Giang đã nuôi cơm tôi bằng lon guigô hơn nửa tháng trời tại chùa Phụng Sơn Tự tức chùa Gò tọa lạc trên đường Ba Tháng Hai (tức đường Trần Quốc Toản nối dài). Tại chùa Gò, ngoài chú Kiên Giang đưa đón, cứ vài ngày bố già Sơn Nam lại đến thăm tôi động viên ủy lạo tình thần. Và chưa hết, khi bản thảo THÀNH TABERD hoàn thành bằng… bút chì (vì chú Kiên Giang quá nghèo không có bút nguyên tử) hai tiền bối lại đưa tôi đến gõ cửa giám đốc Sở Văn Hóa Thông Tin Dương Đình Thảo để chú Sáu Thảo hỗ trợ phần đánh máy cho vở kịch được lịch sự hơn. Như nhiều người đã biết, nhà thơ Kiên Giang nổi tiếng trong thi đàn Việt Nam với bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím – Từ ngày binh lửa ngập quê hương…” được phổ nhạc. Tuy nhiên tôi yêu mến nhất bài thơ TIỀN VÀ LÁ của ông, bài thơ hay đến nỗi một tờ báo ngoài Bắc ngộ nhận là thơ của thi sĩ Nguyễn Bính. Bằng trí nhớ lõm bõm, tôi xin chép ra đây bài thơ đó của ông, nếu sai chữ nào mong chú Kiên Giang lượng thứ: TIỀN VÀ LÁ Ngày xưa hớt tóc miểng vùa Ngày xưa mẹ bắt đeo bùa cầu Ông Đôi ta cùng học vỡ lòng Dắt tay qua những cánh đồng lúa xanh
Đôi nhà cùng một sắc tranh Chia nhau từng một trái chanh trái đào Đêm vàng soi bóng trăng cao Ngồi bên bờ giếng đếm sao trên trời
Anh moi đất nắn tượng người Em tha thẩn nhặt lá rơi làm tiền Mỗi ngày chợ họp mười phiên Anh đem tượng đất đổi tiền lá rơi
Nào ngờ mai mỉa cho tôi Lớn lên em đã bị người ta mua Kiếp tôi là kiếp nhà thơ Vốn riêng chỉ có một mùa lá rơi
Tiền không là lá em ơi Tiền là giấy bạc của đời in ra Người ta giấy bạc đầy nhà Cho nên mới được gọi là chồng em
Bây giờ những buổi chiều êm Tôi đem lá đốt khói lên tận trời Người mua đã bị mua rồi Chợ đời họp một mình tôi. Vui gì… Riêng với chú Sơn Nam thì tôi có mối giao du đặc biệt hơn. Tôi và bố già Sơn Nam đã gắn bó với nhau suốt hai thập niên 1980-2000 từ thời nhiều vị mạnh thường quân giúp đỡ chúng tôi còn sống. Trên chiếc xe đạp cọc cạch và sau này trên chiếc xe gắn máy thổ tả, tôi đã chở bố già Sơn Nam đi gõ cửa tìm kiếm niềm vui hoặc hứng chịu nỗi buồn thê thảm từ những cái lắc đầu. Nhớ những lần đến nhà ông Võ Văn Kiệt, một người đồng chí cũ của Sơn Nam cùng hoạt động trong tỉnh ủy Long Châu Hà ngày xưa, tôi thấy mắt bố Sơn Nam sáng lên khi khoe tôi một cái bì thư dẹp lép hoặc năm món “căm đùm săm dĩa lốp” phụ tùng xe đạp mới toanh có thể đi bán chợ trời kiếm tiền nhậu lai rai. Rồi những lần ghé báo Công An TP thăm Huỳnh Bá Thành, lúc trở ra bố vừa hạnh phúc vừa ngậm ngùi trước chút lòng hào kiệt đối với kẻ sĩ mạt lộ. Mới đây ngày 13-8- 2008 được tin bố già mất, tự nhiên tôi sực nhớ một câu nói bất hủ của Sơn Nam khi luận về văn chương: “Văn học Việt Nam sau giải phóng trống trơn như nước đổ xuống rá”. Bố già ơi, câu nói bố hoàn toàn chính xác đối với thành phần sáng tác… quốc doanh. Đất nước chúng ta nghèo quá, ai giàu đâu chẳng biết nhưng chỉ thấy muôn đời kẻ sĩ có lòng tự trọng lại quá nghèo. Viết đến đây tôi không thể không chép lại bài thơ hiếm hoi của bố in trong trang đầu cuốn HƯƠNG RỪNG CÀ MAU nổi tiếng. Bài thơ như một nén nhang ngưỡng mộ hương hồn bậc dị sĩ kỳ nhân: THƠ SƠN NAM Trong khói sóng mênh mông Có bóng người vô danh Từ bên này sông Tiền Qua bên kia sông Hậu Mang theo chiếc độc huyền Điệu thơ Lục Vân Tiên Vài câu chữ: Kiến nghĩa bất vi vô dỏng giã Từ Cà Mau, Rạch Giá Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng Muỗi, vắt nhiều hơn cỏ Chướng khí mù như sương Thân không là lính thú Sao chưa về cố hương? Chiều chiều nghe vượn hú Hoa lá rụng buồn buồn Tiễn đưa về cửa biển Những giọt nước lìa nguồn Đôi tâm hồn cô tịch Nghe lắng sầu cô thôn Dưới trời mây heo hút Hơi vọng cổ nương bờ tre bay vút Điệu hò ơ theo nước chảy chan hòa Năm tháng đã trôi qua Ray rứt mãi đời ta Nắng mưa miền cố thổ Phong sương mấy độ qua đường phố Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê… Trở lại chuyện cuối năm 1977 chiến tranh biên giới nổ ra. Thằng em ruột tôi là Bùi Chí Quang là sĩ quan từ Trung Đoàn Củ Chi Đất Thép chuyển qua Trung Đoàn 2 Công An Vũ Trang Biên Phòng đóng quân ở mặt trận Tây Nam đã tử chiến với bọn chư hầu Khờ Me Đỏ Pôn Pốt dưới quyền điều khiển của thiên triều Trung Quốc. Những trận tử chiến triền miên ngay sau giải phóng, thế mà báo chí lẫn truyền thanh truyền hình đều câm như hến, im như thóc. Mãi đến khi xác người chết bay về hậu phương dồn dập, những cuộc thảm sát người Việt ở biên giới diễn ra thì nghị quyết bảo vệ tổ quốc mới được triển khai. Lúc này tôi không còn hào hứng gì với giải thưởng văn học thành phố Hồ Chí Minh năm 1976-1977 qua tập thơ HẠNH PHÚC CÓ THẬT vừa trúng giải. Lúc này đối với tôi chỉ còn hai phe: một phe gồm những người trẻ tuổi quả cảm dám ra chiến trường đánh giặc, phe còn lại là lũ mị dân ngồi trong phòng tiện nghi mồm loa mép dãi hò hét tiến công nhưng dậm chân tại chỗ để bảo vệ cái ghế, dại gì cầm súng chết uổng mạng. Tôi đã làm ngay một bài thơ thời sự để mô tả sự phản ứng của mình: BIÊN GIỚI SALÔNG Tôi căm thù sự bất công và rảnh rỗi Thường được trá hình bằng những dạng âm thanh nổi Hãy nghe chúng bàn biên giới ở đâu Trên chiếc ghế vẹc-ni: nhân vật và những ly kem dâu
Tôi căm thù tiếng động ồn ào Tiếng huýt sáo, tiếng của kẻ thích làm tình, tiếng nói tục Hãy nghe chúng bàn biên giới ở đâu Qua tiếng động thời trang xuất sắc
Biên giới nếu chỉ là đáp số của ngôi nhà bình yên rào kẽm gai, nuôi chó Nhật Tích trữ tiện nghi, phụ nữ, dạ dày Thì hãy để miệng tôi nhổ đờm và đầu tôi biết lắc Để làm một người chiến sĩ thơ ngây
Biên giới Salông không ở hướng Tây… Năm 1978 sau ba lá đơn tình nguyện, tôi lên đường đi bộ đội trong đợt Hồng Binh rầm rộ của các cán bộ công nhân viên Thành Đoàn. Năm ấy tôi đã 24 tuổi, có vẻ là một “lính già” lão luyện so với đám non tơ tuổi 18 đôi mươi mới lần đầu sờ ngón trỏ đến cò súng. Trên tư thế một nhà thơ trẻ vừa đoạt giải thưởng văn học thành phố đầu tiên sau giải phóng, tôi được Nhà Văn Hóa Thanh Niên tổ chức một buổi đọc thơ trong đêm thơ nhạc đặc biệt tại số 4 Duy Tân dành cho hàng ngàn thanh niên vừa trúng tuyển nghĩa vụ quân sự. Đêm đó trước sự cổ vũ của đám đông cuồng nhiệt, tôi đã đọc khá nhiều bài thơ, trong đó có bài thơ sau đây mà tôi còn nhớ: KHI ANH CẦM SÚNG Buộc vào ba lô sách Lỗ Tấn Ca hát như một chàng di- gan Ta vừa nghịch ngợm vừa đứng đắn Khi đã quàng vai khẩu súng trường
Rừng nhờ người đi mà thành đường Ta nhờ tự do mà thành lính Đường, áp tai nghe mùi quê hương Lính, áp má thấy nòng thép lạnh
Biên giới như người đau mới mạnh Giặc sang truyền dịch sốt rét rừng Lẽ nào ta ngồi ôm ảo ảnh Nhấp ngụm trà luận chuyện văn chương
Em có thể bàn về thiên đường Với môi hồng cắn lên trái táo Riêng ta chỉ biết kể chiến trường Qua đôi mắt kẻ thù hung bạo
Hãy hát bài tình ca nhân đạo Thay cho câu “bất khứ” tầm thường Và hãy tin rằng sau cơn bão Mặt trời lại mọc hướng Tây Nam Bài thơ như một lời tiên tri. Ngay mùa xuân năm 1979 bộ đội Việt Nam đã giải phóng Tà Keo sau đó quét sạch bọn chư hầu Khờ Me Đỏ khỏi đất Campuchea trong vòng một tuần lễ. Ở mặt trận phía Bắc, thiên triều Trung Quốc cũng bị đánh không còn manh giáp phải cuốn xéo về nước sau chiến dịch tấn công cổ điển theo kiểu biển người. Chúng tôi gồm ba thằng Thành Đoàn chơi thân với nhau, cùng lên đường một lượt là tôi, Sáu Quốc, Bảy Dũng thì Sáu Quốc đã nằm lại vĩnh viễn trên đất nước Chùa Tháp xa lạ. Tôi mặc áo lính không hề êm thắm. Hồi ở phòng chính trị Bộ Tư Lệnh Thành làm báo Quyết Thắng chiều chiều trong doanh trại thấy các cô bộ đội tuổi mới lớn háo hức nhìn lên cây me nuốt nước miếng. Môi các cô đỏ mọng, mắt lồi ra, bao nhiêu cử chỉ xấu khác đều tập trung vào sự thèm muốn lúc đó. Tôi và thằng Bảy Dũng bên bộ đội thiết giáp cầm lòng không được nên hai đứa thoăn thoắt trèo lên cây và rung cành tha hồ cho trái rụng. Kết quả Bảy Dũng đẩy một chiếc xe ba bánh đầy me ra khỏi cổng để đổi lấy chút hơi men đàn ông lai rai ba sợi, còn các cô bộ đội thì thu gom các ba lô ăm ắp me dốt. Tất nhiên là chúng tôi bị kỷ luật. Tôi có làm bài thơ kỷ niệm về điều đó:
TÊN CÔ DẮC TÊN THỔ PHỈ Cũng có thể vì anh ba gai Và nheo mắt trái được mười lăm phút Nên các em thường hất mặt nhún vai Trước khi nói: ê, tên cô-dắc
Tên cô-dắc từng làm em khóc ngất Hắn thảy con sâu lên chiếc ghế em ngồi Tên cô-dắc từng làm em cười khúc khích Hắn nhảy hàng rào Bộ Tư Lệnh đi chơi
Cũng có thể vì anh đen thui Nhậu nhẹt đánh nhau nhiều hơn suy nghĩ Nên các em thường chớp mắt cong môi Trước khi nói: ê, tên thổ phỉ
Tên thổ phỉ từng làm em say lúy túy Hắn đổ chai “rum” lên mái tóc em mà Tên thổ phỉ từng làm em thành bác sĩ Hắn rên hừ hừ dù sốt rét sơ sơ Mới đây khoảng năm 2004 lúc được nữ đạo diễn Mỹ Khanh mời đóng vai người đào huyệt Hai Màu trong phim XÓM CÀO CÀO tôi bất ngờ gặp lại một trong những cô bộ đội thèm me chua ngày ấy. Cô nàng bây giờ đã là một diễn viên sân khấu và điện ảnh tên tuổi. Cô cũng đóng một vai chủ quán rượu trong phim. Cô nói với tôi tại trường quay: “Hồi đó chiều nào anh cũng đứng dựa bờ tường Bộ Tư Lệnh Thành với đôi mắt buồn hiu. Tụi em đều biết anh là nhà thơ nhưng chưa thấy nhà thơ nào có đôi mắt buồn như vậy. Có lần nhìn anh, em đã khóc”. Sau một vài đợt bị khuyến cáo ở Bộ Tư Lệnh Thành, tôi được đáp ứng nguyện vọng là ra đơn vị chiến đấu, nhưng không phải chiến đấu với kẻ thù xâm lược mà lên đảo Long Sơn thuộc Trung Đoàn 10 Rừng Sát. Ở đây tôi sống bằng những giai thoại truyền khẩu về đặc công thủy, về cách đối phó với cá sấu dưới nước, về sự tích lưu lạc hào hùng của những người Bình Xuyên chạy Ngô Đình Diệm trốn ra hải đảo. Tôi tập cách săn kỳ nhông, cách bắt rắn và lột da rắn. Các bạn phải biết là rắn ở đảo Long Sơn nhiều vô kể. Cứ mùa mưa đi trên đường mòn là phải khua gậy để xua chúng. Ngủ trên bộ ván thọc chân xuống giày bố là coi chừng rắn chàm quạp chui ra mổ chết ngắt. Thưởng thức trà buổi sáng nên cảnh giác bởi rắn lục xanh có thể từ trong vòi chui ra. Ngay trên xà nhà nhìn xuống đầu giường nơi tôi nằm ngủ, nhiều lần chứng kiến rắn rồng đu đua phát khiếp. Ông bà nói “Ở nhà rắn rồng, ra đồng hổ ngựa” quả thật chí lý, lúc chúng rời khỏi nhà là biến thành rắn hổ ngựa ngóc đầu rượt lại bộ đội như chơi. Nói là nói vậy nhưng sống chung với rắn riết rồi cũng quen. Tôi quen thuộc với chúng đến mức cùng đồng đội rình bắt những con rắn hổ đất khổng lồ trốn trong bụi hoặc dưới giếng, để moi ruột phơi khô. Tôi dùng đá dần xương rắn ra cho mềm nhũn rồi cứ thế mà phơi dưới nắng mặt trời. Có lần về phép ghé thăm đồng chí Võ Ngọc An tức Bảy Câu từng là sếp đầu tiên của báo Tuổi Trẻ, tôi đã lôi từ ba lô ra mớ khô rắn vằn vện khổng lồ bày trước mặt ông. Tôi thấy sếp cũ nhìn tôi như nhìn một con khủng long thời tiền sử. Tất nhiên là ông nhét túi tôi một ít tiền để tôi chuồn đi đâu đó nhậu cho lẹ. Năm 1980 tôi vĩnh biệt Trung Đoàn Rừng Sát sau một cuộc xô xát bằng tinh thần lẫn bạo lực với cấp chỉ huy tiểu đoàn. Những tay chỉ huy có máu phân biệt địa phương cục bộ đã gọi chúng tôi, những chiến sĩ trẻ tuổi tình nguyện của thành phố là “những kẻ cần được cải tạo xứng đáng hơn là được cầm súng”. Những chiến sĩ trẻ người Sài Gòn trong đơn vị đặc công thường xuyên bị đàn áp bởi họ từ gốc Thanh Niên Xung Phong chuyển qua. Những lúc ấy anh em thường cầu cứu tôi vì tôi là người giỏi chữ nghĩa giỏi ăn nói, có quá trình tham gia cách mạng. Tôi buộc phải thay mặt họ đương đầu với quyền lực độc đoán trong quân đội. Hậu quả là tôi bị nhốt ở quân lao Nhà Bè và sau đó bị áp giải về quân lao H39 của Bộ Tư Lệnh Thành Phố. Cuộc đời quả là một vòng tròn luân hồi tàn nhẫn. Tại quân lao H39 tôi bị biệt giam trong một căn phòng chỉ có một lỗ nhỏ như mắt cáo vừa đủ thò mũi ra thở, muốn nói chuyện với người bên cạnh phải dùng ngón tay gõ morse theo kiểu hướng đạo sinh. Nhờ vậy tôi biết được phòng biệt giam kế bên là một sĩ quan Huyện đội trưởng chuyên tổ chức đánh bãi cho người vượt biên. Thượng bất chính hạ tắc loạn, mầm móng của thời đại suy đồi vô lý tưởng đã bắt đầu xuất hiện. Tôi bị đối xử như một kẻ sắp lãnh án tử hình, bữa ăn gồm nước trà pha muối thay nước mắm với một chén bo bo đầy sạn, cát. Mỗi lần được ra ngoài lao động tắm heo chừng 10 phút là tôi phải giành giựt với lũ heo mọi những cọng rau muống cải thiện dai như đĩa trồng trên đám đất bùn sình. Chỉ cần nuốt mấy cọng rau muống bẩn thỉu ấy là tôi như được hồi sinh. Có lần tôi đã gầm lên với gã thượng sĩ giám thị quân lao rằng tôi sẽ dùng lưỡi lam hoặc răng cắn đứt mạch máu cổ tay tự sát khiến gã hoảng sợ. Gã biết tôi làm thật nên đổi thái độ. Gần đến ngày Tết đột nhiên gã nổi máu “văn hóa” gõ cửa phòng biệt giam xin thơ tôi như viên cai ngục trong truyện ngắn Nguyễn Tuân xin “Chữ Người Tử Tù”. Tôi viết ngay cho gã hai câu đối của Cao Bá Quát khi bi triều Nguyễn giam cầm: “Một chiếc cùm lim chân có Đế – Ba hàng xích sắt bước thì Vương”… Không biết có phép lạ không mà sau Tết tôi được chuyển qua trại giam dân sự của công an Quận 3. Lý do chuyển thật đơn giản, coi như tôi bị loại ngũ chuyển về địa phương quản lý và trước khi về địa phương thì phải qua trại giam dân sự. Phòng số 7 nơi tôi bị giam bao gồm khoảng 30 người đàn ông trong một diện tích chật hẹp, hẹp đến mức hai hàng người nằm châu đít xếp lớp với nhau, mỗi người bề ngang “1 viên gạch bông” bề dài “4 viên gạch bông”. Tất cả hầu như lõa lồ, trên người chỉ độc chiếc quần xà lỏn hoặc xì líp. Bệnh rận lông có dịp hoành hành, chỉ cần một người bị bệnh hoa liễu hoặc rận lông là lây lan tập thể cực nhanh. Vừa bước vào phòng giam tôi đã phải làm lễ chào Trưởng phòng. Trưởng phòng là một gã đầu hói bụng phệ ngồi chễm chệ trên chiếc chiếu rách duy nhất với hai tên đầu gấu bự con hộ tống. Tôi lầm lì kể sơ về thành tích từ quân lao chuyển qua khiến chúng ái ngại và thất vọng. Chúng chỉ tôi xuống nằm cuối phòng ôm bô nước tiểu tập thể. Tội nghiệp hai thằng tù “con so” vừa mới làm lễ chào sau tôi bị chúng đánh hội đồng tới tấp rồi moi từ ruột dép sa-pô của họ ra miếng vàng Kim Thành dẹp lép nhét vào quần lót Trưởng phòng như một thứ chiến lợi phẩm sung công. Tôi kiên trì chịu đựng đủ loại nước tiểu của bọn du đãng lưu manh trộm cướp đái văng vãi khỏi miệng bô rơi xuống người tôi trong hai ngày. Ngày thứ ba trong lúc hai tên đầu gấu làm “trật tự” chia cơm, tôi bật dậy hét lớn “Ai trong đây từng là bộ đội đứng lên. ĐM, lính mà bị đám trốn lính ăn hiếp là nhục”. Vừa dứt lời tôi đá thốc vào mặt một thằng trật tự, lúc xoay người định “tấp pi” tiếp thằng thứ hai thì hai tên tù “con so” đã thay tôi kết liễu nó nhanh chóng. Tôi nhào tới gã Trưởng phòng mặt mày xanh lét tuyên bố: “Hôm nay đảo chánh Trưởng phòng”. Gã im thin thít cho đến lúc công an trực phòng giam thấy lộn xộn bước vô. Tôi điều đình với viên công an trẻ tuổi rằng phòng 7 mới thay Trưởng phòng và mọi chuyện quan hệ với “bên ngoài” vẫn như cũ. Tôi sống như “vua” suốt một tháng. Trong thời gian bị giam có phái đoàn của Hội Trí Thức Yêu Nước do anh Huỳnh Kim Báu làm trưởng đoàn tới thăm, định bảo lãnh tôi nhưng thất bại bởi tôi không phải là nhà trí thức của Hội. Tiếp đó cũng có vài vị chức sắc ở Thành Ủy, Thành Đoàn đến coi hồ sơ tôi với nhiệm vụ tương tự. Ngày thứ 31 ân nhân cứu mạng tôi là một sĩ quan công an quận 3, sau này tôi mới biết là em của anh Tám Nhân, một cán bộ báo Sài Gòn Giải Phóng từng yêu mến tài nghệ làm thơ của tôi lúc tôi còn ở Thành Đoàn. Tại văn phòng viên sĩ quan mà tôi xin miễn nêu tên ở đây, anh cho tôi xem hồ sơ từ bên Trung Đoàn 10 Rừng Sát chuyển qua, trong đó quy chụp tôi bằng những từ ngữ khủng khiếp: “mưu sát cán bộ, cướp đoạt chính quyền” . Anh cười buồn bã “Thật ra chỉ là một cuộc xô xát nội bộ trong đơn vị có thể giải quyết như hành vi dân sự. Hồ sơ này mà lọt vào tay những người muốn hãm hại nhà thơ là nhà thơ tới số”. Tôi cám ơn anh và từ giã trại giam quay trở về mái nhà xưa của mẹ hiền dưới chân cầu Công Lý trong bộ đồ bộ đội xác xơ đầy miếng vá. Từ tư thế một thanh niên đầy nhiệt huyết dám nói dám viết dám sống dám cầm súng và dám chết, tôi trở thành kẻ không hộ khẩu, ngoài vòng pháp luật. Bài thơ HỘ KHẨU HÀNH ra đời từ đó: HỘ KHẨU HÀNH Thiên hạ đẩy ta về một phía Phía ngàn năm không có mái nhà Lạy Chúa, đất trời đâu có chật Lẽ nào thiếu thốn chỗ dung ta
Bình sinh ghét nhà cao cửa rộng Ai đẻ ra lại thích chửi thề Nhưng thiên hạ ưa trò lều chõng Thôi thì nói tục chỉ ta nghe
Thôi thì ở ẩn như là Chúa Chẳng cần hộ khẩu để chứng minh Ta dù phản đạo quên xem lễ Cũng phục Giêsu gan cùng mình
Giêsu luân lạc, ta lưu lạc Chúa sống trong hang, ta chợ trời Thiên hạ còn dăm thằng lác đác Mang thiên tài đi nói dóc chơi
Có nói dóc cũng đừng uốn lưỡi Uốn bảy lần chi cho thiệt thân Để đó mà xây chừng mới khoái Rượu ép phê làm mặt đỏ rần
Rượu ép phê là trời nhỏ xíu Chụp, bỏ vào bàn tay lắc chơi Thiên hạ muôn đời thèm Văn Miếu Ta chỉ cần chỗ ngả lưng thôi Viết đến đây tự nhiên tôi muốn sụp lạy mẹ của mình. Bà ngày xưa là một thiếu nữ có nhan sắc, có thể gọi là mỹ nhân qua những tấm ảnh chụp còn lưu giữ. Bà hát rất hay, thuộc nhiều ca dao hò vè và cổ tích. Tôi không thể hiểu vì sao một mỹ nhân sùng đạo như bà lại cống hiến hết tuổi thanh xuân lẫn đời mình cho cách mạng dù sự thu hoạch hoàn toàn trừu tượng. Thế mà mẹ tôi bây giờ vẫn không ân hận, bà giống như Đức Mẹ Maria hay Quan Thế Âm, bà tiếp tục mở cửa đón bất kỳ người bạn giang hồ nào của tôi, từ chính khách, văn nghệ sĩ nổi tiếng cho đến các thành phần hạ lưu mạt hạng. Căn nhà sàn tồi tàn 235/ 95/44 bis Công Lý và căn nhà ngập nước cống 134/109/261 Lý Chính Thắng trước và sau giải phóng từng chứa và nuôi biết bao nhiêu người. Tôi không thể liệt kê hết những kẻ đang làm quan, đang thành đạt hiện nay đã từng leo lên giường bà ngoại tôi ngủ ké. Tôi cũng không cần kể những người bạn say rượu quá chén được mẹ tôi bôi vôi vào gót chân để ngừa trúng gió đột tử. Tôi chỉ nhớ hoài một câu nói của bà lúc tôi trở về từ quân lao. Mẹ tôi nói: “Theo cách mạng bỏ Chúa như thế đủ rồi. Con người không thể vô thần mãi. Chủ Nhật nhớ đi nhà thờ con nhé”. Thưa mẹ, khi viết bài thơ này con vẫn chưa thường xuyên đi nhà thờ, nhưng mỗi lần đọc bài thơ MẸ VÀ CON trong đám đông, con đã làm không ít người rơi nước mắt. Xin chép bài thơ về mẹ của tôi cho các bạn thưởng lãm: MẸ VÀ CON Như thế này đã bao nhiêu lần Con trở về nhà thân thể đầy nam tính Mùi rượu, mùi mồ hôi đàn bà, mùi định mệnh Bàn tay níu lấy ngôi nhà Ngôi nhà thuở ấy mẹ trồng hoa Con gái đi qua thành ý tứ Con gái đi qua thành tâm sự Con gái đi qua thành nhạc thành thơ Con thả diều bay cho hết ước mơ Ước mơ hết năm 18 tuổi Mẹ không còn xoa đầu con nổi Mẹ muốn đầu con thờ phượng ông bà Mẹ muốn chân con đi đất như cha Mẹ muốn bụng con thực thà như mẹ Mẹ muốn trái tim con khỏe Để yêu thật nhiều người Và dạ dày con khỏe Để ăn được bầu trời
Nhưng mẹ ơi để có bầu trời Con thụt lùi dưới đất Người lớn đội cho con nón sắt Thay bàn thờ ông bà Người lớn dạy con hái hoa Bằng cách siết tay cò súng Người lớn phát giày ống Không để chân con trần Vì đất không mọc cỏ Đất nở toàn đạn bom
Con đi lính Cộng Hòa ba năm Ở tù không đếm lượt Đầu và chân tay chết Chỉ còn sống dạ dày Dạ dày chứa ngô khoai Vì mẹ muốn con ăn khỏe Và vì mẹ muốn con yêu khỏe Nên trái tim con mãi mãi còn Con mang dạ dày nghèo và trái tim son Tháng 4 năm 1975 về gõ cửa 21 tuổi con giấu hết bao nhiêu binh lửa Vào đôi mắt sắp già Gặp mẹ con chỉ chừa ra Cái bụng thực thà son trẻ Cái bụng thực thà giống mẹ
Nhưng bụng mẹ bụng con thì khác lòng người Lòng người như sông ngòi Quanh co theo đồi núi Lịch sử dạy ông Nguyễn Trãi Hết vi thần thì ở ẩn mà làm thơ Lịch sử dạy ông Nguyễn Du Chưa làm quan thì làm chúng sinh thập loại Lịch sử dạy đi dạy mãi Mà con không học thuộc lòng Trong khi mọi người đổ xô làm cách mạng ở… văn phòng Con ngu ngốc thuộc thơ Cao Bá Quát “Mặt trời đỏ đi đằng nào “ Để dân đen rơi nước mắt Đầu con thay nón sắt Bằng mũ cối triều đình Chân con đổi giày đinh Bằng những đôi dép lốp Ngay ngón tay con cũng chẳng thuộc về con được Ngón tay siết cò súng Nga Ngón tay từng siết cò súng Mỹ Oi ngón tay nào do mẹ sinh ra?
Con đi theo giải phóng tám năm Nổi lo sợ ở tù không đếm lượt Đầu và chân tay hai lần bị chết Phải kể thêm sự tắt thở của dạ dày Con đem năng khiếu đi mua bán Thơ trúng giải mà không hay Thơ rẻ hơn cơm gạo Thơ mỗi ngày ăn chay Tráng sĩ bẻ gươm thành thi sĩ Sao mẹ cười con hoài?
Sao mẹ cười con hoài Để con bông lơn như trẻ nít Trong bàn tiệc con làm thơ thích khách Chém đầu 18 nịnh quan Thời buổi này ai cũng giống công an Không đánh xẻng thì đánh giá Mẹ vẫn cười con và mỗi ngày may vá Tiền công áo 50 đồng Tiền công quần 60 đồng Trong khi áo quần các em con không đủ mặc Mẹ vẫn cười con và mỗi ngày tóc bạc Lưng còng theo chủ trương Mắt mờ theo nghị quyết Tay run theo lập trường
Mẹ ơi nhớ năm 1984 Tuổi ba mươi con chưa dám lập gia đình Vợ không rõ thành phần lý lịch Bạn bè thường tụ tập bất mình Nhưng mẹ không bao giờ ban lệnh giới nghiêm Mẹ không bao giờ xét giấy Mẹ sợ đôi tay con run rẩy Rút không ra khỏi túi quần Mẹ vẫn nấu cơm và vẫn để dành phần Cho bất cứ thằng bạn nghèo nào của con gõ cửa Mẹ không cần khuyên con chó sủa Con chó sủa biết lựa mặt con người Chỉ có con người sủa không lựa mặt Con người săn nhau mẹ ơi! Bài thơ MẸ VÀ CON trên đây xem như tạm thời kết thúc phần 3 GIAI THOẠI CỦA THI SĨ… Tháng 10 – 2008 GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, PHẦN 4
Thời kỳ đầu sau giải phóng người Việt Nam gần như chỉ có hai toa thuốc để điều trị dạ dày và sức khỏe. Toa thuốc thứ nhất chính là bo bo tràn ngập trong mỗi bữa ăn. Bo bo vốn dĩ không phải là thứ thức ăn cho người nhưng trong tình trạng đất nước vừa thống nhất lại thiếu lương thực trầm trọng, nên ai nấy đều cố gắng chế biến bo bo bằng đủ mọi công thức luộc, hấp, chiên, xào… đủ kiểu để có thể nuốt trôi vào cuống họng. Ngoài ra những kẻ có năng khiếu ẩm thực có thể hô biến bo bo thành một loại bột giống như bột mì để làm thành mì sợi, bánh bao, nui… với điều kiện vừa nấu chín xong phải xơi tại chỗ, bởi chỉ cần để lâu chừng nửa tiếng là các thành phẩm sáng tạo sẽ cứng như đá. Ở trường Thanh Niên Xây Dựng Cuộc Sống Mới Xuyên Mộc năm 1977 tôi đã từng được nếm thứ bánh bao cứng như đá có thể gãy răng nanh như chơi từ nhà bếp hậu cần: SIÊU THỰC PHẨM Ở một thời kỳ mà ngay cả bột mì Cũng hóa thành thức ăn tân kỳ nhất Bóp nhẹ đôi tay thành bánh bao lúc lắc Thêm vài cọng hành húp được bữa canh nui Bóp thật nhanh vì bao tử rã rời Dù được trang bị một bồ lý luận Húp thật chậm vì dạ dày trống rỗng Dù được nhai xong quan điểm lập trường… Toa thuốc thứ hai chính là xuyên tâm liên. Xuyên tâm liên là những viên thuốc tròn màu đen ngó như cứt chuột được các viện bào chế nội địa tung ra để trị bá bệnh. Hồi đó các bạn chỉ cần gõ cửa các trạm y tế phường xã là sẽ được bác sĩ lẫn y tá cung cấp ngay một lô đại trà xuyên tâm liên cho dù bệnh các bạn có là cảm mạo thông thường hoặc xuất huyết bao tử, sưng gan, ung thư, giang mai hay cùi hủi. Đặc biệt xuyên tâm liên được điều trị cho cả trẻ con lẫn người già. Yêu cầu duy nhất là miễn giải thích bởi khả năng ngành y không thể có được thuốc kháng sinh. Trong tình thế cơm không có ăn, áo không đủ mặc như thế nhưng Việt Nam vẫn lập được chiến công vĩ đại là đưa người vào không gian. Tôi còn nhớ chuyến bay “mãnh long quá giang” của Phạm Tuân trên tàu vũ trụ Liên Xô được giới văn nghệ giang hồ truyền khẩu bằng hai câu ca dao như sau: “Hoan hô đồng chí Phạm Tuân – Đang ở dưới đất bỗng tưng lên trời”. Sự kiện hài hước ấy đã giúp tôi làm một bài thơ kỷ niệm sau khi phỏng vấn bà ngoại 70 tuổi của mình: ĐÓI Tôi mang cơn đói về nhà Các em tôi đứng chờ với cái bụng lò xo Đôi mắt các em tôi chảy nước miếng Giá tôi biến thành cục thịt bò màu tím Được ram cẩn thận ở nhà hàng quốc doanh Lê Lai
Tôi nắn lên những đốt xương sườn có giá trị ngang những khúc cây Nơi lồng ngực người yêu tôi hô hấp Cặp vú của nàng xa lạ với chữ “mập” Như đứa hiếp dâm xa lạ với nhà chùa Nếu trời cho tôi có bùa Tôi sẽ “thư” hết những kẻ ăn cơm một ngày ba buổi
Cơn đói không biết nói dối Má tôi không biết đánh bài cào Bà ngoại tôi không biết Phạm Tuân bay ở hướng nào Nhưng biết khoai mì thiếu phân sẽ sượng Biết mỗi tiếng còi giao thông là mười đồng to tướng
Mỗi ngày tôi lại ra đi Mặt ngửa tay xin nhiều kiểu cầu kỳ Sân khấu hóa trang đứng ngồi chồm hổm Tôi thấy văn học đục tường ăn trộm Hội họa, âm thanh ghé tiệm cầm đồ Tôi thấy xe hơi cầm lái là bò Biệt thự mở vào khép ra đầy chó Heo mặc áo vest cười rung cửa sổ Mệnh phụ tụt quần đứng ngóng ngã tư Thấy mắt tôi đui, màng nhĩ tôi ù Thấy tôi trở về mang theo cơn đói Ả điếm trở về mang theo hơi thối
Ả điếm được no nhờ bước hai hàng Tôi được làm người nhờ đói quanh năm Một trong những kẻ sĩ ngoài Bắc đầu tiên mà tôi tiếp xúc sau giải phóng là Lưu Trọng Văn, con trai thi sĩ tiền chiến Lưu Trọng Lư. Qua Lưu Trọng Văn, tôi có dịp làm quen với cặp vợ chồng nhà thơ nổi tiếng ngoài đó là Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh. Tôi có một kỷ niệm riêng đặc biệt với Lưu Quang Vũ một đêm ở Hồ Con Rùa mà không tiện kể ra đây. Chỉ biết lúc đó anh đã kể với tôi về thời gian tuyệt vọng không lối thoát khi B52 dội bom miền Bắc, thậm chí anh đã có ý định tự sát dưới mưa bom (nhưng bất thành) khi tổ chức và đồng nghiệp tỏ ra nghi ngờ lòng yêu nước của mình. Cuối năm 1977 Lưu Quang Vũ là một trong vài người ngăn cản tôi đi bộ đội khi tôi cho anh xem những lá đơn tình nguyện ra biên giới chiến đấu. Bằng kinh nghiệm cá nhân của một người cầm súng phía Bắc, có lẽ anh hiểu rằng tôi không thích hợp với trò chơi phe nhóm của chiến tranh. Kỷ niệm văn nghệ của chúng tôi được ghi nhận bằng tuyển tập thơ NHÌN NHAU VÀ NÓI do tôi và anh Tôn Thất Mạnh Tường phụ trách tập hợp, đặt tên và biên tập. Trong tuyển tập thơ NHÌN NHAU VÀ NÓI ra đời cuối năm 1975 mang ý nghĩa thống nhất thơ ba miền do Thành Đoàn xuất bản này, tôi đã chọn một bài thơ của Lưu Quang Vũ dù lúc đó chưa quen biết anh. Bài thơ nói lên tâm trạng trống rỗng của người lính sau khi đất nước thống nhất, bài thơ độc đáo đối với độc giả phương Nam bởi không nằm trong dòng chảy của thơ minh họa và thơ đồng phục. Bài thơ ăm ắp tính người. Đáng tiếc đến giờ này kho sách của tôi đã bị mất tuyển tập đầu tiên ấy. Ngay từ hồi mới quen, Lưu Trọng Văn đề nghị tôi nên viết hồi ức về những gì mà chính tôi nếm trải trong chiến tranh. Tôi trích từ tự truyện HAI HÀNG DỌC, TRƯỚC THẲNG vừa hoàn thành trong tháng 5 – 1975 ra một chương gần cuối đặt tựa là “LOÀI CHIM ĐI BIỂN” và gửi Lưu Trọng Văn đăng báo Văn Nghệ Trung Ương ngoài Bắc. Các bạn nên biết bốn chữ LOÀI CHIM ĐI BIỂN thoạt nghe có vẻ cực kỳ thơ mộng, nhưng thực chất đó là tên gọi triển khai một cách hài hước của bốn từ “LAO CÔNG ĐÀO BINH” gọi tắt là “LCĐB”, là tên gọi chung những sĩ quan binh lính Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ, bỏ ngũ, phản chiến, bị giam ở quân lao, cuối cùng gom lại tập trung đưa đi làm lao công chiến trường như một thứ “bia đỡ đạn” . LCĐB còn được gọi nôm na là “Lũ Chó Đái Bậy” hoặc “Lính Chiến Đồng Bằng”… Ngay khi vừa xuất hiện trên mặt báo, truyện ngắn LOÀI CHIM ĐI BIỂN đã gây tiếng vang và được dư luận ngoài đó nhận xét như một thứ bút pháp lạ. Sau này có dịp tôi sẽ cho ra mắt tự truyện trên. Tôi còn nhiều lần gặp lại Lưu Trọng Văn ở tòa soạn báo Lao Động trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa lúc anh về làm báo cùng với nhóm các anh Lý Quý Chung, Hoàng Thoại Châu, Trần Trọng Thức… Nhà thơ Hoàng Thoại Châu vừa là đàn anh vừa là đồng nghiệp cũ của tôi thời kỳ đầu làm báo Tuổi Trẻ, anh từng đoạt giải nhất thơ miền Nam thời Nguyễn Văn Thiệu và sau đó ở tù Côn Đảo vì hoạt động chính trị. Nhà báo Trần Trọng Thức thường đặt bài tôi viết về mảng phóng sự của những con người dưới đáy xã hội như những người bán vé số hát rong, bán ve chai, xích lô xe kéo vĩa hè, đám giang hồ anh chị sống ngoài vòng pháp luật…Riêng ông Lý Quý Chung, cựu dân biểu Sài Gòn kiêm nhà báo thể thao dưới bút hiệu Chánh Trinh, là người hỗ trợ tôi về tài chánh tích cực nhất. Mỗi lần xảy ra sự kiện bóng đá Euro hoặc World Cup ông thường đặt hàng tôi những bài thơ thời sự bóng đá nóng hổi, nhuận bút mỗi bài thơ tương đương “một chỉ vàng”. Trong tư thế của một người cầm bút tự do không hề lãnh lương bất cứ nơi đâu, thú thật là tôi rất cảm kích điều đó. Với khoản thu nhập sau mỗi sự kiện thể thao, tôi góp phần bảo vệ sự sống gia đình mà không phải hạ mình trước áp lực nào. Tôi còn nhớ bài thơ THI HÀNH đọc cho Lý Quý Chung nghe ở nhà hàng Thanh Niên khi ông mở quán. Hôm đó có mặt cả anh Huỳnh Bá Thành và vài thân hữu…
THI HÀNH Thi ca cũng hệt như bóng đá Hạng A thưa mà hạng B dày Làm thơ cả nước 50 triệu Trở thành thi sĩ đếm đầu tay
Trở thành thi sĩ đều thê thảm Đứa bán ve chai, đứa chợ trời Đứa nào cũng mánh đồ quốc cấm Chỉ trừ thơ chẳng quốc doanh thôi
Thơ quốc doanh sơ sơ ngàn đứa Chen chúc nhau mà đấu võ đài Mánh mung chôm chĩa nghề buôn chữ Nghị quyết chuyền nhau giắt lỗ tai
Nghị quyết chuyền nhau thơ cổ động Mặc sức mà đi khách niêm vần Chai mặt còn hơn nghề nằm ngửa Lấy chồng chẳng để một phương không
Đã thế còn học đòi viết lách Đội trên đạp dưới, bợ triều đình Mình ta đủ chấp ngàn pho sách Ngứa mồm chửi đổng cũng thành kinh
Điểm danh thấy tủi cho văn học Ngửa hết bàn tay muốn khóc thầm Hạng A chưa kín trên mười ngón Vậy mà quá nửa phụ nhân dân
Vậy mà quá nửa lo kiếm chác Thuở nhiễu nhương, Phật phải xa chùa Chúa ngừng giảng đạo vì chiên đói Chữ nghĩa làm sao khỏi muối dưa
Chữ nghĩa làm sao không chay tịnh Vũ Hữu Định say chết giữa trời Lên núi Nguyễn Đức Sơn mài kiếm Xuống đường Bùi Giáng giả điên chơi
Nói chung thi phú chờ thi bá Hạng A còn chừng ấy giang hồ Những thằng lòn cúi ta khai tử Sợ đói làm sao trí tuệ no
Sợ đói cho nên thơ tiền chiến Khom lưng mà an phận kéo cày Bao danh sĩ, danh không liêm sĩ Từ hạng A rớt xuống B ngay
Thi ca cũng hệt như bóng đá Hạng A thưa mà hạng B dày Riêng ta tên tuổi tìm không có Hay chờ ngoại hạng mới kê khai…
Nói về chuyện bị áp lực của dư luận, tôi là thằng thường xuyên bị “Đảng nghi ngờ, nhân dân chú ý”. Trong hai năm 2007, 2008 hai đài phát thanh là BBC và RFA mỗi đài phỏng vấn tôi khoảng 4 lần, mỗi lần từ vài phút cho đến cả tiếng đồng hồ. Những cuộc phỏng vấn xoay quanh chuyện làm báo trong nước và chuyện hành nghề cầm bút. Những cuộc phỏng vấn trực tiếp và bất ngờ đó không hề có thù lao cho người được phỏng vấn dù có người tưởng rằng tôi được trả rất nhiều tiền. Tất nhiên là trước khi thực hiện phỏng vấn, bằng phép lịch sự của nghề báo quốc tế thừa nghiệp vụ và đầy kinh nghiệm, họ thường hỏi tôi rằng có đồng ý trả lời những câu hỏi hóc búa của họ hay không… Mới đây nhất sau bài trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 13-5-2008 về vụ hai nhà báo trong nước bị bắt vì những bài báo liên quan đến PMU 18, tôi lập tức bị một vài blog cá nhân nặc danh xuất phát từ báo Tuổi Trẻ và vây cánh của họ tấn công chụp mũ trên mạng. Trong đó đòn tấn công bẩn thỉu, ti tiện, trắng trợn nhất là vu cáo tôi “rời khỏi báo Tuổi Trẻ vì ăn cắp xe đạp”… Nếu các bạn đã từng đọc qua loạt hồi ký GIAI THOẠI CỦA THI SĨ nhất là GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, PHẦN 3 mà tôi từng tiết lộ cách tôi rời khỏi báo Tuổi Trẻ như thế nào, sau ba lá đơn tình nguyện đi bộ đội trong đợt Hồng Binh của Thành Đoàn, sau đêm đọc thơ long trọng rầm rộ ở Nhà Văn Hóa Thanh Niên năm 1978 dưới sự chứng kiến của các cấp lãnh đạo Thành Ủy, Thành Đoàn và hàng ngàn công chúng trẻ thì mới thấy việc vu cáo trên đúng là “trét cứt” vào mặt chính cấp trên của chúng đã đưa tiễn tôi lên đường. Hôm đó anh Lê Công Giàu, đang đương nhiệm phó bí thư Thành Đoàn kiêm chỉ đạo trực tiếp báo Tuổi Trẻ đã ngậm ngùi bắt tay tôi sau buổi đọc thơ nói rằng: “Thơ ông hay lắm, Chỉ tiếc rằng ông sinh bất phùng thời, không có đất dụng võ”. Tôi có làm hai bài thơ sau đây để trả lời bọn tiểu nhân ném đá giấu tay sau vụ trả lời đài BBC. Bài đầu tiên “đấm” thẳng vào một blog cá nhân đòi “tát vào mặt Bùi Chí Vinh”: PHẢN ỨNG CỦA THI SĨ Chúng tát vào má phải của Giê Su Giê Su chìa má trái Chúng tát vào má ta bên phải Ta không làm Giê Su Ta tập trung một thế hệ căm thù Để chìa ra… quả đấm! Bài thứ hai mang tựa SÁU MẶT CON XÚC XẮC vạch trần chân tướng lũ cơ hội trong giới làm báo và cầm bút ở Việt Nam đang lăm le thu hoạch địa vị và lợi nhuận lần thứ hai nhờ những đảng viên cầm quyền biến chất và suy thoái: SÁU MẶT CON XÚC XẮC Khi các ngươi đua nhau xu nịnh Đảng Để hằng mong kiếm địa vị cho mình Thì ta lưu lạc trong lòng cách mạng Làm thơ khuyên người nghèo KHOAN nói chuyện tiếu lâm
Bây giờ các ngươi lại đua nhau dè bỉu Đảng Để lần thứ hai kiếm lợi nhuận cho mình Thì ta tiếp tục lưu lạc trong lòng cách mạng Làm thơ khuyên người nghèo NÊN nói chuyện tiếu lâm Trở lại chuyện “ăn cắp xe đạp” vớ vẩn, có lần dự liên hoan sinh nhật cuối năm của báo Mực Tím tôi đã ngồi cùng bàn với đồng chí Phan Xuân Biên (Trưởng Ban Tuyên Giáo Thành Ủy) và nhiều văn nghệ sĩ khác, tình cờ được nghe chính ông Phan Xuân Biên kể về giai thoại tôi “cầm nhầm xế điếc” của vợ ông tại nhà xe chung cư 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa (đường Công Lý cũ) thuộc Hội Văn Nghệ Giải Phóng phía Nam. Câu chuyện của ông đã làm mọi người cười bể bụng. Cần mở ngoặc đơn chỗ này, Phan Xuân Biên không hề xa lạ gì với gia đình tôi, ông cùng chung đơn vị với cậu ruột Tám Ruby của tôi tại Biệt Động Thành Đội. Cậu Tám Ruby thuở còn sống có nói với tôi rằng ông Biên làm trợ lý cho Thiếu Tướng Tư Lệnh Biệt Động Thành Trần Hải Phụng (tức ông Ba Đặng). Câu chuyện mà ông Biên kể đại khái như sau: Khoảng năm 1977 tôi đến chung cư 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa chơi với các nhà văn Trang Thế Hy, Chim Trắng và chiều tối có ghé thăm nhà thơ Trần Nhật Thu ăn cơm rồi mượn chiếc xe đạp mini của Trần Nhật Thu để đi công chuyện vài ngày. Dĩ nhiên là anh Thu đồng ý và chỉ tôi xuống nhà xe tập thể để lấy “xế điếc”. Trong cơn say xỉn kèm theo bóng tối nhập nhoạng, tôi đã lấy lộn một chiếc xe đạp mini khác dựng kế xế điếc của Trần Nhật Thu. Và tôi đã chạy luôn một mạch ba ngày mới quay trở lại nhà xe để trả cho khổ chủ. Tôi không hề biết rằng trong thời gian đó khu tập thể văn nghệ sĩ giải phóng náo loạn vì bà vợ của đồng chí Phan Xuân Biên tri hô bị… mất xe. Khách khứa đến chung cư ba ngày trước đều bị khoanh vùng, trong đó có tôi, và tất nhiên bộ dạng giang hồ của tôi đáng bị nghi ngờ nhất. Anh Biên kết luận sau câu chuyện hài hước đó tại báo Mực Tím: “Bùi Chí Vinh sinh ra để ăn cắp cái gì khác lớn hơn chớ đâu phải chiếc xe đạp”. Đó là câu chuyện xảy ra ở một chế độ mà ai cũng có thể nghi kỵ lẫn nhau từ người trên xuống kẻ dưới, từ kẻ có quyền lực quyết định sinh mạng người khác đến dân đen vốn như cá nằm trên thớt. Vì vậy khi xuất hiện hoặc ăn nói trước đám đông, ai nấy đều phải tự đề phòng. Tôi là thằng ít chịu đề phòng nên thường biến thành miếng mồi ngon cho bọn bất tài đội trên đạp dưới khoái dèm pha nịnh hót. Chúng hay rình mò những văn nghệ sĩ, chính khách, những nhà trí thức nổi tiếng để ghi âm, báo cáo lấy điểm hòng thăng quan tiến chức. Chính vì thế có một chuyện khôi hài xảy ra sau đây khi tôi được Nhà Xuất Bản Kim Đồng mời dự bữa tiệc mừng huy chương lao động của NXB cách đây vài năm. Trong tiệc, tôi và vợ tôi ngồi cùng bàn với ông Nguyễn Thắng Vu, nguyên giám đốc NXB kiêm Chủ Tịch hội đồng xuất bản hiện thời. Sau màn tay bắt mặt mừng, ông Nguyễn Thắng Vu mời bà Phạm Phương Thảo, Chủ Tịch HĐND Thành Phố đến gặp tôi tại bàn. Qua vài câu chào hỏi xã giao, ông Vu nói thẳng với bà trước mặt nhiều người: “Bà bảo Bùi Chí Vinh là thằng có tư tưởng phản động không có lợi cho Nhà Xuất Bản. Bà không cho phép tôi được sử dụng Bùi Chí Vinh. Qua những gì Bùi Chí Vinh đã làm việc và tự vươn lên để nổi tiếng thì tôi thấy Bùi Chí Vinh không phải như những gì bà đã áp đặt cho chúng tôi. Bùi Chí Vinh không có Nhà Xuất Bản Kim Đồng vẫn tiếp tục lừng danh với hàng loạt kịch bản phim nhựa ra mắt toàn quốc và quốc tế, được công chúng lẫn dư luận trong và ngoài nước thừa nhận. Vậy bà nghĩ sao?”. Trước phát biểu của ông Vu, bà Thảo quay sang tôi đánh trống lảng: “Bùi Chí Vinh cứ tiếp tục viết truyện thiếu nhi, và chỉ nên viết truyện thiếu nhi thôi, đừng nên viết những gì khác”. Trời đất, tôi sinh ra đời từ một ngôi sao “quậy” làm thiên chức của kẻ sĩ sáng tác đủ thể loại văn học ghi nhận mọi biến thiên của thời đại, trong đó chuyện viết cho lứa tuổi mới lớn hoặc thiếu nhi chỉ là một bộ phận nhỏ trong sự nghiệp. Tôi không ôm mộng viết SỬ KÝ như Tư Mã Thiên để bị thiến… dái, nhưng tôi cũng không hèn hạ biến thành một loại bồi bút, gia nô cho lãnh đạo xoa đầu, chỉ đâu đánh đó. Vì thế xin lỗi bà Phạm Phương Thảo, cựu Bí Thư Thành Đoàn thời tôi đi bộ đội năm 1978. Năm ấy cũng chính bà đến Nhà Văn Hóa Thanh Niên nghe tôi đọc thơ và đưa tiễn quân tình nguyện Hồng Binh. Tôi nghĩ rằng có thể tự thâm tâm bà không hề ác cảm với tôi, nhưng cái nhìn lệch lạc của bà khi nghe những báo cáo tâu hót của cấp dưới vô tình làm khốn đốn biết bao nhiêu kẻ sĩ. Ngay cả những bí thư tiền nhiệm trước đó của Thành Đoàn là ông Phạm Chánh Trực tức Năm Nghị và ông Nguyễn Chơn Trung tức Sáu Quang cho dù không dám “dùng” tôi cũng chưa bao giờ mở lời xúc phạm một thi sĩ của phong trào đấu tranh đô thị như vậy. Nhân đây cũng xin nhắc lại khoảng đầu thập niên 80 tôi cũng từng bị ông Võ Văn Kiệt ngộ nhận qua những kiểu báo cáo “lấy điểm” như thế và tôi cũng đã có dịp đọc thơ trực tiếp tại nhà ông Kiệt khi ông mời tôi và nhóm sáng tác của Thành Đoàn lại tư gia dùng bữa cơm thân mật. Điều quan trọng là tôi đã đọc những bài thơ “nổi loạn”, “phê phán bất công xã hội” mà ông Kiệt muốn nghe là XÍCH LÔ HÀNH, VE CHAI HÀNH…và chứng kiến vị Bí Thư Thành Ủy lúc đó vỗ tay cười cực kỳ thoải mái. Riêng cố Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh lại càng đáng quý trọng hơn, hồi còn sinh tiền chính ông bảo vệ những bài thơ từ tập THƠ ĐỜI của tôi khi đám nịnh thần xum xoe chụp mũ. Hơn ai hết, ông là tác giả tiết mục NHỮNG VIỆC CẦN LÀM NGAY nên quá biết những gì bất công thối tha của xã hội cần phải phê phán và lên án triệt để. Cũng may tôi xuất thân từ gia đình cách mạng thứ thiệt và bản thân từng tham gia hoạt động cách mạng ngay từ 15 tuổi nên ba cái chuyện chụp mũ ruồi bu vớ vẩn coi như sự tích Hứa Do xuống suối rửa tai, Sào Phủ dắt trâu lên bờ sợ trâu uống nhầm nước bẩn. Chỉ tội nghiệp cho giới văn nghệ sĩ cầm bút “sĩ khí rụt rè gà phải cáo” trong thơ Tú Xương lỡ bị những kẻ lãnh đạo như bà thành kiến thì chỉ có nước bỏ nghề, bán thân mình đi xuất khẩu lao động hải ngoại… Bài thơ MẠT LỘ của tôi phần nào đã nói lên điều đó: MẠT LỘ Không còn chút hy vọng Trong sự trở lại bờ Những chiếc phao tưởng tượng Hành tội người nằm mơ
Bao nhiêu đợt sóng xô Nhấn ta chìm dưới đáy Ta chẳng hề mơ hồ Trước cánh buồm đã gãy
Thơ ta là hoa trái Không kiếm được mảnh vườn Thơ ta là máu chảy Dính trên đầu mũi gươm
Đừng vì nỗi héo hon Mà đầu hàng số phận Ta thiết gì mồi ngon Chiếc cần câu danh vọng
Trước mặt là khoảng trống Sau lưng là vũng lầy Ta như là trái đất Quay. Một mình tự quay! Nói lên chuyện này để thấy theo dòng thời gian gột rửa đá vẫn là đá, vàng vẫn là vàng. Tôi còn nhớ hai câu ca từ trong một bài hát của nhạc sĩ Miên Đức Thắng: “Một mai qua cơn giông tố, nắng lên soi rõ mặt nhau” . Ngày 20-9-2007 hai tập THƠ TÌNH BÙI CHÍ VINH và THƠ ĐỜI BÙI CHÍ VINH họp báo ra mắt trang trọng tại trụ sở Hội Nhà Báo TP. Riêng tập THƠ ĐỜI sau bao nhiêu năm rúc trong ngăn kéo, tồn tại bằng sự truyền khẩu, đã được Nhà Xuất Bản Thanh Niên ấn hành. Trước đó bản thảo của tập THƠ ĐỜI từng được gửi đến 3 Nhà Xuất Bản khác nhưng đều bị từ chối vì những lý do miễn bàn. Buổi họp báo có mặt các thân hữu chọn lọc thuộc hai phe Hắc, Bạch giang hồ gồm đủ mọi môn phái thơ văn nhạc họa điện ảnh sân khấu… Các phát biểu chân thành của các đạo diễn Nguyễn Chánh Tín, Đào Bá Sơn, diễn viên điện ảnh Hiền Mai, của các nhạc sĩ Trần Tiến, Miên Đức Thắng, Lã Văn Cường, của các nhà văn nhà thơ Đoàn Thạch Biền, Đỗ Trung Quân, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Quốc Chánh …đều chia sẻ những nỗi niềm cay đắng mà tác giả đã một thời gian dài gánh chịu. Hôm đó phát biểu của nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã được báo Phụ Nữ thành phố ghi lại như sau: “Là người làm thơ hơn 40 năm nay, đây là lần đầu tiên tôi được chứng kiến một buổi ra mắt thơ sang trọng như hôm nay. Tôi rất vui khi thấy thơ được tôn vinh như thế này…”. Tôi thiết nghĩ thành công của buổi ra mắt qua những bài viết trên báo chí là câu trả lời đích đáng nhất cho những phe nhóm hay quyền lực nào muốn đẩy tôi đến đường cùng không còn đất sống. Cuối năm 1980 tôi bắt đầu đạp xích lô qua trung gian của đồng chí Nguyễn Trì, một cán bộ Thành Đoàn bất đắc chí. Nguyễn Trì giới thiệu tôi làm quen đám giang hồ hảo hớn khu vực Tân Kỳ Tân Quý miệt Bà Quẹo và tôi được một chiến hữu cho trưng dụng chiếc xích lô bửu bối kiếm cơm những lúc chiến hữu kẹt công chuyện khác. Tôi đạp xích lô như làm thơ, hứng thì chạy vòng vòng Sài Gòn đón khách, chán thì “tấp” vào biệt thự các sếp lớn trên đường Phùng Khắc Khoan, quận 1 bấm chuông hoặc gõ các trạm gác bảo vệ yêu cầu cho gặp thủ trưởng. Phải thú thật tôi chưa bao giờ lấy tiền người già, phụ nữ, trẻ con, ngay cả gái ăn sương. Tôi chở họ miễn phí nhưng với bọn công tử ăn chơi thì lấy tiền đích đáng. Nguồn thu nhập chủ yếu trong thời gian giả dạng “xích lô hành” của tôi là những bì thư của các sếp lớn nhét vô túi áo túi quần mỗi khi họ thấy chiếc xích lô quen thuộc nằm chình ình trước các biệt thự. Nhiều thân hữu văn nghệ giang hồ đã từng chứng kiến tôi thu nhập kiểu đó để có lệ phí lai rai ba sợi như Bảy Dũng, Hồ Lê Thuần, Ba Lê, Chiêu Anh Hải, Vũ Ngọc Giao, Đoàn Vị Thượng… Có lần tôi chở đôi tình nhân sinh viên nghèo thuê xe một đêm để được yêu nhau một cách rất con người. Đơn giản là họ không có tiền để thuê nhà trọ hoặc thuê một băng ghế đá ngồi âu yếm. Cảnh tượng não lòng và phổ biến đó khiến tôi bật thành bài thơ mang tựa THỜI CỦA NGƯỜI GIÀ. Xin chép ra đây cho các bạn thưởng thức: THỜI CỦA NGƯỜI GIÀ Không có một chỗ trú cho chúng ta Đây là thời đại của những người già cả Anh muốn đi chơi buổi chiều với em quá xá Tìm không sao thấy một chỗ ngồi Anh đã thử ra công viên lựa một chỗ khá tồi Nhưng vừa đứng dậy lại bị người chiếm mất Anh đã mua vé hung hăng đi lùng trong rạp hát Chỉ thấy toàn những bộ phim câm Cuối cùng chúng ta đành âm thầm Yêu nhau bằng cách khoanh tay bó gối
Không có một chỗ trú cho chúng ta, anh không nói dối Đây là thời đại của ông già Ông già vắt chân chữ ngũ triết gia Luận Tam Quốc bằng bảy lần uốn lưỡi Ông già cởi trần khoe xương sườn như củi Hippy mà múa Thái Cực Quyền Ông già ban ngày, ông già về đêm Chai rượu đế cạn bên bàn cờ tướng Thành phố giống như một ông già hổ lốn Sĩ tốt tựa cháu con, sĩ tốt tựa khoai mì Ông già đến rồi ông già đi Để lại những nếp nhăn trên thời kỳ tuổi tác
Không có một chỗ trú cho chúng ta, anh không nói khoác Đây là thời đại của bà già Bà già nhai trầu và bõm bẽm đơn ca Những bài hát sáu câu về cơm áo Bà già làm đủ nghề, kể cả nghề đi dạo Lên bục đọc diễn văn, xuống bục ngủ vĩa hè Bà già disco mở cửa hàng nhậu nhẹt Chăn gối thừa trong các phòng khuê
Hoàn toàn không có một chỗ trú cho chúng ta Đây là thời đại của những người già cả Tuổi 40 nghĩa là nhà thơ trẻ Khoảng 60 làm thi sĩ là vừa Từ 70 trở đi là tuổi của nhà vua Quan lại mới ăn lộc bằng năm tháng Trong khi tuổi của tình yêu chỉ cần vài cơn nắng Một chút mưa đủ cảm thấy mình già Chúng ta yêu nhau ngày một ngày ba Sợi tóc bạc phếch trong trái tim mới lớn Cứ thêm một ngày là tình thêm chết sớm
Thế mà không có chỗ trú cho chúng ta Thành phố tróc da trên cây me già Rớt vẩy xuống sư sinh sôi của cỏ Chúng ta nhỏ nhoi trong từng hơi thở Thiếu oxy vì xăng nhớt vì dầu Chúng ta rang ái tình trong từng tóp mỡ Không cần miếng thịt nạc sống dài lâu Còn mở mắt là biết mình còn thọ Nhưng có chỗ nào anh trú với em đâu? Bài thơ THỜI CỦA NGƯỜI GIÀ sau này được tôi “chuyển thể” thành truyện ngắn BỐN THÍ NGHIỆM TRONG ĐÊM TÂN HÔN đăng tải trên nhiều báo trong và ngoài nước. Truyện ngắn BỐN THÍ NGHIỆM TRONG ĐÊM TÂN HÔN một lần nữa lại được tôi “chuyển thể” thành kịch bản phim nhựa 45 phút của hãng Chánh Tín do Nguyễn Chánh Tín làm đạo diễn, vừa công chiếu các rạp trên toàn quốc tháng 6-2008 cùng với phim CHẾT LÚC NỬA ĐÊM. Đạp xích lô vài tháng, một lãnh đạo Thành Đoàn “chịu không thấu” nên gửi tôi vào làm Xưởng Huy Hiệu Thành Đoàn nằm trên đường Lê Lợi. Tại đây tôi biến thành công nhân máy dập kim loại bất đắc dĩ và tạo uy tín cá nhân bằng những tờ báo tường cho cơ quan. Tôi tự vẽ và viết đủ mọi thể loại thơ, truyện, tùy bút, vui cười, truyện tranh, chuyện phiếm… ký dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Không khí như sôi lên khi tôi cùng anh Quế (anh ruột của chị Quỳnh Hoa và anh Năm Bằng, cán bộ Thành Đoàn) đặt biệt danh mọi người trong cơ quan thích ứng với thế giới động vật và thực vật trong Sở Thú. Chẳng hạn các cô gái ở bộ phận sơn huy hiệu có các biệt danh Con Mèo, Con Thỏ, Con Nhím, Con Voi, Con Muỗi, Con Cầy Hương, Con Thiên Nga… tùy theo nhan sắc và trọng lượng thân thể của các cô. Chẳng hạn các ông cai ở các bộ phận văn phòng, bộ phận chỉ huy, bộ phận hậu cần thì có các biệt danh Tre Miễu, Cây Si, Cây Măng Cụt, Trái Sầu Riêng, Chôm Chôm. Riêng chiến hữu giang hồ trắng trẻo khu Tân Định là Lâm Cầu Kiệu làm bảo vệ cơ quan được anh Quế phong tặng biệt danh “Thợ Săn” còn tôi thì là “ông chủ Thảo Cầm Viên” lãng mạn… Chính nhờ giai đoạn lao động “thơ mộng” này mà tôi thai nghén tiểu thuyết học trò mang tên TÓC TIÊN. Tiểu thuyết TÓC TIÊN xuất hiện qua hình thức đăng feuilleton nhiều kỳ trên báo Mực Tím năm 1991 và cuối năm đó được độc giả tuổi mới lớn bầu chọn là truyện dài hay nhất trong năm. Không một ai hay biết những nhân vật trong truyện TÓC TIÊN có một số mang biệt danh các đồng nghiệp của tôi từ thời làm ở Xưởng Huy Hiệu. Trong thời gian làm ở Xưởng Huy Hiệu tôi có dịp làm quen với nhà thơ, nhà văn kiêm kịch tác gia bụi đời Mặc Tuyền. Làm quen một cách khơi khơi. Trước cửa xưởng 66 Ter Lê Lợi, quận 1 là mặt tiền một đại lộ lớn với vỉa hè rộng là “phao cứu sinh” đối với rất nhiều người buôn bán nhỏ, trong đó có anh Mặc Tuyền. Mặc Tuyền vốn là “đại đệ tử” của nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà, anh có một thời lăn lóc giang hồ với đủ nghề nghiệp mưu sinh kiếm sống, và đang kiếm sống bằng cách bán đủ các loại ống tiêu, ống sáo ngay trước cơ quan tôi. Trước đó tôi đã biết anh khi anh đoạt giải nhất truyện ngắn của báo Văn Nghệ TP cùng với đạo diễn Lê Văn Duy. Anh hoàn toàn bất ngờ khi hay tin tôi cởi áo lính làm công nhân máy dập Xưởng Huy Hiệu. Đêm đầu tiên hạnh ngộ, hai anh em ngồi quán cóc vỉa hè, anh thổi sáo ngâm thơ cho tôi nghe và kể rằng chỗ buôn bán của anh hiện nay cũng chính là chỗ thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên (một thi sĩ tài hoa trước 1975 có nhiều bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc) từng đứng bán chợ trời trước khi vượt biên sang Mỹ. Hôm đó tôi đã đọc cho Mặc Tuyền nghe bài thơ ĐÓI LIÊN TỤC của một gia đình cách mạng khiến anh thẫn thờ: ĐÓI LIÊN TỤC Nhà hết gạo Chung quanh một nồi cháo Mười cái chén gục đầu Bốn người thất nghiệp, một người đau Nồi cháo bốc hơi cán bộ Năm công nhân viên làm toán đố Đáp số không qua giới hạn cộng trừ: “45 ký trong lu 600 phần ăn một tháng” Lúa miền Nam gặp hạn Bình Trị Thiên bão về Đồng bằng Sông Hồng hồi hộp vỡ đê Sao đọc báo chỉ thấy bội thu lương thực Sao nghe đài thấy gạo Việt thành cơm Tây cơm Nhật Sao xem ti vi thấy thóc nở đầy hình Thóc đã tràn vào ngân khố vô danh Đất nước được mùa công trái Cho lãnh tụ rộng mồm ăn nói Diễn văn đầy ngũ vị hương Ôi, hoa màu thần tiên trên các bích chương Thứ hoa màu trên giấy báo
Đương nhiên Nhà hết gạo Và mười người hết máu… Hai anh em không cần cắt máu ăn thề như tích Tam Quốc Chí, chỉ cần hiểu nhau theo kiểu “kiến nghĩa bất vi vô dõng giã – lâm nguy bất cứu mạt anh hùng” là đủ đặt niềm tin vào nhau. Chính vì thế khi Mặc Tuyền rủ tôi về Bến Tre là tôi đi theo anh một mạch. Tại đất Bến Tre không hiểu anh xoay xở ra sao mà mới vừa hành nghề bán sáo dạo lề đường bỗng biến thành ủy viên ban chấp hành Hội Văn Nghệ Nguyễn Đình Chiểu. Anh giới thiệu tôi với anh Bảy Dân, cháu cô Ba tức nữ tướng Nguyễn Thị Định. Anh Bảy Dân lúc đó đương nhiệm chủ tịch Hội Văn Nghệ hoàn toàn tin cậy Mặc Tuyền trong việc làm kinh tế cải thiện đời sống cho Hội. Trong vòng vài tháng ở Bến Tre, có lần anh Mặc Tuyền và tôi ngồi xe hơi của Hội chạy về Sài Gòn làm việc với Hội Văn Nghệ TP của đồng chí Viễn Phương khiến ai nấy há hốc mồm kinh dị. Họ không thể hiểu nổi lý do gì một kẻ bán chợ trời, một kẻ sửa xe vỉa hè bỗng hô biến thành hai “nghệ sĩ đại gia” chớp nhoáng. Tôi có ghi nhận thời gian vàng son ấy trong bài thơ NGÀY TRÌNH DIỆN BẾN TRE trích đoạn như sau: NGÀY TRÌNH DIỆN BẾN TRE Một trái tim, một ba lô con cóc Tôi đến Bến Tre như thể trở về nhà Tôi đến Bến Tre như là tôi có lỗi Vụng về không biết chào thưa Tôi đến Bến Tre như là tôi bối rối Hai tay bóp lại dư thừa
Tuổi 26 chưa sửa soạn già nua Mà trước đó ngỡ tóc mình sắp bạc Tôi đã sống một thời mê nhạc Cây guitar biết thở như người Tôi đã sống một thời đánh giặc Lựu đạn tròn khoen lách vành môi… Cuộc đời vốn dĩ là… cá ăn kiến, kiến ăn cá. Mặc Tuyền mau chóng “bạo phát bạo tàn”. Những lúc không có anh ở Bến Tre, tôi lưu linh lạc địa cùng anh em văn nghệ nghèo trong Hội chia nhau từng phiếu ăn tập thể thê thảm. Tôi còn nhớ thuở đó Kim Ba đã làm thơ có triển vọng ngay trong tuổi học sinh, đôi vợ chồng trẻ Nguyên Tùng, Ngọc Điệp đã có những tác phẩm ấn tượng, rồi Hồ Trường (hiện giờ là chủ tịch Hội Văn Nghệ Nguyễn Đình Chiểu) thuở đó phải chạy đôn chạy đáo kiếm từng giọt rượu hiếu khách cho tôi uống. Tôi tập đi qua cầu khỉ về Mỏ Cày trơn trượt té xuống sông liên tục. Và tôi đã tập bước trên thân cây dừa đầy bùn sình trơn trượt ấy cho đến lúc đi khoan thai như một ảo thuật gia. Đầu năm 1981 Mặc Tuyền từ giã Bến Tre lôi tôi quy hồi cố xứ mở xưởng làm đồ chơi tại Xóm Chùa đường Trần Quang Khải, quận 1. Xưởng đồ chơi tọa lạc trong khuôn viên một ngôi chùa nằm cạnh dòng sông đen. Ở đây tôi có ngay hai đồng nghiệp là Bảy Dũng (một cán bộ Thành Đoàn từng là một trong vài sếp lực lượng Thanh Niên Xung Phong và từng đi bộ đội cùng đợt với tôi) và Trương Hùng Dũng, em ruột nữ ca sĩ Kim Khánh bên văn công Quân Khu 7. Ba đứa tôi là ba thợ chủ lực sản xuất những bộ phận đồ chơi gia công cho một đơn vị mà anh Mặc Tuyền cung cấp theo hợp đồng kinh tế. Nếu các bạn có mặt ở Xóm Chùa lúc ấy chắc chắn sẽ hình dung chúng tôi như ba gã cô-dắc trong phim SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM. Ba đứa tôi tóc dài lê thê và bộ dạng rất ngầu chứ còn phải hỏi. Khoảng thời gian này cũng là khoảng đời thơ mộng nhất của tôi, khi tôi tái ngộ lại người con gái mà sau này trở thành hiền thê mãi mãi. Ngày đầu tiên gặp Hương Lan ở quán nước dưới chân cầu Công Lý, tôi đã có ngay một bài thơ ghẹo em:
CHIỀU CÓ LAN Chỉ cần ngón tay đưa lên môi Ngàn năm nhan sắc ở em rồi Ngàn năm trời đất thành thơ nhạc Cây cỏ chào nhau kể lứa đôi
Chỉ cần chiếc muỗng em trong ly Là tim anh chết rất nhu mì Là thằng du đãng bay đâu mất Một chút tình anh lẻn trốn đi
Chỉ cần em cứ ngồi như thế Yên lặng nhìn anh suốt buổi chiều Là anh trôi sạch bao dâu bể Mở hết lòng ra đợi tiếng… yêu! Tôi còn nhớ sinh nhật tôi ngày 23-10, đêm ấy ở khu giang hồ đầy anh chị Xóm Chùa, em và một người bạn gái đã đem quà và một cành hoa cho ngày sinh nhật thằng con trai lãng tử: SINH NHẬT Hôm nay là sinh nhật của anh Hai mươi bảy tuổi cháy ngon lành Anh xòe diêm đốt mà cay mắt Diêm tàn, riêng sọi khói mong manh
Sinh nhật anh không có đèn cầy Hoa hồng mang đến cánh còn gai Em cong môi thổi như công chúa Hơi thở thơm mùi hương trái cây
Sinh nhật anh không có rượu vang Ly quên chén dĩa, ghế quên bàn Anh quên đời sống như quên tuổi Bó gối nghe đùi thương gót chân
Sinh nhật anh không có đàn bà Tháng mười Chúa chẳng kịp sinh ra Dang tay anh đứng làm thập tự Mơ một nàng Madalêna
Sinh nhật anh không có đàn ông Tháng mười Phật giác ngộ chưa xong Vòng tay anh khép làm tràng hạt Mơ nàng Thị Kính cắt râu chồng
Sinh nhật anh mà sinh nguyệt em Có nàng con gái rất thuyền quyên Lách qua khe cửa như hơi gió Up xuống đời anh cơn bão đêm
Sinh nhật anh. Ừ, sinh nguyệt em Trăng lên soi rỗng túi không tiền Mẹ anh sinh nở con cầu tự Nên suốt đời anh ngủ mái hiên Hùm thiêng khi đã sa cơ… chẳng hèn. Xưởng đồ chơi của chúng tôi ở Xóm Chùa bị vị sư trụ trì giải tán sau một cuộc đánh lộn với đám anh chị bảo kê khu vực quanh Xóm Mười Căn. Mèo lại hoàn mèo, tôi lang thang qua khu Chợ Cá, Trần Quốc Toản, quận 10 giao du với anh em nhà Long Gỗ. Long Gỗ sau 1975 làm công tác Phường Đoàn rồi đi bộ đội đánh nhau ở biên giới, xuất ngũ chuyển qua nghề buôn củi. Tại địa phương, Long Gỗ sống như một đại ca với các em út thầu giữ xe cho khách khứa các quán xá. Chúng tôi đến với nhau trên nguyên tắc “trọng nghĩa khinh tài”. Trên bãi đất trống trước bệnh viện Nhi Đồng đường Lý Thái Tổ, hàng ngày tôi, Long Gỗ, Bảy Dũng vừa đốn củi vừa tiếp thị khách đi đường những khối thước củi chất cao nghệu với giá rẻ rề. Chúng tôi đã sống trong những ngày tháng đó bằng cách đổ mồ hôi sôi nước mắt cật lực như vậy để tồn tại. Kỷ niệm ngày gặp Long Gỗ được tôi ghi lại như sau: Bạn ta ở thành phố Chứ không phải ở rừng Sao lần này thăm bạn Thấy cây nằm ngổn ngang
Tìm trong lửa thấy vàng Tìm trong cây thấy bạn Bạn ta thành Thạch Sanh Trước khi ra ngồi quán
Tay bạn xòe mười ngón Khép lại thành núi đồi Mở ra thành sông rạch Chốn giang hồ rong chơi Cũng trong năm 1981 ông Dương Đình Thảo tức Sáu Thảo, giám đốc Sở Văn Hóa Thông Tin kéo tôi khỏi kiếp “tiều phu” về làm việc tại Phòng Bảo Tàng Lịch Sử thành phố trên đường Pasteur. Tại đây tôi ăn lương hợp đồng ở Phòng Tổ Chức Sở và làm nhiệm vụ ghi chép các địa chí văn hóa nội ngoại thành, những lúc cần thiết chú Sáu Thảo trưng dụng tay nghề “xuất khẩu thành thi” của tôi trong phái đoàn lưu diễn. Phái đoàn của chú Sáu Thảo là một phái đoàn văn nghệ tạp lục kiểu như “đại nhạc hội Hoàng Thi Thơ” trước giải phóng. Nhờ vậy tôi có dịp làm quen với nhiều nghệ sĩ sân khấu, ca nhạc trong đó có anh Trần Quang Minh tự Minh Bò. Anh Trần Quang Minh là con trai thứ của giáo sư tiến sĩ Trần Văn Khê, một nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam tại hải ngoại. Năng lực của Minh Bò có khuynh hướng nghiêng về người chú ruột là quái kiệt Trần Văn Trạch. Minh Bò có thể vừa hát rất độc những bài nhạc Pháp cổ điển, vừa hát biến thể thành nhạc Rap những hành khúc rộn ràng như “Tiểu Đoàn 307” rất có duyên trước công chúng. Anh còn hát bài thơ CHÙA HƯƠNG của thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp được Trần Văn Khê phổ nhạc theo kiểu tái chế riêng của mình cực “phê”. Còn tại sao gọi là Minh Bò thì quá dễ hiểu: anh chuyên môn mặc bộ đồ jeans của cao bồi chăn bò và mỗi lần lấy giọng thì hụ hụ trong cuống họng như bò rống. Tại Phòng Bảo Tàng anh là một bạn già thân thiết luôn yêu cầu tôi đọc thơ giang hồ mỗi khi đối ẩm. Đầu năm 1982 Sở Văn Hóa Thông Tin điều động tôi và Nguyễn Đức Thành tức Sáu Du (một cán bộ biên tập thời kỳ đầu tiên của báo Tuổi Trẻ) theo đồng chí Võ Ngọc An tự Bảy Câu ra huyện Duyên Hải (Cần Giờ) khi Bảy Câu được cấp trên thử lửa bằng chức Trưởng Phòng Văn Hóa Thông Tin của vùng đất mẹnh danh là “Sibêri” thành phố. Tại Duyên Hải tôi được anh Bảy Câu phân công làm Nhà Văn Hóa còn Sáu Du phụ trách bản tin huyện. Tất nhiên phân công là một chuyện còn lúc làm việc chúng tôi luôn choàng gánh cho nhau, bởi Nhà Văn Hóa huyện thực chất chỉ là một cái đình bỏ hoang không có mấy người ở, còn bản tin hầu như chỉ có “bộ tam sên” của chúng tôi tự biên tự diễn. Thế mà chúng tôi cũng cho ra mắt bản tin hàng tuần như một tờ báo long trọng làm nức lòng cư dân xứ biển. Tôi còn nhớ bài thơ xuất hiện trên tờ báo huyện số ra mắt mang tên PHẢN TỐNG BIỆT HÀNH của tôi được anh em người Sài Gòn và cán bộ người bản xứ học thuộc làu. Bài thơ “nhái” giọng điệu thi sĩ Thâm Tâm khi làm TỐNG BIỆT HÀNH trở thành một dạng “tình ca đặc sản địa phương” được mọi người hát lên mỗi lần cụng ly rôm rả. Hầu như giới lãnh đạo cấp huyện đều biết hát bài thơ do Lã Văn Cường phổ nhạc đó. Phải nói là anh Chung, phó chủ tịch phụ trách du lịch và xuất khẩu ôm đàn guitar chơi “bốc” nhất. Những năm sau này mỗi lần họp mặt truyền thống Duyên Hải vào dịp cận Tết Nguyên Đán, những “lính già ngày xưa” như Hồ Văn Ngon cựu Bí Thư Huyện Ủy, như anh Tư Tình bên xây dựng, ông Vui bên tòa án, anh Dương Độc Lập bên giáo dục, anh Hợp bên văn hóa, các vị khác bên các ngành khác… trong cơn say chếnh choáng thường bất chợt nổi hứng cất giọng đồng ca bài PHẢN TỐNG BIỆT HÀNH để kỷ niệm những ngày gian khổ cùng nhau… PHẢN TỐNG BIỆT HÀNH Đi đến với những người hiếu khách Ngoài ba lô còn một cây đàn Ba lô để nhớ thời chân đất Cây đàn nghe sóng vỗ thênh thang
Đưa người ta cứ đưa sang sông Không sợ tiếng sóng ở trong lòng Thâm Tâm lên núi thèm Tống Biệt Ta về biển mặn hóa dòng sông
Nhích lại gần nhau nghe ngày xưa Chàng An Tiêm lãng mạn trồng dưa Có cô công chúa đi làm rẫy Con mắt to giống như em vậy
Con mắt to thành mắt con thuyền Có người kéo lưới đợi thuyền lên Có người kéo lưới thương con mắt Mắt con thuyền… A, con mắt em
Người biết bơi nhớ mùa nước nổi Lặn làm chi sặc sụa tâm hồn Quả dưa xẻ đặt trên đầu gối Em một đầu, ta một đầu: hôn
Ừ thôi về biển ta về biển Con cá ra khơi, con chim liệng Chỉ e con sóng sớm bạc đầu Sợ hãi vì người xanh tóc đến
Đã bảo trong ba lô có biển Không, sao cây sác mọc thành rừng Đã bảo trong cây đàn có biển Không, sao âm nhạc thở tình nhân
Đừng hàm hồ nói: đất không chân Khi ngón mỗi người đều có móng Tóc biết bay và tay biết ôm Gió biết biển lúc nào xúc động
Em có thể khóc chiều nay lắm Nếu ta vờ đánh mất cây đàn Ta có thể khóc chiều nay lắm Nếu biển vờ quên mất giòng sông Bài thơ PHẢN TỐNG BIỆT HÀNH không chỉ phổ biến ở đất Cần Giờ, nó còn được truyền khẩu trong giới văn nghệ trong nước lẫn giang hồ hải ngoại. Tôi đã có dịp được nghe một số ca sĩ Việt Kiều, trong đó có Duy Quang hát dù họ không hề biết tác giả và xuất xứ của bài thơ. Trong thời gian ở huyện đảo, tôi có lần âm thầm “cứu bồ” Nguyễn Thái Dương trong chuyến tham gia phái đoàn ủy ban huyện trên chuyến ghe đi kinh lý 7 xã. Số là Nguyễn Thái Dương lúc đó đang dạy học ở xã Bình Khánh, một xã thiếu tiện nghi về mặt giáo dục đến mức độ thầy giáo Nguyễn Thái Dương phải làm bài thơ nói về “một cô giáo phải cởi áo dài gói lại để bơi qua sông” dạy học. Hoàn cảnh cô giáo giữ bộ đồ khô ráo để bảo vệ tư cách sư phạm khi đứng trên bục giảng làm cảm động người đọc, nhưng không ai lưu tâm đến số phận nhà thơ sáng tác ra nó. Khi ghe ủy ban ghé lại xã Bình Khánh, tôi có nói với anh Bảy Câu mời Nguyễn Thái Dương lên chơi. Trên ghe có mặt anh Năm Cương bí thư huyện, anh Sáu Đông chủ tịch huyện, anh Dương Độc Lập trưởng phòng giáo dục huyện và nhiều đầu ngành chóp bu khác. Chúng tôi đã tổ chức một đêm thơ nhạc bụi đời dưới ánh trăng huyền hoặc và trong cuộc trà dư tửu hậu, tôi có nhắc anh Dương Độc Lập tạo điều kiện để Nguyễn Thái Dương trở về thành phố hầu phát huy năng lực chuyên môn của mình. Dĩ nhiên là ông trưởng phòng giáo dục đồng ý cái rụp. Ở Duyên Hải không chỉ có niềm vui mà còn quá nhiều những nỗi buồn. Nỗi buồn không phải từ chuyện thiếu thốn nước ngọt, chuyện ăn cơm tập thể thóc sạn nhiều hơn gạo trắng, chuyện đồn đại về xã đảo Thạnh An như một xã đảo “Ra Đô” bởi ngư dân trên đảo ai cũng đeo đồng hồ cao cấp Ra Đô nhờ “bán bãi” cho những kẻ vượt biên từ khắp nơi đổ đến. Nỗi buồn còn đến từ những buổi chiều lang thang ngoài hàng dương chứng kiến vô số xác người từ phao số 0 trôi dạt vào bờ. Trên bãi cát màu đen đặc sản của Duyên Hải, lần đầu tiên tôi biết được đàn ông chết trôi luôn nằm sấp còn đàn bà chết trôi luôn nằm ngửa, ngay cả cái chết cũng mang quy luật âm dương. Những cái chết của những chiếc ghe chở người vượt biên do bị lừa đảo, do bị sóng lớn nhấn chìm đã làm trái tim thơ của tôi chảy máu. Năm 1983 tôi chia tay vùng đất Cần Giờ qua bài thơ PHỐ ĐỘNG sau đây: PHỐ ĐỘNG Từ giã biển một năm văn xuôi 12 tháng thi ca, 365 ngày kịch nói Ở đó ta làm diễn viên hay đến nỗi Mọi con cua đều mọc đủ hai càng Mọi con chim đều xòe ra đôi cánh Mọi con cá đều thở với hai mang
Ta làm diễn viên sân khấu bình dân Người xem kịch chỉ cần mua chung rượu Với ông già, ta đóng vai nhập tửu Với trẻ con thì ta giả thánh hiền Với phụ nữ thì ta làm gì vậy Sao lại chàng ràng như gã Lã Phụng Tiên?
Từ giã biển một năm Điêu Thuyền 12 tháng Thúy Kiều, 365 ngày Angiêlic Làm anh hùng còn có thời thấm mệt Huống chi ta làm đĩ đã rạc dài Về thành phố mà mua thêm son phấn Để thơ còn mình hạc với xương mai
Về phố mà xem chữ mọc như cây Vườn mẫu giáo thành vườn ươm dũng sĩ Kế hoạch nhỏ còn hơn làm anh chị Tội chi xưng du đãng với biển kìa Về phố phen này đi tìm giấy vụn At hẳn được bằng dũng sĩ về khuya
Về phố mà xem chữ lạnh như bia Khà một hớp là được khen tiên tiến Gái đẹp kinh thành đi đông như kiến Dí gót chân trên chiếc Cub mà lùa Về phố phen này lên đồ chững chạc At hẳn được quyền bán chúa buôn vua
Về phố mà xem bạn cũ te tua Tụ tập bất minh bàn toàn chuyện mánh Đứa chơi nhạc, đứa vẽ tranh, đứa rảnh Kể tiếu lâm bậy bạ sống qua ngày Ta mang chút sóng lòng về cho phố Chưa như nhà thơ mà đã như thằng say
Oi khi ta về đến phố phen này Là kiếp đĩ lại trở về với động… Trở về Sài Gòn tôi ngồi sửa xe vĩa hè với ông bạn giang hồ Phan Văn Bồng mà tôi đặt cho biệt danh là “Bế Văn Bồng” ngay ngã tư Trần Quốc Thảo – Điện Biên Phủ. Anh Bồng gốc con nhà võ Tây Sơn Bình Định trước 1975 tham gia các lực lượng yêu nước xuống đường đấu tranh cho dân chủ hòa bình. Anh rất mê bốn câu thơ xuất phát từ phong trào: “Hàng loạt đứng lên – Bạo tàn sụp đổ – Thế mới biết chuyện vang lừng kim cổ – Là của đám người không tuổi không tên”. Một con người mê sức mạnh của nhân dân là như thế nhưng sau 1975 cũng chính anh ngao ngán thốt lên hai câu thơ: “Khi nguy thì gọi công thần – Lúc lên chín bệ xa dân trùng trùng”. Tôi chơi thân với anh từ chí khí đó. Tại điểm sửa xe mỗi ngày tôi chứng kiến biết bao nhiêu chuyện khổ đau của kiếp người. Chỉ cần một tai nạn giao thông xảy ra trên đường là đủ thấy hậu quả nhãn tiền của một xã hội duy vật thực dụng. Mọi người hầu như bỏ mặc nạn nhân hấp hối để lo tiếp thị thu hoạch lợi tức cá nhân. Bài thơ như một sự cảnh báo tiên tri về hiểm họa mà ông Phan Văn Khải gọi là sự “vô cảm” của con người sau này: THỜI CỦA THÚ Ở một thời kỳ mà xe đụng ngoài đường Xác người chết được đem lên bàn mổ Mọi người xúm nhau như ong vỡ tổ Chợ trời lăng xăng quảng cáo thuốc Tây Gã sửa xe chuẩn bị túi đồ nghề Chiếc mỏ lết há hàm răng chó sói Xe xích lô nối đuôi cười khiêu gợi Chiếc nệm ăn mày thủng cả lò xo Những con thú đói bu quanh con thú không no Húp lẫn nhau chút bơ thừa sữa cặn Ở một thời kỳ mà trái tim đi vắng Nợ áo cơm làm thủng mắt con người… Tại ngã tư nghiệp chướng này tôi đã tái ngộ vô số bạn hiền. Có lần gặp lại Lưu Ngũ (tác giả cuốn VŨNG LẦY) đoạt giải thưởng Văn Học Thành Phố cùng với tôi, Trần Mạnh Hảo, Lê Văn Vọng, Vũ Quần Phương, Lương Minh Cừ, Nguyễn Mạnh Tuấn, Đào Hiếu, Lê Duy Hạnh, Trương Quốc Khánh… một giải thưởng danh giá nhất thời đó. Khi gặp nhau Lưu Ngũ liền rủ tôi về khu Ông Tạ làm kẹo bán kiếm tiền độ nhật. Lưu Ngũ tên thật là Luật có biệt danh Sáu Vạng không phải dân anh chị chuyên nghiệp như đám anh em Sơn Đảo, nhưng về mặt đụng độ giang hồ cũng thuộc diện đáng gờm bởi thiên hạ đồn là anh “Vạng” đủ sáu cái cho địch thủ đo ván mới ngưng. Qua anh, tôi giao du thêm với Ba Đen, đại ca thứ dữ từ vùng Hải Sơn, Bà Rịa Vũng Tàu. Ba Đen tướng tá hộ pháp như Lý Quỳ trong Lương Sơn Bạc là con người trọng nghĩa khinh tài, làm phi vụ được đồng nào là bay xuống Sài Gòn chơi hết với anh em đồng đó. Chính anh đã tài trợ cho đám anh em văn nghệ sĩ mạt lộ chúng tôi thành hình một xưởng kẹo. Xưởng kẹo được đặt ở sau nhà Lưu Ngũ. Công đoạn làm kẹo khá rắc rối tôi không tham gia, chỉ thấy đạo diễn Hồ Ngọc Xum và thi sĩ Trần Mạnh Hảo xỏ bao nilông bảo vệ hai bàn chân, nhảy lên đống kẹo khổng lồ dùng chân nhào nặn liên tục. Khi kẹo thành phẩm Lưu Ngũ phân công tôi và hai nhạc sĩ Nguyễn Hải, Lã Văn Cường đi bán bỏ mối. Thuở ấy anh em thương nhau đẹp đến nỗi trong cuộc chơi lúc tôi quá đuối không còn sức đọc thơ thì đàn anh Mặc Tuyền hoặc thi sĩ đàn em Đoàn Vị Thượng thế vai. Phải nói rằng Mặc Tuyền ngâm bài thơ QUÁN BÊN ĐƯỜNG của Minh Phẩm (tức Trang Thế Hy) và bài thơ TIỀN VÀ LÁ của Kiên Giang làm chúng tôi “phê” tới bến. Còn Đoàn Vị Thượng thì lém lỉnh vàsắc sảo. Thượng được nhiều người biết với bài thơ BỤI PHẤN tuy nhiên họ Đoàn lại thành công trong bàn rượu với bài ĐẤT VÀ NƯỚC được anh em vỗ tay khen ngợi. Hồi đó bằng uy tín cá nhân, tôi là người thu hoạch tài chánh cao nhất từ nghề bỏ mối kẹo. Tôi xông đến tất cả những cơ sở kinh tế của Thành Đoàn chào hàng và hầu như được các chủ quầy thực phẩm ôkê nhận kẹo trước, trả tiền sau. Tiền kẹo đem về Lưu Ngũ chỉ nhận tuợng trưng, thông thường cho tôi xài thả cửa. Bài thơ BÁN KẸO ra đời trong khoảng thời gian ấy. Bài thơ viết về cảnh ngộ của vợ chồng Lưu Ngũ: THƠ BÁN KẸO Ta sinh ra chưa hề hảo ngọt Quen đắng cay hơn uống nước đường Chắc tại đời ta như giấy bóng Nên lâu lâu gói kẹo đỡ buồn
Hãy ngậm vào mồm đi các em Kẹo ta bán vốn chẳng cần nhãn hiệu Kẹo còn trinh tiết ta gọi là kẹo kéo Ngắt một ngón tay chỉ tốn có 5 hào Khi hút thuốc lào và nói chuyện tào lao Mời các em mua ngay phong mè xửng Kẹo dành lai rai là kẹo nhiều đậu phụng Ta chưa quốc doanh nên giá cả rẻ tiền Kẹo chuối, kẹo dừa ngọt lắm đó các em Ngậm cho chặt để lưỡi đừng lắt léo
Bạn bè ta và vợ ta bán kẹo Chỉ mình ta thích hợp với “kẹo đồng “ Chính vì thế các em nên mua kẹo Để mỗi ngày gỡ bựa dưới chân răng… Không xa nhà Lưu Ngũ là nhà Bùi Đại Bằng, một đàn anh bất phùng thời ở khu Ông Tạ. Mỗi lần nhậu nhẹt chúng tôi thường kéo qua nhà anh chơi tít cung mây. Bùi Đại Bằng mới lấy vợ là một hiền thê có chữ nghĩa hằng ngày cùng với anh ra chợ ngồi bán cá. Hai vợ chồng bán đủ các loại cá đồng, cá biển nhưng mỗi khi tôi xuất hiện là họ để dành một đống ruột cá lóc làm mồi nhậu đãi nhà thơ. Dân có máu Thủy Hử cụng ly nhau nhiều khi nước mắt ứa ra vì thời thế. Tôi có làm bài thơ BÁN CÁ an ủi vợ chồng họ như Hàn Tín an ủi bữa cơm Phiếu Mẫu: THƠ BÁN CÁ Đến nhà gặp bạn hiền bán cá Cá rô, cá sặc, cá thòi lòi Mà ta thì vốn thằng láu cá Thấy cá là chỉ muốn nướng trui
Thấy cá là lại thèm một xị Ít ly y lít với bạn hiền Cuộc sống chẳng qua toàn mộng mị Ma quỷ còn đá cá thần tiên
Vậy thì ta chính là ma quỷ Bắt cá hai tay thú lẫn người Vậy thì bạn chính là tiên thánh Bán cá cần chi sợ hổ ngươi
Trên thớt, cá thách người dám cá Vây giương mắt trợn nhớ ao hồ Nếu ta nằm thớt như tôm cá Đã chắc gì dám nhớ tự do
Tự do bị đắm ngay trên cạn Bạn ta thành cá mắm chợ đời Vua quan sắm giỏ đi mua bán Mắt bạn buồn như mắt cá tươi
Mắt bạn buồn như bầy cá lóc Nhớ kênh thuơng rạch đến bao giờ Mắt vua chúa như bầy cá mập Phơi nắng bao giờ mới hết khô
Tại bạn lắm nghề nên lắm nghiệp Hết bán gạo xong đến bán nhà Bán nhà đâu sướng bằng bán cá Xưa Thúy Kiều còn phải bán “bar”
Bán bar thì vốn nòi con gái Gà trống nuôi con bán cái gì Chẳng thà bán cá hơn bán nước Bán lỗ dư mồi nhậu mới nguy
Đói bụng ca ngay bài con cá Sẽ được no hơi cá hóa rồng Mấy ai đã dám xưng vương bá Nếu thiếu thời không vượt vũ môn Tôi làm nghề gì cũng tài tử. Bán kẹo chừng nửa năm thì gia nhập vào thế giới ve chai. Hồi đó ở Sài Gòn tụ điểm bia nổi tiếng nhất là công viên Tao Đàn, nơi những chiếc xe xì tẹc phun vòi bắn bia như suối. Hai chữ “Tao Đàn” xuất xứ từ nhóm thơ quý tộc “Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú” của ông vua thi sĩ Lê Thánh Tôn sau 1975 biến thành nơi quy tụ giới võ lâm hắc bạch y chang như Quang Minh Đỉnh trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung. Bá tánh tha hồ xếp hàng hoặc tan hàng dành từng phiếu tích kê, cự nự làm quen, nhìn mặt bắt hình dong kết nghĩa giang hồ. Những kẻ có dòng máu chịu chơi Lý Bạch tha hồ cụng ly chan chát với vô số đồng nghiệp từ Nam chí Bắc. Khó mà điểm danh hết các hiền sĩ còn sống hoặc ra người thiên cổ ở trung tâm bia bọt Tao Đàn. Chỉ biết rằng tại Tao Đàn tức “Tan Đào” hễ tan trận là đào tẩu một mạch. Thiên hạ đào tẩu với đủ mọi lý do của họ: Người lộng ngôn bừa bãi, kẻ coi trời bằng vung lỡ mượn rượu phát ngôn rút lời không kịp. Ở trung tâm luôn có sẵn các Mạnh Thường Quân yêu mến văn nghệ túi tiền rủng rỉnh sẵn sàng ngây người nghe lời vàng ngọc từ những nhà thơ giang hồ bất đắc chí xuất khẩu thành thi, những nhạc sĩ coi “tứ xứ là nhà” búng guitar, hát nhạc dân gian điệu nghệ hơn xa tỉ ca sĩ trên sân khấu. Một trong những tửu khách xuất hiện thường xuyên là chủ quán Trống Đồng kiêm thi sĩ Vũ Trọng Quang hay nhái Bình Ngô Đại Cáo một cách hào sảng: “Dẫu tiền bạc lúc có lúc không – Song dân nhậu thời nào cũng có”. Quán Trống Đồng hiện giờ không còn nữa nhưng thuở đó tọa lạc ở góc Lý Tự Trọng – Cách Mạng Tháng Tám về sau chuyển về số 5 Lê Quý Đôn. Một trong bốn chủ quán là Vũ Trọng Quang biệt danh Điền Bá Quang, kẻ mê ni cô Nghi Lâm trong Tiếu Ngạo Giang Hồ nhưng không “ngâm ly” mà biết dụ khị tửu khách ghé quán bằng hai câu thơ tiếp thị do chính anh sáng tác: Mời người và rượu cùng nhau Bốn phương là chỗ rót vào đầy ly Những lúc ấy tôi chỉ biết đáp lễ bằng một bài thơ “điệp ngữ” như sau: Lít đầu chỉ thấy sương sương Lít hai thấy lửa táp sườn riu riu Khơi khơi chục lít sáng chiều Đến khuya đứng dậy chân xiêu tà tà “Xiêu tà tà” có nghĩa là “ta xìu xìu” quắc cần câu chứ còn phải hỏi. Tại Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú không chỉ có 28 ngôi sao mà có đủ 108 tửu khách Lương Sơn Bạc lừng danh. Tại đây dân nhậu có thể chứng kiến Trần Quang Lộc say xỉn đội xô đá trên đầu xông đến bàn Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Miên Đức Thắng, Rừng, Nguyễn Trọng Khôi… quậy tá lả. Tại đây những cuộc xô xát xảy ra như cơm bữa giữa văn nghệ sĩ hai miền bằng nước bọt lẫn nắm đấm. Tôi khó mà kể hết những lần can thiệp hoặc tham dự của chính tôi vào những cuộc dâu bể đó. Thực ra tôi đến Tao Đàn dưới sự chi viện của nhiều băng nhóm khác nhau. Lúc thì đi với băng họa sĩ Khánh Trường, lúc thì đi với anh em Long Gỗ, lúc thì đi với anh em Lâm Cầu Kiệu, lúc thì đi với băng Bến Tre của Mặc Tuyền, băng điện ảnh giang hồ của Lý Huỳnh, Hồ Ngọc Xum, Lê Chánh, Robert Hải, lúc thì đi với các triết sĩ Đông Phương Huệ, Trụ Vũ, Nguyễn Tôn Nhan, Hoàng Ngọc Tuấn, có lúc gầy sòng với đám xích lô, sửa xe vĩa hè bụi bặm… Nói chung sự có mặt của tôi như là một niềm vui thi ca truyền khẩu không thể thiếu của anh em. Tại đây tôi quen với Sơn Quăn, một họa sĩ ẩn dật kiêm Đầu Lĩnh giới ve chai và Nguyễn Ước, nhà nghị luận phê bình nghiên cứu văn học kiêm Thừa Tướng ve chai có một con mắt giả bịt miếng da đen như hải tặc. Sở dĩ tôi phải kể tên Sơn Quăn và Nguyễn Ứớc vì hai anh có bụng “lân tài” nghĩa khí. Hai anh mỗi lần trúng mánh bất cứ phi vụ “phân kim” hoặc “đồ cổ” đều hú tôi một cách trân trọng. Tôi chỉ có thể tạ ơn hai anh bằng bài thơ HÀNH VE CHAI rất phổ biến lúc đó qua một nhạc sĩ giang hồ phổ nhạc. HÀNH VE CHAI Anh em ta đi bán ve chai Thằng thì chột mắt, đứa cụt tay Râu tóc để lâu thành võ hiệp Tráng sĩ mà ưa nhắm thịt cầy
Thực ra anh em ta đẹp trai Không đẹp trai sao bán ve chai Cái nhìn giá trị ngang vàng xịn Con mắt nheo là hốt tiền xài
Ê, vua quan cũng đói dài dài Bởi vì không biết bán ve chai Tô Tần miệng lưỡi xem còn kém Gã Kissinger cũng ớn tài
Mà thiên tài hay họa thiên tai Tiếng gào mưa nắng chợ ve chai Buổi trưa gân cổ dường như đắng Cốc rượu chửa vơi đã rót đầy
Nước mắt ứa ra cơ hồ cay Nước cay thành đế nhậu lai rai Anh em ta đọc thơ sang sảng Bài thơ buồn như đời ve chai
Anh em ta tiếp tục ve chai Thằng thì cởi gió, đứa đạp mây Chân không mà ngỡ đi xe đạp Áo mão đầy hai túi xách tay
“Tiền cổ, tiền xưa, tiền cắc đây” Tiền nhiều ắt nặng cả hai vai Thương Cao Bá Quát đời luân lạc Mượn giang hồ mà tởm cân đai
Gặp nhau không cần coi lịch ngày Ai đội mũ rơm chân mang hài Lại đây cùng uống quốc doanh tửu Gặm đậu phụng rang mà nghe say
Liêm sĩ nằm trong túi xách này Còn tiền, du đãng cũng bô trai Đàn bà con gái còn… đi ngựa Thế thì ta tiếp tục ve chai! Mà đời ve chai đáng buồn thật. Lên voi trong bàn nhậu nhưng xuống chó ngay trong cuộc đời. Tôi đã từng ăn dầm ở dề ngôi nhà trọ trong Xóm Nhà Đèn của cặp vợ chồng nghệ sĩ ve chai Trịnh Nghĩa và cô Hiền. Trong thế giới ve chai, Trịnh Nghĩa chỉ là thần dân không có vai vế, nhưng anh là một nhạc sĩ tài hoa từng phổ nhạc một bài thơ rất thành công của một thần dân ve chai khác là Trần Dzạ Lữ. Anh cụt một ngón tay trỏ do tự hủy hoại để trốn lính mà búng guitar vẫn điệu nghệ. Phu nhân anh là cô Hiền một người đẹp thủy chung dám bỏ gia đình dấn thân cùng anh và đặc biệt hát rất hay. Tôi biết được những bài hát thất truyền từ thời tiền chiến chính là nhờ cặp vợ chồng Nghĩa, Hiền biểu diễn. Đến giờ này tiếng hát khàn đục đặc biệt của cô Hiền vẫn còn ám ảnh tôi. Tôi có làm một bài thơ nói về cảnh ngộ không hộ khẩu sống rày đây mai đó của gia đình họ. Xin chép ra đây cho các bạn thưởng lãm: CĂN NHÀ NẰM MƠ Anh sẽ lợp căn nhà Đơn sơ vài vật liệu Kèo cột không đi tiểu Lên trí tuệ con người Anh cần chiếc giường đôi Hai đứa mình cùng thở Chia nhau nỗi xấu hổ Mà ông bà cắn răng Đất nước bốn ngàn năm Rộng dài như văn hiến Đêm anh đi thấy điếm Lợp nhà cạnh gốc cây Ngày thấy lũ con lai Căng lều nơi xó chợ Vợ chồng mướn nhà trọ Yêu nhau như ngoại tình
Căn nhà vừa tượng hình Đã tan theo cơn đói Anh dẫn em lên núi Không đủ giấy tờ về Anh dắt em thăm quê Định làm chàng Tô Vũ Định làm một gã hề Ngôi nhà không bảng số Anh lợp hoài trong mê
Trời sinh anh yêu em Mà không sinh hộ khẩu Con chim có chỗ đậu Con chó có nơi nằm Anh và em lưu vong Như người không quốc tịch Đất nước giàu diện tích Cho châu chấu cào cào Có đâu nghèo lý lịch Với những người yêu nhau? Kỷ niệm về vợ chồng Nghĩa, Hiền và những cặp vợ chồng nghệ sĩ khác như họa sĩ Rừng tức nhà văn Kinh Dương Vương đã khiến tôi bị “sốc” nặng. Tôi còn nhớ lúc Hiền sinh đứa con thứ hai trong nhà không có sữa bò để uống cũng như lúc chị Vân vợ của học sĩ Rừng sinh xong rồi không biết gửi con học Mẫu Giáo ở đâu bởi vì một lý do đơn giản: Không hộ khẩu. Trong khi hàng ngày trên báo chí không ngừng đưa tin về những ông to bà lớn, những con ông cháu cha thế hệ kế thừa đua nhau vào vũ trường, nhà hàng, tụ điểm cờ bạc ăn chơi. Bước sang năm 2008 còn tìm cách tống khứ dân nghèo lẫn thiên nhiên đi chỗ khác để xây dựng những sân gôn cho đám nhà giàu giải trí, những cung điện dành cho các cuộc thi Hoa Hậu của lũ quý tộc mới. Bao hình ảnh nhức nhối đó đập vào mắt khiến tôi bật thành thơ như sau: HẾT Ý KIẾN Các ngươi ăn ở sao khôn vậy Bóc lột ngay từ lúc cởi truồng Bốn hộp sữa mỗi lần sinh đẻ Thảo nào con nít bệnh còi xương
Thảo nào con nít quen moi rác Tập ngửi mùi hôi để trưởng thành Lỡ sau khôn lớn làm thủ trưởng Cũng quen mùi thum thủm công danh
Thảo nào con nít quen dắt mối Tập bán trôn nuôi miệng kiếm lời Lỡ sau khôn lớn làm lãnh đạo Cũng rành “ba mươi sáu kiểu chơi”
Thảo nào con nít quen nói láo Tập giống bề trên cách uốn mồm Lỡ sau khôn lớn làm nhà báo Viết đói thành no dễ kiếm cơm
Tiền? Ngươi nói “Ngân Hàng Nhà Nước” Tù? Ngươi cho “Tòa An Nhân Dân” Chao ơi, tiền bạc dành ông lớn Còn cùm gông tặng kẻ rách quần Suốt năm 1984 tôi đi khắp bốn vùng chiến thuật. Lưu diễn Bảo Lộc với đạo diễn sân khấu Trần Văn Hưng khi Hưng kéo đội tinh binh văn nghệ lên cao nguyên phục vụ Công Ty Chè của ông Năm Lửa. Trong phái đoàn bao giờ tôi cũng lãnh nhiệm vụ đọc thơ tiên phuông. Tôi biến thành một thứ gạch nối cần thiết gom bạn bè tứ xứ. Tại Blao tôi được Trung Họa Sĩ người địa phương dẫn đường lên núi Đại Lào thăm kẻ sĩ Nguyễn Đức Sơn ở ẩn. Như đã đề cập từ phần đầu GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, nhà thơ Nguyễn Đức Sơn theo tôi là một trong “tứ trụ thi ca” của miền Nam trước giải phóng. Ba vị kia là Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên. Thực ra ngoài bộ tứ vừa nêu, còn một nhân vật kiệt hiệt khác mà tôi rất hâm mộ, đó là Phạm Công Thiện, một triết gia kiêm thi sĩ từng là thần tượng của thế hệ sinh viên học sinh theo chủ thuyết hiện sinh tại Sài Gòn trước năm 1975. Triết gia Phạm Công Thiện nghe đồn từng đi tu và sau năm 1975 chu du khắp thế giới, chơi với văn hào Hy Lạp Nikos Kazanzaki tác giả ALEXIS ZORBA, CON NGƯỜI CHỊU CHƠI. Ông còn gặp Đạt Lai Lạt Ma và có thời gian ẩn sĩ ở Ấn Độ, Tây Tạng. Chung quanh con người họ Phạm có quá nhiều giai thoại, riêng tôi chỉ biết ông qua tác phẩm NGÀY SINH CỦA RẮN. Chỉ cần qua NGÀY SINH CỦA RẮN tôi đã liệt ông như Trung Nguyên Vương Trùng Dương giữa bốn vị Bắc Cái Bùi Giáng, Nam Đế Thanh Tâm Tuyền, Đông Tà Tô Thùy Yên và Tây Độc Nguyễn Đức Sơn y chang như truyện chưởng Kim Dung VÕ LÂM NGŨ BÁ. Là một ngòi bút phong trào tranh đấu cho một lý tưởng hoàn toàn khác, tôi quyết định “ấn chứng võ công” với Phạm Công Thiện tiên sinh bằng bài thơ NGÀY SINH CỦA NGỰA, đơn giản vì tôi tuổi Giáp Ngọ. Tôi đã đọc bài thơ này cho Phạm Trung Cang (em trai Phạm Công Thiện) những năm đầu giải phóng tại một điểm sách dạo dọc đường Lê Lợi, khi ông Cang bán sách chợ trời ở đó. Xin mạn phép chép bài thơ ấn chứng ấy ra đây cho bạn đọc thưởng lãm. Cũng cần nhắc lại là bài thơ NGÀY SINH CỦA NGỰA bất ngờ được đăng trên báo Văn Nghệ Trung Ương như là một trong vài bài thơ phá lệ hiếm hoi của Ban Biên Tập thời đó: NGÀY SINH CỦA NGỰA Ngày ta sinh ra Nguyễn Huệ đã băng hà Nên con ngựa tử vi không người cưỡi Ta sút chuồng phá bỏ yên cương Lặng lẽ ruỗi đời mình lên núi
Ngày ta sinh ra rừng không ai biết tới Chỉ có cỏ cây hoa lá tầm thường Ta đi đến đâu, chỗ ấy thành đại thụ Đại thụ sinh rừng, rừng sinh nở mùi hương
Ngày ta sinh ra bầy rắn đã rung chuông Định lấy nọc để phân ranh trời đất Khí hạo nhiên ta dựng cứng bờm Lấy nhân nghĩa để phân ranh lành, độc
Chỉ có cô đơn mới đủ làm ta khóc Tiếng khóc của ta là tiếng hí của người Ta không biết ta là người hay ngựa Chỉ một mình Nguyễn Huệ hiểu ta thôi! Lên Đại Lào ngoài việc thù tạc thi ca với nhau, Nguyễn Đức Sơn còn giới thiệu tôi rừng thông ngút ngàn phủ kín khu đồi trọc liên hoàn mà ông trồng thí nghiệm. Công việc trồng thông của ông nặng nhọc và bị trả giá đắt đến nỗi phải mang thương tích đầy người bởi băng nhóm Hà Sơn Bình tranh giành đất đai ám hại. Bi kịch trên sau này được tôi đưa vô tiểu thuyết YỂU ĐIỆU THỤC NỮ và đổi bút hiệu ngày xưa của ông là “Sao Trên Rừng” thành nhân vật “Thông Trên Núi”. Thời gian ngắn ngủi ở Bảo Lộc giúp tôi sáng tác bài thơ BLAO đăng trên báo Văn Nghệ Thành Phố và đoạt giải Thơ Hay ngay năm đó: BLAO Em có giống Blao không em? Đón anh đừng đóng cửa cài then Bằng không anh biến thành bông giấy Mọc tỉnh bơ ngay phía trước thềm Em có giống Blao không em? Ngắt anh đừng nỡ ngắt trong đêm Bằng không anh biến thành trái bắp Cắn vào răng em để bắt đền
Em có giống Blao không em? Vất anh đừng vất ở ngoài hiên Bằng không anh biến thành con muỗi Chờ dịp giường em bị hở mền
Em có giống Blao không em? Đập anh đừng đập bẩn tay tiên Bằng không anh sẽ nằm huýt sáo Suốt mùa thu như chú dế mèn
Là phải giống Blao nghe em Chiều, mưa một chút để anh thèm Tối, sương một chút cho anh nhớ Một chút gì như thể áo len
Là phải giống Blao nghe em Làm duyên một chút để anh hiền Dịu dàng một chút cho anh sợ Một chút gì anh sẽ buốt tim… Trên thực tế bài thơ BLAO không phải là bài thơ tình thích nhất của tôi. Một bài thơ khác phổ biến hơn là bài thơ mang tên THIẾU NỮ. Bài thơ THIẾU NỮ gây tiếng vang mạnh đến nỗi tôi đi đến bất cứ đêm thơ của trường đại học, trường trung học, đơn vị quân đội, nông trường thanh niên xung phong, công trường lao động tập thể nào cũng đều được công chúng trẻ tuổi yêu cầu phải đọc bài thơ đó. Trong một cuộc thăm dò đột ngột của các thầy cô dạy văn một trường điểm cấp ba ở Tân Bình, hầu như trong sổ tay hoặc nhật ký của học sinh đều có chép bài thơ THIẾU NỮ. Bài thơ được lan tỏa trong nước lẫn hải ngoại nhờ sự cộng hưởng của các nhạc sĩ phổ nhạc. Trong nước tôi chỉ được biết nhạc sĩ Nguyễn Hiệp và một nhạc sĩ không quen biết ở Pleiku phổ rất có duyên. Còn ở nước ngoài, qua những băng đĩa bán lụi mang tên “HỀ XUÂN” phát hành lậu trong nước vào dịp Tết, bài nhạc phổ thơ được hát một cách nghịch ngợm bởi một nam ca sĩ trẻ mà tôi không biết tên biết mặt. Cả tên nhạc sĩ cũng không ghi. THIẾU NỮ Cô gái ơi, anh nhớ em Như con nít nhớ cà-rem vậy mà Như con dế trống đi xa Một hôm nhớ đến quê nhà gáy chơi Con dế thì gáy một hơi Riêng anh gáy hết một thời con trai Tiếng gáy bò lên lỗ tai Làm em nhột suốt một ngày một đêm
Cô gái ơi, anh nhớ em Như má lúm nhớ đồng tiền đúng chưa? Như cà chớn nhớ cà chua Như da em nhớ da-ua ngọt ngào Cái nhớ nhảy qua hàng rào Không thèm đăng kí cứ nhào vô anh Xô ra thì thấy không đành Nên anh ôm lấy rồi canh giữ hoài Con kiến còn nhớ củ khoai Huống chi tóc ngắn tóc dài nhớ nhau
Nhớ nhau không biết để đâu Nếu để trên đầu sợ tóc che đi Để trong túi áo cũng kỳ Lỡ đi đường rớt lấy gì chứng minh Chi bằng giả bộ làm thinh Hét lên “nhớ quá” một mình nghe chơi! Rời cao nguyên xuống đồng bằng bất ngờ tôi được linh mục Hiền, một linh mục trẻ có cái nhìn cấp tiến mời đọc thơ và nói chuyện về thơ tình trong Mùa Chay tại nhà thờ Tân Định. Trước khi biết linh mục Hiền, ngay từ tháng 5-1975 tôi đã viết bài trên báo Công Giáo Và Dân Tộc và thân thiết với nhiều anh em trong tòa soạn, trong đó có hai linh mục tranh đấu nổi tiếng là Trương Bá Cần và Huỳnh Công Minh. Linh mục Trương Bá Cần tác giả loạt bài “Hai mươi năm xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc” đăng trên tạp chí Đối Diện trước giải phóng được tôi thân mật gọi là “bố “, còn linh mục Huỳnh Công Minh có khuôn mặt hơi giống Che Guevara lúc để râu được tôi gọi là “anh Ba Râu”. Mỗi lần ghé tòa soạn, tôi thường được Bố Cần và anh Ba Râu ủy lạo tinh thần lẫn vật chất bằng phong bì dằn túi cho những ngày lang bạt sắp tới. Thực ra tôi còn vài lần tiếp xúc với một linh mục nổi tiếng khác là linh mục Nguyễn Ngọc Lan tác giả loạt bài “Cho cây rừng còn xanh lá” trên các nhật báo đối lập thời chính quyền cũ. Tuy nhiên tình thân không thể bằng hai linh mục Huỳnh Công Minh và Trương Bá Cần.. Trở lại chuyện linh mục Hiền mời đọc thơ tại nhà thờ Tân Định trước hàng trăm thanh niên nam nữ vốn quen thuộc với kinh nhật tụng và thánh ca. Lần đầu tiên tôi đã làm một chuyện động trời là kể chuyện cuộc đời giang hồ lãng tử “xa Chúa gần ma quỷ” của tôi và minh họa bằng những bài thơ tình. Cuộc nói chuyện thành công đến mức mọi người quên hết giờ giấc. Tôi còn nhớ bài thơ ĐIỀU RĂN THỨ 11 đọc kết thúc trong đêm đó: ĐIỀU RĂN THỨ 11 Em đã thờ phượng bầu trời Bằng điều răn thứ nhất Tôi cũng đã yêu thương mặt đất Bằng chín điều răn sau cùng Chúng ta cũng đã đợi nhau gần 30 năm Để bày tỏ tình yêu khác giống Trong khi nhân loại đã đợi nhau 1984 năm Tiến về hang đá Bêlem để làm người gác cổng
Chúa không muốn tôi thành con lừa Người cho tôi chân tay, mặt mũi Chúa rất muốn em là con gái Để sau này có nhẫn cưới đeo tay Tôi đã yêu em một cách rất con trai Như Adam yêu Eva lịch sự Có thể toàn bộ xương sườn tôi cứng chứ Nhưng phần xương cụt mất đi lại mềm mại hiền lành Phần xương ấy mang nỗi buồn Đức Mẹ Tan lễ nhà thờ, môi biết gọi: anh, anh…
Chúa không trực tiếp dạy chúng ta đọc kinh Nhưng tôi và em đã thành lời cầu nguyện Chúng ta yêu nhau nhỏ như hai con kiến Lớn như hai con voi và vừa phải cỡ… con người Em đã dám thờ phượng bầu trời Bằng điều răn thứ nhất Thì làm sao tôi chẳng biết yêu thương mặt đất Bằng chín điều răn sau cùng Và tất nhiên chúng ta yêu nhau Chúng ta yêu nhau ở một góc địa cầu Thành phố ta ở chỉ lớn bằng dấu chấm Bên trong dấu chấm, năm triệu người đang sống Mới hai người yêu nhau, còn lại mấy triệu người Oi tôi hứa mãi yêu thương mặt đất Cho lòng em hằng nhớ tới bầu trời Đầu thập niên 2000 một linh mục khác là linh mục Siêu (một huynh trưởng ngày xưa của tôi thời đi Thiếu Nhi Thánh Thể) cũng mời tôi đến nhà thờ Martino trên đường Nguyễn Thị Minh Khai quận 1 để nói chuyện và đọc thơ với công chúng trẻ họ đạo trong Mùa Chay. Tôi còn được “huynh trưởng” Siêu mời với nhiệm vụ tương tự tại nhà nguyện thuộc nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng, quận 3. Tại hai nơi đó tôi đã làm đúng chức năng tông đồ lẫn thi sĩ dù bị đẩy vào hoàn cảnh bất khả kháng. Cũng cần mở ngoặc đơn chỗ này, trên thực tế kể từ ngày lang bạt giang hồ, tôi giao du và chơi thân với các thượng tọa, đại đức bên Phật Giáo nhiều hơn bên Công Giáo. Tôi không hiểu tại sao nữa, chỉ biết rằng những bài thơ tôi đọc ra được một số vị chức sắc tôn giáo coi như một loại “công án” chứa dụ ngôn đạo lý răn đời. Trong phạm vi bài viết này tôi không thể kể hết những mối duyên kỳ ngộ của tôi với các bậc cao tăng ẩn sĩ khi cùng họ đàm đạo triết thuyết và thi ca thâu đêm. Chỉ đơn cử mối giao tình với thượng tọa Thích Tâm Khai, sư trụ trì chùa Diệu Pháp, ngôi chùa nằm cạnh con sông Đồng Nai được tôi đưa vô tiểu thuyết YỂU ĐIỆU THỤC NỮ với tên gọi là chùa Diệu Đế. Trong truyện, tôi đã cho họa sĩ kiêm người hùng ve chai Robert Bá học võ công nhà chùa. Còn ngoài đời thật, tôi và các anh Nguyễn Xuân Thượng, Trịnh Thanh Tùng, Tôn Thất Mạnh Tường, Nguyễn Hải, Sáu Đầu Rồng, Tư Đồng… rất nhiều lần gõ cửa chùa Diệu Pháp để được thượng tọa Thích Tâm Khai chiêu đãi. Thầy Thích Tâm Khai chính là người bảo trợ phong trào tranh đấu sinh viên học sinh đô thị trước giải phóng, tương tự như ni sư Huỳnh Liên. Các bạn thử tưởng tượng trăng thì sáng, mặt nước thì lung linh, tình nghĩa thì đầy tràn như men rượu. Sư trụ trì Tâm Khai ôm guitar hát ca khúc Da Vàng của Trịnh Công Sơn phục vụ anh em, còn tôi thay mặt huynh đệ giang hồ đọc thơ đáp lễ. Những bài thơ tứ tuyệt xuất khẩu thành thi ấy được tôi chép ngay trên vách tường nhà chùa bằng muội than kỷ niệm. Hiện giờ thượng tọa Thích Tâm Khai đã viên tịch, các anh Tôn Thất Mạnh Tường, Sáu Đầu Rồng, Tư Đồng cũng đã mất, không biết những bài thơ bút tích còn được các vị trụ trì đời sau lưu lại hay không? TỨ TUYỆT DIỆU PHÁP TỰ Chúng sinh vô lượng kiếp Trần gian một chén đầy Đến thiền môn đổ hết Mở lòng làm… Tâm Khai! Năm 1985, chị Đỗ Thị Nghĩa tức Chín Ngân (vợ anh Năm Nghị) đang làm sếp Liên Hiệp Hợp Tác Xã Tiêu Thụ Mua Bán TP (tiền thân của hệ thống Coop Mart bây giờ) giới thiệu tôi xuống Cửa Hàng Tổng Hợp Thương Nghiệp Hợp Tác Xã TP tại 32-34 Tháp Mười, quận 6 làm việc vì không chịu nổi cảnh bấp bênh chìm nổi của tôi. Cửa hàng trên là một đơn vị kinh tế đang ăn nên làm ra trực thuộc dưới quyền chị. Tại đây tôi bắt đầu nghề nghiệp tréo cẳng ngỗng. Hết làm giám sát thi công coi xây dựng đến làm áp tải hàng hóa đường dài, thậm chí có lúc trực tiếp làm bốc xếp khuân vác nặng. Những công việc thuần túy máy móc đều đặn cho dù sinh ra tiền bạc nhưng hoàn toàn dị ứng với trái tim ngựa chứng bất kham của tôi. Nhiều người chỉ cần làm giám sát thi công chừng vài công trình là kiếm tiền bỏ ống như chơi nhưng tôi dù có được thả vô hủ gạo cũng không thể làm một con chuột gặm nhấm tài lộc được. Tôi không có năng khiếu tước đoạt của cải người khác. Lúc đó tôi có làm bài thơ ĐẰNG SAU NHỮNG QUẦY ĐỔI TIỀN nhân đợt đổi tiền toàn quốc thời điểm đó: ĐẰNG SAU NHỮNG QUẦY ĐỔI TIỀN Giữa thời kỳ mà tiền bạc chưa yên Giấy thiếu trữ kim bỗng biến thành giấy lộn Giữa thời kỳ mà thiên hạ đổi tiền Như đổi một hầu bao thiếu vốn
Em đã đến cực kỳ khiêm tốn Mắt mở to cho túi của anh đầy Em đã đến không người đưa kẻ đón Nhoẻn miệng cười ngang giá trị “trăm cây”
Vàng trong anh có từ lúc sơ khai Đợi em đến là trồi lên thành quặng Ngọc trong anh có từ lúc chào đời Đợi em đến là gia công thành nhẫn
Hãy xòe hết cả bàn tay năm ngón Chỉ cho anh ngón áp út vợ chồng Để vàng ngọc của anh còn ý nghĩa Hơn những tờ bạc mới số 500
Em đến làm anh trong suốt kim cương Mọi bá hộ trần gian đều khánh kiệt Tình yêu anh mở ngay tiệm kim hoàn Chứa một triệu cara dành em hết
Giữa thời kỳ không lằn ranh thiện ác Đang đói meo anh chợt biết mình giàu Em rách vẫn thơm, anh nghèo vẫn sạch Thiên hạ đổi tiền, ta đổi đời nhau Tôi chia tay nghề “phi thương bất phú” vì một lý do lãng nhách. Một hôm trong giờ hành chánh tôi bị giám đốc Cửa Hàng là Bảy Định triệu tập lên văn phòng để gặp đồng chí Sáu Khôi, Trưởng Phòng Bảo Vệ An Ninh Văn Hóa (tức PA 25) của Sở Công An TP. Anh Sáu Khôi thì tôi chẳng xa lạ gì, cũng từ gốc Thành Đoàn như tôi, thuộc thế hệ đàn anh và chuyển qua ngành công an từ rất sớm. Anh làm việc với tôi bằng khuôn mặt khá trầm trọng. Đại khái anh cho tôi biết thơ tôi được đăng trên báo chí hải ngoại hơi bị nhiều và “công an văn hóa” phát hiện tôi vừa lãnh một thùng quà thuốc Tây của nước ngoài nhằm mục đích “trả công” cho những bài thơ đã đăng. Coi, quả thật vừa qua tôi có nhận một gói bưu phẩm từ trên trời rớt xuống ghi tên người gửi là “Bùi Thị Chín gửi từ Cali, USA”, dĩ nhiên là tôi ký nhận ngay. Sau khi tham khảo với mẹ hiền vốn dĩ là bà mẹ “gia đình có công cách mạng”, mẹ tôi đồng ý cho tôi ra chợ trời thuốc Tây Tân Định bán với giá một chỉ vàng, vì bà nghĩ rất đơn giản rằng “đã là họ Bùi gửi thì chắc là bà con với gia đình tôi”. Chuyện chỉ có vậy. Còn thơ ư? Tôi là một thằng thi sĩ gần như trung tâm và chủ lực đọc thơ trong bàn nhậu trước đủ dạng quần hùng, trong đó có cán bộ lãnh đạo lẫn nhân dân đủ kiểu. Gặp người tri âm hoặc kẻ tâm đầu ý hợp về thơ, tôi sẵn sàng chép tay bài thơ vừa đọc mà họ ưa thích. Qua truyền khẩu, họ có thể thuộc lòng bằng trí nhớ hoặc bằng bản chép tay, và nếu họ vượt biên hay đi xuất cảnh hợp lệ thì chuyện sử dụng những bài thơ của tôi đăng báo chí hải ngoại thiết nghĩ cũng là chuyện phổ biến bình thường. Có khi sự phổ biến ấy góp phần vinh danh và không làm thui chột các tài năng xuất chúng trong nước. Vậy hà cớ gì tôi phải lo lắng khi biến thành một dạng “tội phạm” trong con mắt đầy đa nghi của một vị đàn anh từng quá hiểu con người trung thực của tôi lúc ở Thành Đoàn? Tôi có nói với anh Sáu Khôi rằng “Nếu Việt Kiều Bùi Thị Chín gửi tiếp một thùng đồ nữa thì tôi vẫn nhận bởi nhà nước chưa hề tặng quà hay trả lương hoặc bồi dưỡng cho một gia đình công nhân nghèo khổ có tới 5 người làm cách mạng như gia đình tôi”. Tôi đã phải làm bản tường trình về những lần đọc thơ giang hồ, những bài thơ chống bất công xã hội đã làm, những mối quan hệ với các thi sĩ văn nhân trí thức. Bởi Sáu Khôi nói như đinh đóng cột: “Bùi Thị Chín không phải họ Bùi mà là Cao Thị Ngọc Phượng, vợ hay người tình gì đó của Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh. Nhiệm vụ Cao Thị Ngọc Phượng là chuyển lửa về quê nhà, đón thuyền nhân vượt biên. Việc chọn gửi gói thuốc Tây cho Bùi Chí Vinh và vài văn nghệ sĩ nổi tiếng khác là nhằm ly gián hoang mang nội bộ”. Bút sa thì gà chết, nói năng thì phải uốn lưỡi bảy lần. Tôi được biết Cao Thị Ngọc Phượng là em ruột của chị Cao Thị Quế Hương (vợ liệt sĩ Nguyễn Ngọc Phương một sinh viên tranh đấu nổi tiếng của Thành Đoàn). Chị Cao Thị Quế Hương thời điểm đó đang đương nhiệm Tỉnh ủy viên, chủ tịch Hội Phụ Nữ tỉnh Lâm Đồng không hiểu sao anh Sáu Khôi lại không “gõ cửa” đồng chí của mình mà hỏi? Khi viết những dòng chữ này, trong thâm tâm tôi không hề hờn trách gì cử chỉ thái độ Sáu Khôi lúc đó. Anh làm Trưởng Phòng PA25, làm một mắt xích trong một guồng máy an ninh hoàn hảo, anh đương nhiên phải bảo vệ chiếc ghế của mình. Nhưng tôi chỉ giận anh lúc anh giao phó công việc viết bản tường trình của tôi vào mỗi buổi sáng cho những người khác tại Sở Công An suốt một thời gian dài. Tôi nhớ rằng mình bị “hỏi cung” tại căn phòng trên lầu cao có cửa sổ nhìn xuống mặt đất sâu hun hút. Có lần tôi nổi cơn thịnh nộ đấm tay vào ngực thình thịch sau tiếng chửi thề: “Hồi trước giải phóng M16 bắn tôi không chết chẳng lẽ bây giờ bị AK bắn chết”. Tôi còn hét lớn: “Ép tôi khai những gì không có, coi chừng tôi nhảy qua cửa sổ tự tử là quý vị phải chịu trách nhiệm”. Thái độ liều lĩnh của tôi ít ra cũng có tác dụng. Những đợt thẩm vấn và triệu tập chấm dứt. Chấm dứt luôn công việc của tôi ở Cửa Hàng Thương Nghiệp HTXTP . Mà chấm dứt cũng phải, sau thời gian làm bốc xếp lao động quá nặng nhọc ở các kho của Cửa Hàng, tôi bị bệnh ho lao, mỗi ngày đều phải đến trạm y tế chích thuốc. Trong hoàn cảnh bệnh hiểm nghèo như vậy mà còn bị PA25 tra tấn tinh thần thì sức chịu đựng của tôi quả là một phép lạ. Tôi được tay giám đốc cho nghỉ lãnh lương dài hạn và tiếp tục chuỗi ngày lãng tử phiêu bồng. Sau này mấy lần tôi có gặp lại anh Sáu Khôi. Lần đầu tiên tái ngộ tại nhà Nguyễn Xuân Hàm, anh ruột Nguyễn Xuân Phổ tức nhà thơ phong trào Hàm Phố, bạn tôi. Lần đó nhân kỷ niệm sinh nhật Sáu Khôi, tôi có cao hứng đọc ghẹo anh hai câu: SÁU KHÔI có một KHỐI SÂU Bò ra lúc nhúc làm rầu nồi canh Tục ngữ nói “con sâu làm rầu nồi canh” chẳng sai. Tôi không ám chỉ Sáu Khôi làm rầu nồi canh mà muốn cảnh báo các nhân viên của sếp. Rằng ở đất nước Việt Nam đầy đau khổ này không có “địch”. Những kẻ căm thù thề không đội trời chung với chế độ cộng sản đã “gô” hết rồi. Trong nước chỉ toàn văn nghệ sĩ “sĩ khí rụt rè gà phải cáo” nơm nớp uốn cong ngòi bút vì sợ vi phạm chủ trương đường lối. Báo chí truyền thanh truyền hình thì nói cùng một giọng như được mặc đồng phục. Tìm được người làm thơ viết văn viết báo dám ăn dám nói đếm trên đầu ngón tay. Đã không biết trân trọng giữ gìn những kẻ sĩ “đối lập cuội” đó để làm “bình phong nhân quyền” mà lại còn sinh nghi theo dõi theo kiểu mật thám Gia-ve trong NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ của Victor Hugo thì thật là tự vạch áo cho quốc tế xem lưng ghẻ chóc. Nếu có “địch” thì đó chính là bọn tham nhũng hối mại quyền thế, bọn cơ hội chính trị tranh thủ mua quan bán tước, đội trên đạp dưới, luồn sâu leo cao... để hiếp đáp hãm hại nhân dân. Chính những kẻ làm ô danh Đảng đó mới là đối tượng, là địch để A25 và PA 25 theo dõi. Hai câu vè tạm gọi là thơ làm ghẹo anh Sáu không hiểu sao được đồn đại rất nhanh trong giới giang hồ văn nghệ và được biến cải như sau: “Sáu Khôi là một Khối Sâu - Bò ra lúc nhúc làm rầu nhân dân”. Những lần tái ngộ kế tiếp thì Sáu Khôi đã về hưu sau khi giữ chức Trưởng Công An quận 1. Thỉnh thoảng gặp nhau anh nhìn tôi với đôi mắt ngậm ngùi. Tôi không hiểu là anh thương tôi hay anh thương anh hay anh đang thương hai kẻ từng là cựu chiến binh Thành Đoàn lạc lỏng giữa cuộc đời duy vật do chính mình gây ra đây? Hương Lan, người yêu tôi thường nói rằng “Anh là con cưng của Thượng Đế”. Thực vậy, mỗi lần bị đẩy đến chân tường là tự nhiên tôi “cùng tắc biến, biến tắc thông”. Trong thời gian rãnh rỗi, tôi tha hồ ngao du sơn thủy. Tôi chở em xuống Bình Dương chơi cùng với ông anh thi sĩ giang hồ bạt tụy Thùy Dương Tử và em ruột ông là ca sĩ bụi đời Nguyễn Hải. Có những lúc cặp Trần Mạnh Hảo và Tôn Nữ Giáng Tiên tháp tùng. Cũng cần mở ngoặc đơn chỗ này để nói về Nguyễn Hải. Hải dân gốc Quảng Nam nguyên là Ban Công Nhân Thành Đoàn xuống xí nghiệp dệt làm công tác văn nghệ phong trào, từng đoạt huy chương vàng đơn ca hội diễn toàn quốc những năm đầu 1975. Giai thoại về Nguyễn Hải cũng khá ly kỳ, người nhà kể rằng anh không học trường nhạc mà luyện giọng bằng cách rúc đầu vào lu nước gầm rống. Mỗi lần anh hát là kinh động hàng xóm trong vòng bán kính 50 mét, mỗi lần anh ngâm thơ là mọi người im bặt có thể nghe được tiếng lá rơi. Nguyễn Hải yêu kính mẹ như yêu kính Quan Thế Am, anh hát bài “Có người mẹ đi tìm con – Trên đỉnh đồi hoang vắng…” của Phạm Duy xúc động đến nỗi tôi phải làm bài thơ tặng anh. MẸ MIỀN TRUNG “Có người mẹ đi tìm con Trên đỉnh đồi hoang vắng” Thằng bạn hát mà ngó về Đà Nẵng Mây trắng bay lầu Hoàng Hạc đến bao giờ Có phải mẹ ở miền Trung sợi tóc như tơ Không cột được gót thằng con trai lêu lổng Nên bạn cứ ôm guitar đi tìm giấc mộng Thức trăm năm mà khóc với cây đàn Tại Bình Dương tôi có dịp tiếp xúc với Lê Vĩnh Thọ, một thầy giáo thất nghiệp kiêm nhà thơ bất đắc chí ngồi dựa lưng vào tường suốt 10 năm sau giải phóng như Đạt Ma Sư Tổ khiến vôi tường nứt nẻ thành hình cái bóng của một con người. Cái bóng ấy vừa phụ vợ con xay xe bán nước mía vừa đạp xe thồ hằng đêm chở bao tạ than lên Sài Gòn bỏ mối kiếm sống như danh tướng Trần Khánh Dư của nhà Trần thời xưa. Các bạn thử tưởng tượng đường Bình Dương – Sài Gòn xa hun hút, đầy bảo kê thổ phỉ mãi lộ dọc đường, thế mà Lê Vĩnh Thọ vẫn nghiến răng mỗi đêm leo dốc mà đạp. Sự đau khổ ấy của ông được trả giá bằng vô số bài thơ nhân tình thế thái cực hay. Tôi và ông rất nhiều lần thù tạc với nhau về thi ca ứng khẩu trong lời ca tiếng nhạc minh họa của Nguyễn Hải. Tôi có làm tặng ông một bài thơ kỷ niệm: GÁC KIẾM Ở BÌNH DƯƠNG Đúng là về đây nương thân Rồng không gặp lúc phong vân, vẫn Rồng Về đây vào rẫy ra đồng Thấy mây thấy gió chạy cong đuôi nhìn Thấy ta giống hệt bình minh Mặt trời mọc tự trong mình mọc ra Mặt trời đỏ hết thịt da Bình Dương chưa chắc đã là Quốc Oai Bình Dương, Bồ Bản ơ hay Tiếng con chó sủa đủ lay ngai vàng May mà treo ấn từ quan Dạy dăm đứa trẻ xiên quàng tích xưa
Tích xưa sáng nắng chiều mưa Trang Chu thức giấc đổ thừa nồi kê Bướm vàng chi khéo rủ rê Mộng đi mà tỉnh quên về, thật sao? Giận là giận Chúa cường hào Thương là thương nỗi lao đao Chu Thần Bình Dương, Bồ Bản hay chăng Cờ Thang, Vũ dựng chẳng cần Thuấn, Nghiêu
Đúng là về muộn mới yêu Về trung niên cũng đánh liều trái tim Văn như Thánh Quát cũng chìm Thà làm viên sỏi nằm im đáy hồ Thà là một chữ trong thơ Đợi trang giấy đẹp bất ngờ ta reo Chữ Tình ai dám bảo nghèo Không tin cứ hỏi Tháy Kiều lầu xanh… Trời cao cuối cùng cũng có mắt. Sau này về Sài Gòn tôi nghe anh em văn nghệ Bình Dương nói rằng thầy giáo Lê Vĩnh Thọ trúng vé số cặp độc đắc đủ để… đốt nhà lá xây nhà lầu. Không biết ông còn giữ cái bóng hình nhân trên tường của mình trong suốt 10 năm ngồi dựa chờ thời hay không? Riêng Thùy Dương Tử thì “cõi trên” hơn. Tôi từng nghe các anh Tư Đồng, Sáu Đầu Rồng, Tôn Thất Mạnh Tường kể về giai thoại lúc Thùy Dương Tử lãnh giải nhất Thơ Tao Đàn Bạch Nga của tiên sinh Nguyễn Vỹ. Khi ôm cọc tiền thưởng từ cầu thang bước xuống trước ống kính máy quay của báo chí, Thùy Dương Tử không đi hết các bậc cầu thang mà bung cọc tiền “thùm lùm” tung tóe xuống phía dưới. Một trong những người thu hoạch tài chánh lì xì bất ngờ của ông chính là nhà thơ châm biếm Cung Văn. Kể sơ sơ như thế để thấy sự ngông cuồng hào khí ngất trời của một thi sĩ tự do trọng nghĩa khinh tài thuở đó. Tôi còn nghe đồn rằng Thùy Dương Tử rất giỏi Kinh Dịch và bấm Nhâm Độn. Có lần tôi chở Hương Lan trên xe đạp ghé căn nhà đìu hiu của ông trong tận cùng ngõ ngách khu Phú Nhuận. Trong cơn mơ màng, ông bật dậy chạy ra hét lớn “Thằng em thiên tài chở vợ tới”. Tôi hết hồn nhìn ông thì ông trợn mắt khẳng định: “Chắc chắn chú mày sẽ lấy mỹ nhân này. Anh nhìn thấu kiếp trước lẫn kiếp sau của chú”. Mọi chuyện tưởng như giỡn chơi ai ngờ “linh ứng” vào năm sau. Đáng tiếc bây giờ Thùy Dương Tử đã quy tiên, nếu không tôi sẽ còn thẩm vấn ông về vận mệnh đất nước để nhờ ông đoán điềm giải mộng…
Tháng 8-1988 tôi và Hương Lan làm đám cưới tại khuôn viên Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam. Chúng tôi chỉ có ái tình và hai bàn tay trắng. Anh Huỳnh Tấn Mẫm, Chủ tịch Hội lúc ấy và chị Giám hầu như lo cho tôi miễn phí hết mọi sự, từ mặt bằng đến lều bạt, âm thanh. Huỳnh Tấn Mẫm nguyên là Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn thời tôi tham gia phong trào học sinh tranh đấu. Anh yêu mến thơ tôi, tôn trọng cá tính của tôi và sẵn sàng tâm sự với tôi những chuyện không thể kể cho nhiều người. Đám cưới được hình thành từ công sức của bạn bè. Thiệp do Nhã Bình, Đỗ Trung Quân in tặng. Gửi thiệp tới quan khách do nhóm Trần Hữu Dũng đảm nhiệm. Bài “Oui Devant Dieu” nổi lên, bao nhiêu ân oán giang hồ rũ sạch, mọi nghi kỵ thù hận nhỏ nhen tan biến. Quan khách đến dự tiệc cưới có mặt từ lãnh đạo trung ương, thành phố cho đến văn nghệ sĩ bụi đời. Bàn “các sếp” có ông Trần Bạch Đằng, Phạm Chánh Trực, Nguyễn Chơn Trung, Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Lê Công Giàu, Bảy Câu, Bến Nghé, bà Chín Ngân, vợ chồng Võ Như Lanh… Bàn nhạc sĩ có Miên Đức Thắng, Diệp Minh Tuyền, Phan Bá Chức, Nguyễn Duy… Bàn họa sĩ có vợ chồng diễn viên Lê Chánh, Hồ Hữu Thủ, Rừng, Hải Nguyễn, vợ chồng Hồ Thành Đức, Bé Ký…Bàn dịch giả có Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Phan Thịnh, Nguyễn Ngọc Trân… Bàn văn thi sĩ có vợ chồng ông Cung Tích Biền, Hà Nguyên Thạch, vợ chồng Lê Thị Kim, Trần Hữu Dũng, vợ chồng Đoàn Thạch Biền, vợ chồng Nguyễn Lương Vỵ… và rất nhiều anh em chiến hữu văn nghệ khác mà tôi không thể nhớ hết tên. Trong tiệc cưới, quan khách có cấp bậc cao nhất tham dự là ông Trần Bạch Đằng tức chú Tư Ánh đương nhiên đóng vai cương vị chủ hôn. Về việc này tôi có nói sơ trong GIAI THOAI CỦA THI SĨ các phần trước. Lúc lên phát biểu chú Trần Bạch Đằng có khuyến cáo vợ tôi rằng “Lấy thằng Vinh là con phải trang bị một khẩu súng để bóp cò lúc cần thiết”. Câu nói của ông làm vợ tôi hoảng hồn. Tôi phải xoa dịu em bằng bài thơ dịu dàng khạc ra tại chỗ: ĐÊM OUI DEVANT DIEU Kìa Oui Devant Dieu Mau quỳ xuống trước bàn thờ đi em Đừng cắn tay, đừng ngó lên Trước khi chớp mắt đừng quên liếc chàng Lát chàng nâng ngón tay ngoan Nhớ hôn mặt nhẫn nói thầm: anh ơi Lát môi chàng chạm vào môi Nhớ suỵt khe khẽ: suốt đời nghe anh! Lời khuyên hữu ích của chú Tư Ánh đã khiến đời tôi rẽ qua một bước ngoặc khác. Ông Trần Bạch Đằng như nhiều người biết từng là Đệ Nhất Công Thần của cách mạng miền Nam trong hai thời kỳ kháng chiến, ông tuy mang tiếng về hưu nhưng cương vị chính trị trong hậu trường còn lớn hơn thời còn tại vị. Vai trò ông quan trọng đến mức tôi thường gọi đùa ông là “quân sư Nguyễn Trãi” thiếu minh chúa Lê Lợi để phò tá. Đến chơi nhà ông nhiều lần, tôi được biết và chứng kiến không ít các vị lãnh đạo tối cao của nhà nước vừa nhậm chức đến gõ cửa ông nhờ tư vấn. Nhưng cho dù ông có làm đến “ông trời” đi nữa thì tôi vẫn yêu mến và kính trọng ông như bậc cha chú, như một người làm thơ đàn anh có tâm huyết thật sự với đất nước. Ông có hai câu thơ hào khí ngất trời khiến tôi rất thích: Dưới hầm đọc Lục Vân Tiên Bỗng nghe vó ngựa bình Phiên thuở nào Trong thời kỳ cánh cửa “bế quan tỏa cảng” vừa hé mở, không ai khác mà chính Trần Bạch Đằng mở toang cánh cửa văn hóa ra thế giới bên ngoài qua bộ phim nhựa chiếu trên đài truyền hình nhiều tập đầu tiên VÕ TẮC THIÊN do ông mang về. Bộ phim đã gây sóng gió với nhiều dư luận khác nhau từ giới chính trị bảo thủ. Nếu kẻ phổ biến bộ phim trên là một nhân vật khác không phải Trần Bạch Đằng thì ắt đã nằm trong tầm ngắm của công an văn hóa. Kỷ niệm của gia đình tôi và ông càng sâu đậm thêm vào mỗi dịp Tết. Cứ cuối năm lần nào đến thăm ông, tôi cũng được ông dành sẵn cặp rượu XO hiệu Martell hoặc Hennessy thượng hạng kèm theo một phong bao lì xì cho thằng nhóc con Bùi Vương của tôi tương đương một tháng lương. Đặc biệt đến thăm Trần Bạch Đằng mà không có Hương Lan vợ tôi là ông sa sầm nét mặt. Có lần vợ tôi bận bịu công việc, chỉ có hai cha con tôi xông đất thì ông nhăn nhó:”Sao mày không dẫn con Lan đến, nó là con gái nuôi của tao. Tao gửi nó cho mày để nó làm mày thuần tính. Nhớ đó”… Một lần khác gần đây trước khi ông mất, ông còn viết một bài nhận định tổng kết khá dài trên báo Tuổi Trẻ để nói về những người làm nên diện mạo văn hóa chữ nghĩa cho thành phố, cho miền Nam đang bị nền báo chí thực dụng cố tình lãng quên. Trong bài báo ông có nhắc tên Sơn Nam… như nhà văn hóa lớn, và nhắc tên tôi như một thi sĩ dân gian đặc sản của Nam Bộ. Con người ông đại khái là vậy, ai nói gì ai xầm xì gì mặc kệ, ông đã vượt ra ngoài tầm mọi “thủ đoạn chính trị” của các phe nhóm để cuối cuộc đời sống như một con người. Những chuyến đi nước ngoài ông kể lại cho tôi làm tôi nhớ đến bài thơ ĐI SỨ SINGAPORE của thi hào Cao Bá Quát khi bị lưu đày theo sứ bộ Phạm Phú Thứ ngày xưa. Xin mạn phép chép lại để các bạn nghiền ngẫm: THƠ CAO BÁ QUÁT Tân Gia từ vượt con tàu Mới hay vũ trụ một bầu bao la Giật mình khi ở xó nhà Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi Không đi khắp bốn phương trời Vùi đầu án sách uổng đời làm trai Rõ ràng cái chết của chú Tư Ánh tức ông Trần Bạch Đằng là một mất mát quá lớn đối với đất nước. Không còn ông tư vấn về mặt nhân tâm và đạo lý, tình hình xã hội trở nên rối như mớ bòng bong. Những bế tắc vừa qua trong việc giải quyết tham nhũng từ trên xuống dưới đã chứng thực điều ấy. Bước ngoặc đời tôi xảy ra sau đám cưới khoảng vài tháng. Một hôm ông Lê Thanh Hải tức Mười Hải, giám đốc Sở Nhà Đất thành phố mời tôi và nhạc sĩ giang hồ Nguyễn Hải đến dự tiệc tại tư gia. Ông Mười Hải trước kia là một trong những lãnh đạo Thành Đoàn thời bí mật, từng ở tù Côn Đảo và rất có máu mê văn nghệ. Ông nghe các phụ tá đồn đại về khả năng xuất khẩu thành thơ cay đắng của tôi nên muốn được thưởng thức cụ thể. Hôm đó Nguyễn Hải hát và ngâm bài thơ HỒ TRƯỜNG của Nguyễn Bá Trác cùng bài thơ PHẢN TỐNG BIỆT HÀNH của tôi xuất thần đến nỗi ông Mười Hải lặng người. Và tôi đọc tiếp bài ÔNG GIÀ BẮT RẮN làm ông chết điếng. Bài thơ ÔNG GIÀ BẮT RẮN ra đời khi tôi và Hồ Lê Thuần (con trai cố bí thư Thành Đoàn Hồ Hảo Hớn) ngồi nhậu tại một quán rượu chiều mưa trên đường Trần Quang Khải. Đang nhậu bỗng một người đàn ông trung niên tiều tụy đeo bị gậy tiến lại. Hai thằng mời vị hành khất ngồi vào bàn. Rượu vào lời ra mới biết người hành khất khắc khổ từng là cựu sĩ quan chế độ cũ sau khi học tập cải tạo về phải hành nghề bắt rắn để nuôi thân… ÔNG GIÀ BẮT RẮN Đột nhiên uống rượu gặp ông già Hai thằng đều thuộc loại không cha Cha ta ngày trước chưa hành khất Sao ông già xách bị thăm ta?
Quá may chai rượu còn phân nửa Ta nâng ly thù tạc bạn già Đêm nay không xỉn mà như xỉn Tiếng cười theo giọt lệ lăn ra
Không gặp nói chi, bằng đã gặp Chiến tranh dứt, sao mô còn đắp? Mời bố cạn ly rồi cười khà Chồm hổm coi đời thua con mắt
Ông già, thằng nhỏ cụng ly “túc” Khè khè không kém rắn hổ mang Thiên hạ cao tay bằng ngón út Giang sơn thu lại vất trên bàn
Ông già kể: “Nếu ưng nhậu rắn Mời mấy em lên núi một lần Khô hổ, khô trăn “qua” chất đống Gọi là có dịp ngộ tri âm
“Qua” bắt rắn bằng dây thòng lọng Khác thầy mo bắt rắn bằng bùa Mãng xà cắt cổ “qua” làm tiết Xực vào là khoái chuyện mây mưa
Chưa hết, mới xong màn tiết rắn Còn sáu món chờ anh hùng ẩm Luộc, xào, lẩu, nướng, gỏi, cà ri Anh hùng ẩm tửu, anh hùng tận
Nhưng mấy em ơi, “qua” đã già Cháu chắt thì đang thời khát sữa Đành nửa đêm băng núi đi xa Nói dóc xuống Sài Gòn đòi nợ
Mà xuống đồng bằng, “qua” là hổ Con thú làm sao có mái nhà Trời thương cho ngủ ngoài xó chợ Đêm về nước mắt tưởng sương sa
May mà gặp chú dòng hảo hớn Mời cụng ly không sợ dơ bàn Chỉ tiếc thiếu một khoanh khô rắn Cắn vào quên nỗi sợ công an”
Ông già xách bị chào mấy đứa Bố ơi, đất nước lắm ăn mày Tụi con trúng mánh nhờ phụ nữ Thời này con gái dễ đưa cay
Thời này con gái như con rắn Đem nướng phơi khô nhậu đã đời Tụi con giống bố thân hành khất Thường xin tiền phụ nữ mua vui
Còn hơn ăn trộm bằng ngòi bút Vua quan trăm kiểu hái ra tiền Tụi con tính trời cho háo sắc Ra phố thường ăn trộm trái tim
Mưa xuống, ba người không chỗ ở Ông già bắt rắn đã đi xa Riêng ta đi kiếm dây thòng lọng Đợi nàng rắn cái lén đi qua! Sau khi hỏi thăm cụ thể về quá trình công tác, ông Mười Hải dặn tôi và Nguyễn Hải làm ngay hai hồ sơ cá nhân để ông thu xếp công việc phù hợp với chuyên môn từng người tại Sở Nhà Đất TP. Tôi và Hải cùng nộp hồ sơ theo yêu cầu nhưng không hiểu sao chỉ mình tôi được nhận về Ban Nghiên Cứu của Sở. Ngày đầu tiên đến cơ quan trình diện, Mười Hải khẳng định với tôi “Em về chỗ anh là để phát huy khả năng làm báo. Sở Nhà Đất đang xin phép ra một tờ báo hằng tuần. Không sử dụng tài nghệ viết lách của em là rất uổng”. Như vậy trong khi chờ đợi tờ báo ra đời, tôi tạm thời sinh hoạt tại bộ phận tham mưu cho giám đốc được mệnh danh là Ban Nghiên Cứu. Đó là một ban quy tụ các anh hào tứ xứ từ các nguồn khác nhau đổ về. Dân tập kết có, dân học sinh miền Nam có, dân hoạt động nội thành có và dân chính quyền cũ lưu dụng lại cũng có nốt. Đó là các chuyên viên tài năng trên các mặt ngân hàng, tài chánh, địa ốc, văn hóa dân tộc. Tại đây tôi cùng các anh Lộc, Tiếp, Trí, Lân… soạn thảo một cuốn sách văn bản pháp quy giải đáp những thắc mắc của mọi người về phương diện tranh chấp đất đai, quyền sở hữu nhà cửa và các thứ linh tinh khác. Cuốn sách như một thứ cẩm nang được tôi biên soạn hành văn một cách linh động và dí dỏm. Tôi còn được Mười Hải tín nhiệm giao cho việc ngoại giao báo chí khiến nhiều đồng nghiệp cũ trong giới làm báo đến Sở Nhà Đất gặp tôi ngỡ ngàng. Trong đó có cả anh Huỳnh Bá Thành. Đáng tiếc duyên nợ của tôi với Sở Nhà Đất khá ngắn ngủi. Tôi rơi vào hoàn cảnh “rất uổng” như sếp Mười Hải vô tình dự đoán trước. Bởi một lẽ giản dị cuối cùng không có giấy phép ra tờ báo và Mười Hải nhận quyết định về hưu. Trong một buổi gặp gỡ riêng vị sếp mê văn nghệ nói với tôi: “Huỳnh Bá Thành bên báo Công An TP đánh tiếng với anh muốn xin em về làm báo. Bên đó phù hợp với em hơn ở đây. Ở đây không có tờ báo mà anh lại sắp về hưu thì ai lo cho em?”. Thế là xong. Một năm hương lửa đang nồng, trượng phu chưa muốn động lòng xuất chinh thì… tôi đã phải từ giã Sở Nhà Đất. Đúng là tôi không có lộc ở cơ quan được đồn là “xịn” nhất trong các cơ quan làm ra của cải tiền bạc cho thành phố. Tôi chưa vội vã gặp họa sĩ Ớt tức anh Huỳnh Bá Thành. Tôi quyết định phiêu lưu xuống miền Tây theo đề nghị của báo Văn Nghệ TP để viết loạt phóng sự giang hồ về các cây bút lừng danh miền sông nước. Nhân sự chuyến đi gồm có Kim Tuấn, Trần Hữu Dũng, Vũ Ngọc Giao và tôi. Bốn người làm thành một phái đoàn mà thiên hạ gọi là Tây Du Ký. Còn phải hỏi, nhà thơ Kim Tuấn vốn tính tình điềm đạm nho nhã lại lớn tuổi nhất, là tác giả các bài thơ phổ nhạc nổi tiếng trước giải phóng như ANH CHO EM MÙA XUÂN, NHỮNG BƯỚC CHÂN ÂM THẦM… xứng đáng làm thầy chùa Tam Tạng thỉnh kinh. Nhạc sĩ guitar cổ điển Vũ Ngọc Giao vốn dĩ háo sắc, mê các em và mê nhậu hơn mê âm nhạc nên tục gọi Trư Bát Giới là phải đạo trời. Nhà thơ Trần Hữu Dũng thì lúc nào cũng ậm ừ, tịnh khẩu một cách bí ẩn thành thử được mệnh danh là Sa Tăng. Còn tôi tính khí ngang tàng, thấy việc ngứa mắt là phát biểu, giao tiếp rộng rãi cả hai phe chánh tà nên anh em phong làm Tề Thiên Đại Thánh. Phái đoàn chúng tôi lên đường chu du đủ lục tỉnh, làm nên loạt phóng sự nhiều kỳ HẢO HỚN MIỀN TÂY vang dội. Vũ khí duy nhất của tôi trong chuyến Tây Du Ký vẫn là những bài thơ tình đặc sản Nam bộ mà đồng nghiệp và công chúng yêu cầu đọc lên trong những đêm thơ. Xin giới thiệu bài thơ CON GÁI BA MIỀN đọc trong chuyến đi lưu diễn: GÁI BẮC Con gái Bắc rất chịu chơi Ta dân Nam bộ ngỏ lời cầu hôn Chịu chơi vì lắm hồi môn Chẳng hạn răng khểnh, má tròn đồng xu Chưa kể con mắt tiểu thư Dáng đi công chúa, lởi ru thiên thần Ta thường dễ động lòng trần Thấy con gái Bắc manh tâm ngó hoài
Các em mình hạc xương mai Thấp cao vẫn nhớ, mập gầy vẫn thương Chanh chua vẫn ngọt như đường Nói xạo cách mấy vẫn tương tư hoài Nhớ em lồi hết lỗ tai Lõm hai con mắt, lồi mười ngón chân Em tên Bích, Thảo, Thu, Vân Hay Kim, Oanh, Yến có lần chịu chơi Từng yêu khi mới chào đời Đêm nay gọi các em ơi, ta buồn
Hà Nội băm sáu phố phường Ngó môi em hết nhớ đường về Nam
GÁI HUẾ
Con gái Huế rất khó chơi Ta dân Nam bộ thốt lời vũ phu Khó chơi vì hát như ru Nói như chim hót, bước như rắn trườn Cộng lại thì thành văn chương Trừ ra thì dễ bất thường động tâm
Sơn bất tận, thủy bất thâm Lên núi Ngự mới ớn thầm sông Hương Ta từ xưa thích du dương Ưa trèo núi, khoái bơi xuồng lội sông Giang hồ một phút yếu lòng Kêu lên hai tiếng mặn nồng: Huế ơi Dù các em rất khó chơi Nhưng ta cũng thử ngỏ lời bướm ong
Các cô gái Huế nghe không Kêu thêm phụ nữ đến còng ta đi
GÁI NAM
Con gái Nam rất ham chơi Ta dân cùng xứ ngỏ lời biểu dương Ham chơi đến lúc lên giường Em còn xuống giọng cải lương rất mùi Sáng đèn nhớ lúc tối thui Giàu sang nhớ củ khoai lùi dính tro Các em như miếng cá kho Ngó vô thấy đã, cắn vô thấy bà Cắn vô xương gỡ không ra Trừ khi trình diện ông già của em
Lên Đồng Nai, xuống Long Xuyên Các em má lúm đồng tiền bắt ham Chỉ người ngu mới không tham Ta chưa ngốc muốn gỡ làm vốn riêng Kệ đồng tiền trắng hay đen Ngày ta bỏ túi, đợi đêm bỏ mùng Các em mới liếc đã khùng Hèn chi thi sĩ, anh hùng phải tiêu Mỹ nhân nghĩ thiệt trớ trêu Xưa nay danh tướng biết điều dưới cơ Vòng Bến Tre, bọc Cần Thơ Ở đâu ta cũng choán giờ cơ quan Nước dừa em tắm thả giàn Ta vốn đàng hoàng cũng lén rình coi Rình coi con quạ kêu rồi Quạ kêu “nam đáo” nữ ơi đề phòng
Phải không Đào, Cúc, Thu, Hồng Anh trai khác họ đem lòng nhớ thương! Trong chuyến đi tôi có dịp làm quen với Trịnh Bửu Hoài, Phù Sa Lộc, Nguyễn Văn Bổn, Võ Minh Đường, Trúc Linh Lan, Nguyễn Lập Em, Phạm Hữu Quang, Huỳnh Duy Lộc, Trần Thế Vinh, Hồ Thanh Điền, Thiện Chiến, Trần Thanh Phong, Trương Công Thuốt, Ngô Khắc Tài, Song Hảo… Đáng tiếc là lộ trình lưu diễn không đi qua Bến Tre và Long An để gặp bạn bè cũ là anh Mặc Tuyền, Đinh Thị Thu Vân, Hồ Trường, Bảy Dân, Nguyên Tùng, Kim Ba, Ngọc Điệp… Tôi cũng không gặp các huynh đệ quen thuộc Nguyễn Trọng Tín, Võ Đắc Danh, Võ Đắc Dự…vì họ không còn ở chỗ cũ. Chuyến đi đọng lại hai hình ảnh anh hùng hảo hớn cả văn lẫn võ. Đó là Phạm Hữu Quang và Huỳnh Duy Lộc, một kẻ vai bạn, một người vai em. Phạm Hữu Quang râu quai nón như Lỗ Trí Thâm, tướng tá kềnh càng như con gấu nhưng có ánh mắt và nụ cười thật dễ thương. Phạm Hữu Quang ăn ý với tôi ở chất Lục Vân Tiên, tại Long Xuyên hễ gặp chuyện bất bình là anh sẵn sàng ra tay can thiệp nên thường “xa huy chương mà gần tù tội”. Anh lập gia đình có một vợ hai con, hồi học đại học Sư Phạm trên Sài Gòn cùng lớp với Nguyễn Nhật Ánh. Thơ Phạm Hữu Quang phải nói là độc đáo và có cá tính. Đọc những bài thơ phiêu bạt, khinh mạn của anh làm tôi liên tưởng đến thi sĩ Hà Thúc Sinh thời vàng son trước 1975. Hai anh em có một đêm nằm tâm sự với nhau và anh dúi vào tay tôi bài thơ mới làm từ chuyến viễn du miền Trung chống stress. Bài thơ được tôi đưa cho Tổng Biên Tập báo Văn Nghệ TP là anh Chim Trắng đăng ngay lúc phái đoàn Tây Du Ký trở về. Bài thơ nổi tiếng đến mức hai câu cuối cùng tới bây giờ vẫn còn lưu truyền trên mạng internet: Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà Khi tôi viết những dòng chữ này thì họ Phạm đã vĩnh biệt cõi đời sau một cơn bạo bệnh. Những dòng chữ xem như nén nhang thương tiếc một con người tài hoa sinh bất phùng thời. Ngược lại với Phạm Hữu Quang, xuống Cần Thơ tôi đụng độ một hiền đệ gặp lúc thời vận ăn nên làm ra nhưng vẫn giữ nguyên tắc hảo hớn miền Tây “kiến nghĩa bất vi vô dõng giã”.Đó là Huỳnh Duy Lộc, giám đốc khách sạn Hào Hoa kiêm thi sĩ kiêm võ sĩ Thần quyền. Cuộc gặp mặt có cả Vũ Ngọc Giao như một chứng nhân. Xét về thơ thì Huỳnh Duy Lộc ăn nói cực kỳ khiêm tốn. Xét về võ thì họ Huỳnh khởi sự bằng cách nhai ly rôm rốp và nuốt chửng. Chuyện đó tôi cũng làm được, tôi ghé răng hất ly xây chừng vào miệng rồi nhai như bánh tráng đáp lễ. Huỳnh Duy Lộc chuyển sang võ bí mật. Hiền đệ họ Huỳnh đặt một trái quýt lên đỉnh đầu con người cao tới 1m74 là tôi, sau đó hiền đệ tung một cú giò lái từ thân thể cao chưa tới 1m60. Trái quýt bị đá văng khỏi đầu tôi như một luồng gió thốc. Sẵn đà cao hứng, hiền đệ xách con dao chặt dừa ra chẻ phăng một trái dừa xiêm. Cũng con dao đó, họ Huỳnh chém vào ngực trần của mình bình bịch. Màn biểu diễn võ gồng chấm dứt mà da thịt Huỳnh Duy Lộc không hề trầy trụa hay sứt mẻ. Được biết trước khi trở thành thi sĩ, Huỳnh Duy Lộc từng bôn ba sóng gió giang hồ. Lộc từng thành danh đại ca bên đất nước chùa Tháp, từng hỗ trợ tích cực chính quyền địa phương trong việc săn bắt tội phạm hình sự.
Năm 1989 tôi làm việc tại Lăng Ông Lê Văn Duyệt. Trong một lần họp mặt truyền thống Thành Đoàn tại nhà anh Sáu Quang, tôi được Sáu Quang tức Nguyễn Chơn Trung (bí thư Thành Đoàn thứ nhì sau anh Năm Nghị) kêu về Bình Thạnh, nơi anh đương chức Bí thư Quận Ủy. Anh và Tư Phương tức Nguyễn Xuân Thượng phụ trách kinh doanh du lịch đang rất cần một đảng viên có năng lực để điều hành và vực dậy di tích Lăng Ông Lê Văn Duyệt trong tình trạng xuống cấp. Anh Sáu Quang từng chỉ đạo trực tiếp báo Tuổi Trẻ từ ngày mới thành lập và tương đối am hiểu con người nổi loạn của tôi, bởi anh cũng là một người làm thơ phong trào dưới bút hiệu Thiên Lý và là Chủ tịch Tổng Đoàn Học Sinh Sài Gòn trước cả Lê Văn Nuôi. Chỉ đáng tiếc tôi chưa hề là đảng viên nên tôi quyết định giới thiệu Lã Văn Cường, một nhạc sĩ đảng viên bên lực lượng TNXP cho anh vì Cường cũng chưa có việc làm, đang chờ chuyển ngành. Thế là hai đứa tôi cùng về phòng Văn Hóa Quận một lượt. Lã Văn Cường được bổ nhiệm làm giám đốc Lăng Ông. Trong GIAI THOẠI CỦA THI SĨ những phần trước, tôi đã nói sơ sơ về Cường. Đại khái tôi và Lã Văn Cường là cặp bài trùng một thơ một nhạc đi đến đâu tạo niềm vui cho đám đông ở đó. Vì vậy thoạt đầu nhận chức ở Lăng Ông, Cường và tôi đã quy tụ anh em hào kiệt tứ xứ khắp nơi. Nòi tình đồng điệu gặp nhau, khu di tích Lăng Ông thuở ấy khá hùng mạnh với bố già Sơn Nam làm cố vấn, với đạo diễn Trần Văn Hưng phụ trách nhà hát vừa xây dựng xong, với Đoàn Vị Thượng làm chánh văn phòng, với Nguyễn Hải làm quản lý Lăng… và võ thuật do Hồ Hoàng Khánh, huấn luyện viên Không Thủ Đạo, con trai cố võ sư lừng danh Hồ Cẩm Ngạc đảm nhiệm. Cuộc đời tưởng xuôi chèo mát mái nhưng… tưởng vậy mà không phải vậy. Giống như 108 anh hùng Lương Sơn Bạc ngày xưa, thời từng anh hùng còn “solo” chơi với nhau thật tình nghĩa, chia cơm xẻ áo hết mình, đến khi bị Tống Giang, Ngô Dụng gom sòng lại thì năm bè bảy mối, tan đàn xẻ nghé nghi kỵ lẫn nhau . Trong đạo Công Giáo có câu “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Ê kíp chúng tôi cũng không thoát khỏi định mệnh. Sau một thời gian “bạo phát” dưới hình thức kinh doanh mượn duy linh để làm duy vật, Lăng Ông “bạo tàn” nhanh chóng. Tôi không thể đấu tranh với chính bạn bè mình nên đành chia tay trong sự ân hận. Duy nhất một kỷ niệm đẹp mà tôi còn giữ: đó là lần đầu tiên tôi và nhạc sĩ Trần Tiến kết hợp nhau làm Đêm thơ nhạc thu hút khá nhiều sự bình phẩm của giới chuyên môn ở Lăng Ông… Nghỉ Lăng Ông tôi rơi vào tình thế chỉ mành treo chuông vì gia đình tôi sắp có con trai đầu lòng. Đúng lúc đó chiếc đũa thần từ tay Huỳnh Bá Thành gõ xuống. Huỳnh Bá Thành tức họa sĩ Ớt bí danh Ba Trung, nổi tiếng với nét cọ châm biếm cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ bằng một nét vẽ mà giống cực kỳ. Anh hoạt động tình báo trong An Ninh T4 và là phụ tá báo chí của Đại tướng Dương Văn Minh (Tổng Thống cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa). Tôi biết anh ngay từ thời tôi còn phụ trách trang văn nghệ báo Tuổi Trẻ. Thuở ấy anh bị “đì” ná thở. Một trong những lý do bị thượng cấp nghi ngờ là tại sao anh làm tình báo mà không bị ở tù hoặc bị địch phát hiện, lại còn được Tổng Thống “ngụy” trọng dụng? Thế là có lúc Huỳnh Bá Thành sa cơ phải công tác tại bãi giữ xe trước cửa Sở Công An TP trên đường Trần Hưng Đạo. Có lúc nhà anh đói đến mức thi sĩ giang hồ Mặc Tuyền từ Long An lên phải viện trợ gạo. Cả họa sĩ Ngoéo, một đồng chí vẽ châm biếm tài hoa, cũng từng giúp đỡ vật chất cho anh. Chính từ những ngày hàn vi ấy mà Huỳnh Bá Thành thấm thía hết sự bất công. Anh nhạy cảm trong sự phân biệt chính tà thiện ác và dám đầu tư nhân sự cho tờ báo Công An TP theo ý riêng của mình. Tại nhà hàng Continental (thời bia quốc doanh) anh, tôi, Ngụy Ngữ, Sáu Du, Hồ Ngọc Xum từng chia nhau từ miếng bánh mì cho đến ly bia hơi tem phiếu. Tôi làm việc trong Ban cố vấn của tờ báo. Ban cố vấn là tên gọi một cách nôm na, thực chất đó là bộ phận tham mưu chiến lược cho Huỳnh Bá Thành bao gồm Ngụy Ngữ, Lưu Trọng Văn, Sơn Nam, Vũ Hạnh và tôi. Bằng kinh nghiệm lịch lãm của một người làm báo Sài Gòn cũ, Huỳnh Bá Thành đã đưa tờ Công An TP từ chỗ vô danh cho đến vị trí bán chạy nhất trong làng báo Việt Nam với con số phát hành kỷ lục. Mỗi ngày Huỳnh BáThành bắt tôi phải đến tờ báo vài tiếng đồng hồ buổi sáng để họp riêng với anh, chủ yếu là làm trang Văn Hóa Văn Nghệ, viết phóng sự hài hước, chuẩn bị những kịch bản phim viết chung cho hãng phim Người Bảo Vệ mới thành lập, và cả chuyện viết chung Feuilleton. Anh tin tôi đến mức có lần phát biểu trong một cuộc họp báo trà dư tửu hậu lúc ra mắt hãng phim: “Bùi Chí Vinh đại diện cho tôi, những gì Bùi Chí Vinh phát biểu là tôi phát biểu”. Tôi đã không phụ lòng tin của anh. Bất chấp sự đa nghi của một số kẻ bảo thủ trong tờ báo, tôi và anh đã hoàn thành truyện dài nhiều kỳ LUẬT NHÂN QUẢ đăng trên báo Văn Nghệ TP, truyện cũng được chuyển thể thành kịch bản phim chung hai người mang tên MÊNH MÔNG TÌNH BUỒN do Hồ Ngọc Xum làm đạo diễn, Nguyễn Ánh 9 làm nhạc phim. Ngoài ra năm 1989 lần đầu tiên trong đời, một ông anh khác là Vũ Quang Hùng, phó Tổng biên tập báo Công An TP kiêm phụ trách Nhà in Nguyễn Minh Hoàng cũng hổ trợ cho tôi in thiếu tập THƠ TÌNH BÙI CHÍ VINH do NXB Trẻ cấp giấy phép với số lượng bước đầu 5.000 bản. Anh Vũ Quang Hùng vốn là dân ám sát thuộc An ninh T4 sau giải phóng chuyển qua làm báo đúng như niềm mơ ước thời sinh viên của anh. Cũng như họa sĩ Ba Ớt, anh Hùng rất “sính” kiểu cách làm thơ ngang tàng của tôi nên anh em tri ngộ nhau tương đắc. Tôi đôi khi đóng vai trò hòa giải các ý kiến khác nhau giữa hai sếp bằng những bài thơ dụ ngôn. Nhờ sự trợ lực của Vũ Quang Hùng, tập THƠ TÌNH BÙI CHÍ VINH in ra gây tiếng vang lớn trên thi đàn cả nước và công chúng trẻ. Đã có những cuộc hội thảo về tập thơ “vĩa hè”, “đáng đọc nhất thế kỷ” trên báo chí lẫn các trường đại học mà tôi đã từng đề cập. Huỳnh Bá Thành có những tham vọng riêng, tham vọng nào cũng đứng trên nền tảng quyền lợi của nhân dân hơn quyền lợi cá thể. Tuy nhiên cách hành xử luôn đi trước thời đại của anh khiến nhiều người ngộ nhận, trong đó có cả thượng cấp. Cũng may anh được ông Phạm Hùng (Phó Chủ tịch HĐBT phụ trách Bộ Nội Vụ lúc đó) ủng hộ nên nhiều vụ tai qua nạn khỏi. Trong một xã hội nhiễu nhương, con người tài năng cho dù đức độ vẫn luôn đầy dẫy kẻ thù, trường hợp Ba Ớt tức Huỳnh Bá Thành cũng như vậy. Có lần anh bị một số báo chí hùa nhau vây đánh về vụ che chở cho Việt kiều Nguyễn Quốc Bảo tức Bảo Sơn trong thương vụ điện ảnh. Anh phẫn nộ tâm sự với tôi, nhờ tôi viết loạt bài phản kích. Tôi chỉ hỏi anh một câu: “Tôi tin anh. Nhưng vụ Bảo Sơn với pháp luật là đúng hay sai. Nếu sai thì tôi sẽ không làm”. Khi Huỳnh Bá Thành khẳng định rằng anh am tường pháp luật và việc bảo vệ chuyện làm ăn hợp pháp của Việt kiều là đúng, thì tôi liền hoàn tất hồ sơ phản biện báo chí theo yêu cầu của anh. Kết quả hậu trường sau đó êm xuôi, lời ong tiếng ve cũng biến mất. Huỳnh Bá Thành tuyên bố một câu ngậm ngùi trong bữa nhậu tại nhà trước nhiều người: “Cháy nhà ra mặt chuột. Trải qua hoạn nạn mới biết đá biết vàng. Mới biết trong báo chí trong đồng hương xứ Quảng của mình, ai là kẻ lừa thầy phản bạn”. Huỳnh Bá Thành qua đời vào mùng 2 Tết, lúc anh thở phào nói với tôi: “49 bước qua, 53 bước lại, cụng ly với anh chúc mừng qua năm tuổi”. Đêm đó tại nhà anh, hai vợ chồng tôi và hai vợ chồng anh Nguyễn Đăng Trừng (là người em cột chèo với anh) là những kẻ ngồi lại khuya nhất. Khi tôi và Hương Lan về, chỉ còn luật sư Nguyễn Đăng Trừng và bà xã ở lại. Đến khoảng 2 giờ sáng thì nhà văn Từ Kế Tường gọi điện thoại báo tin khẩn cấp cho tôi là anh Ba Ớt đã đột tử, xác quàng tại chùa Đại Giác, và các anh Vũ Quang Hùng, Hà Phi Long đề nghị tôi có mặt tại báo Công An TP suốt những ngày sau đó. Cái chết của Huỳnh Bá Thành gây chấn động làng báo trong và ngoài nước, anh chết cũng bất ngờ như vị lãnh đạo từng che chở anh đã qua đời trước đó là ông Phạm Hùng, đều cùng một nguyên nhân được giải thích là “nhồi máu cơ tim”. Cái chết của Huỳnh Bá Thành đi vào kỷ lục quốc gia về số lượng người thắp nhang đưa tiễn. Kỷ lục Guiness đau buồn này ghi nhận cho đến giờ chỉ có 3 đám ma đông người đến viếng nhất. Đó là đám ma nữ nghệ sĩ Thanh Nga làm sập bờ tường do công chúng hâm mộ xô đẩy. Đó là đám ma diễn viên Lê Công Tuấn Anh với công chúng điện ảnh trẻ tràn ngập khắp Sài Gòn như một cuộc mít tinh. Đó là đám ma Huỳnh Bá Thành với thập loại chúng sinh đến viếng, từ lãnh đạo trung ương địa phương đến bà con lao động nghèo khổ, giang hồ du đãng, bán vé số, đạp xích lô, đạp xe ba bánh, thương binh ngồi xe lăn cả hai chế độ. Phải nói rằng đám ma anh Ba Ớt là đám ma “nhân dân” đúng nghĩa nhất, con người suốt đời làm từ thiện cứu nhân độ thế như anh đã được đền đáp đích đáng bằng nước mắt của những người cô thế mà anh từng giúp đỡ… Đêm đầu tiên quan tài anh Ba Ớt đặt tại tòa soạn, tôi đã thức suốt một đêm với anh bên cạnh anh Ba Tung và Sáu Du. Đêm đó anh Ba Tung, người từng đánh mìn thủy ngân sập cầu nổi chợ Bến Thành, người từng làm Trưởng phòng hình sự Sở Công An TP, từng bị báo chí đánh tơi bời vụ Đường Sơn Quán khiến đứa con gái thân yêu nhất của anh phải tự tử vì hổ thẹn. Đêm đó mắt Ba Tung rớm lệ. Tôi hiểu con người coi cái chết nhẹ tựa lông hồng như anh bị uất ức ra sao khi bó tay trước những kẻ ám hại mình. Tôi cũng như anh, những lúc mạt lộ đều có sự hỗ trợ tinh thần cần thiết của anh Ba Ớt. Chính báo Công An TP là báo duy nhất đăng tin con gái Ba Tung tự tử chết vì áp lực tàn khốc từ một vài tờ báo lớn của thành phố. Đêm đó dù Lưu Trọng Văn đã viết sẵn một bài điếu văn thương khóc Huỳnh Bá Thành nhưng hai phó Tổng Biên Tập Vũ Quang Hùng, Hà Phi Long vẫn yêu cầu tôi tức tốc làm một bài thơ tưởng niệm Huỳnh đại huynh để đăng báo ngay sáng hôm sau. Mùng 3 Tết Quý Dậu bài thơ KHÓC ANH HUỲNH BÁ THÀNH đăng báo và đến bây giờ vẫn còn nhiều anh em nhớ mãi. Bài thơ sau này được in trong cuốn sách KÝ SỰ NHÂN VẬT của cố Họa sĩ Ớt, tức Huỳnh Bá Thành do NXB Trẻ phát hành năm 2002: KHÓC ANH HUỲNH BÁ THÀNH Cái chết đến thật bất ngờ Người kỵ sĩ chưa hề thấm mệt Con ngựa Quan Công nhắm mắt như mơ Dây cương đứtt hai bờ nhật nguyệt
Năm tuổi của anh đi qua như gánh xiếc Tiếng thị phi lẫn tiếng anh hùng Anh không có đủ 72 phép thần thông bất diệt Suốt đời ôm giấc mộng Tôn Ngộ Không
Khi trần gian chưa sòng phẳng sự công bằng Khi ma quỷ vẫn còn đeo mặt nạ Cây cọ của anh vẽ từ nhân dân Lật tẩy bọn vua quan ngụy trá
Khi máu đào còn tuôn như nước lã Người nhìn nhau chưa hiểu được lòng mình Ngòi bút của anh có đường gân thớ lá Lá rách lá lành đùm bọc nghĩa đệ huynh
Nho sĩ ngày xưa đợi Mạnh Thường Quân Thế thiên hành đạo nuôi người khố rách Buổi nhiễu nhương của đạo quân thần Tâm nghiêng ngã giữa dơ và sạch
Anh đã sống hết giấc mơ kiếm khách Cái chết giống như một lưỡi gươm cùn Trái tim khép ngay thời mở cửa Để nén nhang đời cháy đỏ rưng rưng
Oi nghĩa tử củng là nghĩa tận Ai khanh tướng công hầu, ai họa sĩ nhân dân? Chị Ninh (vợ anh Huỳnh Bá Thành) nói với tôi trong đám giỗ đầu: “Anh Ba hồi còn sống hay nói họ Bùi có hai kẻ chọc trời khuấy nước là Bùi Giáng và Bùi Chí Vinh. Ông Giáng ghé thắp nhang rồi, bây giờ Bùi Chí Vinh đốt cho anh Ba điếu thuốc đi”. Nhân nhắc đến Bùi Giáng, tôi sực nhớ khoảng đầu năm 1990 tôi có chở Hương Lan lúc đó mang bầu đứa con đầu lòng ghé chơi nhà Nguyễn Lương Vỵ, thi sĩ kiêm Trưởng phòng Văn Hóa Thông Tin quận Phú Nhuận. Tại phòng khách có mặt sẵn hai dị nhân Bùi Giáng và Joseph Huỳnh Văn. Anh Huỳnh Văn thì tôi không xa lạ gì, anh cùng đạo Công Giáo với tôi và là nhà thơ có hai câu thơ đau đớn đến tuyệt mỹ: Một đêm ta uống hết sông đầy Một đêm ta khóc hết thơ ngây Tôi với anh Hiến tức Joseph Huỳnh Văn thân nhau như huynh đệ, nhưng với Bùi tiên sinh thì khác. Sau khi làm thủ tục chào hỏi, Bùi tiên sinh hất hàm với tôi: “Phu nhân của Bùi hậu sinh có chữa hả, đặt tên gì chưa?”. Tôi trả lời rằng chưa thì Bùi Giáng vỗ bàn cái rầm: “Trẫm đề nghị đặt tên cho hậu duệ Bùi hậu sinh là Bùi Vương. Bởi họ Bùi chưa có ai làm vua cả”. Phát ngôn của Bùi Giáng làm cả bàn phì cười, lúc đó tôi giả tảng nhắc lại kỷ niệm cùng với Hồ Lê Thuần hội ngộ ông ở chùa Long Huê, Gò Vấp. Kỷ niệm sâu sắc đến mức tôi ghi lại bằng bài thơ HỌ BÙI đọc ra trước mặt ông: HỌ BÙI Ta kiếm hoài một gã họ Bùi Trong lịch sử từng làm hoàng đế Chỉ thấy họ Đinh, Lê, Trần, Lý Thay phiên nhau mặc áo long bào Gượng cười ba tiếng mà rơi lệ Bùi gia trang tuyệt giống rồi sao?
Không xưng vương thì ắt cường hào Ta bỏ sử đi tìm kinh sách Nguyễn Đình Chiểu đui mà thấy hết Gọi ngay ông Bùi Kiệm đến chào Chao ôi thủy tổ nhà ta lạ Khinh ngai vàng, mê gái thật sao?
Không xưng vương thì ắt xưng tao Ta bỏ sách đi lùng tứ phía Chùa Long Huê có người mũ tía Trải chiếu rơm viết một chữ Bùi Ta giả nhà sư đi ngắm nghía Biết rằng Bùi Giáng ghé am chơi
Thế thì dòng dõi nhà ta quậy Tửu sắc đều say đến bốc trời Không lập đế vì ưng rượu đế Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi Không lập chúa vì ưng nữ chúa Thà lên… Bùi mãi, chẳng lên ngôi! Bài thơ HỌ BÙI hiện giờ nằm trên mạng internet toàn cầu, là niềm tự hào của trang web “gia phả họ Bùi”. Bài thơ cũng được nhà báo kiêm nhà thơ trẻ Phan Hoàng in lại trong cuộc phỏng vấn tôi trên báo Người Đương Thời. Một lần trả lời phỏng vấn của Phan Hoàng trên báo Sài Gòn Giải Phóng tôi cũng đã giải thích về cái tên họ cụt ngủn của thằng con Bùi Vương do Bùi Giáng đặt. Bởi tôi là dân Sài Gòn gốc Nam Định, không phải dân miền Trung thường đặt tên con “hai chữ “. Phan Hoàng đã hỏi tôi thật cắc cớ về chuyện Bùi Giáng mất và bị khá nhiều câu lạc bộ kinh doanh thơ, thư pháp… lợi dụng, thì tôi đã trả lời rõ ràng: Rằng sự nghiệp thơ Bùi Giáng không nằm trong sáng tác mà nằm trong chính cuộc đời của ông khi giả điên và dấn thân như một Hành giả. Những kẻ ăn theo cái chết Bùi Giáng có thể liệt kê vào thành phần ngụy quân tử, thiếu lương tâm và vô đạo đức. Vì lúc còn sống Bùi tiên sinh không hề quan tâm đến họ mà chỉ chơi với trẻ con, chuồn chuồn, châu chấu. Hôm quan tài Bùi Giáng quàng ở chùa Vĩnh Nghiêm có mặt chị Kim Cương, điêu khắc gia Phạm Cung, thân tộc họ Bùi là Bùi Bảy… tôi đã lập lại lời nói đó. Và được nghệ sĩ Kim Cương, người mà Bùi Giáng cực kỳ hâm mộ, người lo hậu sự cho ông, đã ủng hộ tôi tối đa. Chị Kim Cương hào hứng tới nỗi lôi tôi và hai ông Phạm Cung, Bùi Bảy lên xe hơi của chị chạy ra phở Pasteur làm một chầu lai rai bồi dưỡng. Cũng cần thiết mở ngoặc đơn chỗ này: nhà của Phạm Cung là tiền trạm ghé chân của khá nhiều danh sĩ như Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Phạm Duy, Phan Nhật Nam…trong nhà có tượng đồng bán thân Bùi Giáng, Phạm Duy và một bức tranh sơn dầu Phạm Cung phóng bút vẽ tình bạn của ba người Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư và ông. Xuất thân từ một điêu khắc gia nhưng tranh của ông vô cùng sắc sảo khi đề cập đến thân phận loài người dưới đáy xã hội. Hồi Huỳnh Bá Thành còn sống, chính anh Thành cùng tôi đến tận nhà Phạm Cung mời ông khai trương phòng triễn lãm từ thiện đầu tiên tại báo Công An và cuộc triễn lãm đó đã thành công rực rỡ cả tài chánh lẫn nghệ thuật. Nhiều người trong giới văn nghệ (ngay cả chị Ninh, vợ Huỳnh Bá Thành) đều nghĩ rằng anh Ba Ớt “đai” là tôi hết đất sống. Trong độ tuổi “tứ thập bất hoặc” bốn mươi không còn gì để nghi ngờ, tôi vẫn tiếp tục tự mưu sinh thoát hiểm chẳng cần ai đỡ đầu. Tôi còn nhiều chuyện không thể kể ra đây hết được đối với nhiều người vì các lý do tế nhị khác nhau. Những chuyện thoạt nghe tưởng như giai thoại nhưng đều trả giá bằng đạo nghĩa ân oán phân minh. Nửa đêm trằn trọc nằm vắt tay lên trán nhớ lúc đói meo ra Đà Lạt gặp nhà thơ Bùi Minh Quốc, gặp bạn cũ Phan Minh rồi được nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự đánh xe hơi rước đi đọc thơ ở trường đại học Đà Lạt. Rồi lần nhậu dựa lưng cùng thi sĩ đàn anh Thu Bồn tại Hội Văn Nghệ bàn chuyện diệt bạo trừ gian, diệt bọn cầm bút vô lại và trừ đám gian thần nịnh hót. Rồi có lần cùng Nguyễn Trọng Tín, Trần Hữu Dũng, Võ Đắc Danh thuê hai chiếc xích lô xuống trường Đảng ở Thủ Đức nhậu, trong lúc ai nấy đều say khướt tôi bất ngờ cứu mạng Võ Đắc Danh khỏi một đường dao oan nghiệt, đến bây giờ bàn tay tôi còn thẹo. Rồi có lần cùng Nguyễn Quốc Chánh dẫn phái đoàn nho sĩ Bắc Hà đi chơi, cuối cùng nhà văn Nguyên Ngọc phải “bỏ dép chạy lấy người” tại Xóm Chùa. Rồi bỗng dưng nhớ lại hồi còn làm báo Công An với Huỳnh Bá Thành, tôi có dịp cứu cô cháu gái của nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm bỏ nhà vô Nam đi bụi qua bản tin đăng trên báo. Rồi nhớ lại những lần cụng ly với nhà doanh nghiệp xe lăn Tiến Toàn, mỗi lần đọc một bài thơ ứng khẩu là vị thương gia có máu Mạnh Thường Quân móc ra chi ngay cho tôi “một vé”. Rồi tiếp tục nhớ lần ra Bắc họp đại hội Nhà văn trẻ toàn quốc được sự đón tiếp bằng lòng hiếu khách đặc biệt của thi sĩ Nguyễn Quang Thiều với “anh hai Sài Gòn” theo cách của Thiều màchỉ tôi mới hiểu. Rồi lần ra Bắc tiếp theo để nhận tặng thưởng đặc biệt của NXB Kim Đồng cho bộ truyện thiếu niên 5 Sài Gòn, gặp dịch đau mắt bị Nguyễn Quang Lập lây, lúc về Sài Gòn bế quan cả một tuần lễ. Tiếp tục nhớ thời bo bo xách súng cùng nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết, họa sĩ trịnh Thanh Tùng đi săn cải thiện nhưng không dám bắn chim cu đất vì nó giống chim bồ câu biểu tượng cho hòa bình. Nhớ lần chở Vũ Ngọc Giao ngồi trên sườn trước chiếc xe đạp bỏ mối kẹo, khi đổ dốc Cầu Kiệu xe đạp tự nhiên gảy làm đôi, mỗi thằng ôm một nửa cái xe, không biết làm sao bèn quăng luôn xuống sông Cầu Kiệu. Tôi lại nhớ lần cố gắng dùng văn hóa “cứu bồ” nhà hàng Điểm Hẹn Sài Gòn của sếp báo Tin Sáng kiêm cựu dân biểu Dương Văn Ba cách đây vài năm bằng một đêm thơ nhạc trong đêm Noel với ba người “Bùi Chí Vinh, Phan Vũ, Miên Đức Thắng”, nhưng mọi thứ đã muộn màng vì nhà hàng có quyết định đóng cửa. Gần đây nhất nhớ lần lên Đà Lạt cùng đạo diễn Nguyễn Chánh Tín làm phim ma NGÔI NHÀ BÍ ẨN được nhiếp ảnh gia MPK Phước Khùng coi bói rằng ngôi nhà hoang ở Trại Mát đúng là có ma thật… Tất cả những hồi ức ấy loang loáng như một giấc mơ, như một kiếp nạn mà tôi bắt buộc phải trải qua. Trải qua để trở về CÁI CHUỒNG NGỰA của mình, cái chuồng ngựa biểu trưng cho mái ấm gia đình mà tôi đã từng xuất khẩu thành thi chép cho anh Nam Dao trước khi anh đi Mỹ. Bài thơ tam sao thất bổn mà Nam Dao đăng trên mạng như một kỷ niệm ngày tôi và anh quen nhau những năm đầu 75: CÁI CHUỒNG NGỰA Tụi nó cưỡi lên lưng ta như cưỡi ngựa Khiến mông ta có đuôi và sau gáy mọc ra bờm Ta vừa hí vừa nặn mình nôn mửa Một đống lạ lùng nửa áo nửa cơm
Tụi nó còn đưa ra trước đầu ta một giỏ cỏ thơm Có mùi văn chương, có hương nghệ thuật Ta cắn răng nhai một cách cuống cuồng Đến khi ợ mới hay mồm tàn tật
Tụi nó định vỗ tay mừng ta tự sát Nhưng nước mắt của em đã đông lại thành chuồng Ta sẽ cố sải dù bốn chân cà nhắc Để nhớ rằng mình còn có một quê hương Có lần tôi tái ngộ Trần Tiến Dũng sau hơn 20 năm. 20 năm trước tôi cùng Hồ Lê Thuần xuống chợ Bình Tây thăm gian hàng bán đồ chơi của đôi vợ chồng sắp cưới Trần Tiến Dũng. Lần ấy Dũng chưa trở thành nhà thơ trường phái tự do, Dũng nhà quê trong sáng như một “người nông dân nổi dậy” gặp tôi liền xin bài thơ chép tay mang tựa CÂY DƯƠNG ỐM sáng tác khi lên vùng đất Siberi Duyên Hải. Tôi không ngờ sau chừng ấy năm Trần Tiến Dũng còn giữ bài thơ đó và đọc lên cho tôi cùng giáo sư toán nổi tiếng Cù An Hưng nghe tại quán cà phê Bích Câu. Khoảnh khắc thiêng liêng của chữ thật cảm động. Xin giới thiệu kỷ niệm đó ở đây: CÂY DƯƠNG ỐM Sẽ tìm được một cây dương ốm nhất Cởi áo ra ta đứng tựa trời trồng Tiếp tục cởi hết quần dài quần cụt Các em nhìn ta có giống cây không?
Sẽ đứng vậy bởi vì chiều lắm gió Chiều im hơi ta sẽ duỗi chân nằm Đàn ông nằm thô tục hơn thiếu nữ Các em nhìn ta giống bóng cây không?
Sẽ xuống biển nếu cây dương bật gốc Cây dương quyên sinh, ta phải tự trầm Kể từ đó sóng buồn như khóc Các em nhìn ta giống rễ cây không?
Sẽ không chết nữa nếu cây dương mập Nếu các em cũng từ khước áo quần Nếu các em đừng nhìn ta lén lút Oi biết biển còn nhớ đến cây không?
Thì ta cứ là cây dương ốm nhất Cho các em nhìn suốt bốn ngàn năm … Tháng vừa rồi gặp lại Hồ Thi Ca, con người muôn năm cũ, từ thời học đại học Sư Phạm sau Nguyễn Nhật Ánh một khóa. Hồ Thi Ca cùng lớp với các nhà văn nữ Lý Lan, Lưu Thị Lương. Gặp lại để mà nhớ thuở ban đầu tôi đang làm báo Tuổi Trẻ và Hồ Thi Ca cũng như nhiều văn nghệ sĩ khác đang là cộng tác viên trang văn nghệ do tôi cùng anh Hoàng Nghĩa phụ trách. Lúc đó họ Hồ chưa làm thơ mà được chú ý nhờ viết truyện ngắn, truyện nào cũng có duyên và đầy triển vọng được ký dưới tên thật Hồ Bửu Trân. Họ Hồ chính là một trong những cơ sở hậu cần của tôi thời ấy trong những lúc lang bạt. Tôi và Nguyễn Nhật Ánh thường xuống đường Hòa Hảo ghé tiệm thuốc đông y nhà của cha mẹ Hồ Thi Ca lục cơm nguội và ngủ lại. Ngày tôi sắp đi bộ đội cũng chính Hồ Thi Ca cùng cô Vinh vợ tương lai tổ chức đêm họp mặt trên sân thượng có nhiều người đưa tiễn, trong đó có Lý Lan, Lưu Thị Lương và các bạn yêu thơ khác. Lần gặp lại này Hồ Thi Ca chỉ hỏi tôi một câu “Sao không thấy ông làm thơ nữa mà chuyển sang viết kịch bản phim cho Nguyễn Chánh Tín, chẳng lẽ ông hết yêu thơ rồi sao?”. Trời ạ, làm sao có thể bỏ thơ được khi nó là nghiệp chướng của mình. Tôi chỉ biết đọc cho Hồ Thi Ca bài THƠ GIẶT ĐỒ để lý giải: THƠ GIẶT ĐỒ Mới đầu ta định làm thơ Sau cùng cảm thấy giặt đồ hay hơn Sống như Hàn Tín lòn trôn Hăm bốn chữ cái nuôi mồm không xong Ra đường sạch giữa đám đông Về nhà đóng kín thư phòng thấy dơ Tắm nhiều lưng vẫn trơ trơ Tốn bao nước rửa, bàn cờ vẫn xoay Chi bằng sẵn áo quần đây Ta dồn cái sạch bên ngoài vào trong Sá gì một chút xà phòng Mà đi phản bội tấm lòng chậu thau Nắng lên, phơi áo công hầu Đợi khô đóng kịch, biết đâu thành người Ngoài Hồ Thi Ca, đầu năm 2008 tôi tình cờ tái ngộ lại một người bạn cố tri từ hồi còn học trung học công lập Trần Lục. Đó là Phương A, người bạn cận thị hiền lành ít nói nhà ở Xóm Bến Tắm Ngựa cạnh Xóm Lách của tôi. Phương A giờ đã là một thầy giáo giỏi chuyên môn dạy trường Nguyễn Thị Minh Khai, chủ nhân một blog có uy tín. Tôi không ngờ Phương A theo dõi con đường văn nghiệp gập ghềnh của tôi rất kỹ. Anh còn lưu giữ bài thơ tôi chép tay tặng anh năm học đệ lục (tức lớp 7). Anh “photo” tờ báo Xuân Trần Lục có bài viết của tôi để tặng tôi với nỗi ngậm ngùi. Hai đứa ngồi uống cà phê nhắc những thằng bạn nhà giàu giỏi giang đang lập nghiệp bên Mỹ như Đặng Quốc Thứ, Hoàng Quốc Quý… một cách bồi hồi. Coi, quen nhau năm 12 tuổi rồi bẵng đi hơn 40 năm mới gặp lại thì cuộc đời hỏi sao chẳng như một cái nháy mắt. Phương A nháy mắt qua tròng kính cận hỏi tôi về gia đình, vợ con. Tôi chỉ biết đọc cho thằng bạn hành nghề “gõ đầu trẻ” bài thơ GIA HUẤN CA: GIA HUẤN CA Làm thơ tự do cuối năm Làm thơ tự do trước khi rời thành phố Thơ đắp mền cho phu nhân Thơ lau mặt cho quý tử Thơ có túi như con đại thử Nhét nhân gian bốn cõi vào lòng Thơ cuồng nộ như cơn lũ Móng vuốt thành trăm sông
Ái chà, ta làm thơ tự do Tự do chữ, tự do vần tuyệt đối Không câu nệ, chẳng từ chương Đời te tua như hủi Các triều đại thịnh suy vì nói dối Vua chúa sa cơ cũng giống ăn mày Thơ ta nghèn nghẹn bảy món chay Ca ngợi tự do trên thớt Tự do của con cá bằm sả ớt
Cùi không sợ lở, hê hê Khát vọng tương đương như tuyệt vọng Con trai dòng họ Kennedy lớn lên làm Tổng thống Chuyện ngày xưa Lọ Lem xấu số hóa nữ hoàng Ta đã từng nằm mơ đàm đạo với Quang Trung Lúc thức dậy đất cắm dùi không có Ai bảo sinh ra ở hóc bà tó Mà mơ mộng ngai vàng Thơ hay bá cháy con bọ chét Cũng bèo như cóc ở trong hang
Con trai ta chịu chơi hơn ta Nó có vương quốc riêng hết sảy Vũ trụ chứa một tỷ người máy Hành tinh gom một tỷ quân bài Nó chơi game bằng một tỷ ngón tay Ác thú, quái nhân đều nằm chỏng gọng Nó trả thù trong trật tự riêng Trật tự của một ngài Tổng thống
Đừng cười anh nghe em Anh vẫn là gia trưởng Đừng khi dễ ba nghe con Ba vẫn là kẻ di truyền sự sống Có làm cha thiên hạ vẫn muôn đời nói ngọng Áo mặc không qua khỏi đầu Sau này con lỡ làm thiên tử Nhớ đừng quên gia phả chăn trâu Trong cuộc đời đầy sóng gió của tôi có lẽ ông Nguyễn Thắng Vu là ân nhân cụ thể nhất. Nhiều người khác cũng có bụng “lân tài” giúp đỡ tôi nhưng kết quả thường huyền ảo hơn là hiện thực. Chính ông Nguyễn Thắng Vu, giám đốc NXB Kim Đồng mới là kẻ giao hẳn chiếc cần câu cho tôi câu miếng cơm. Nội vụ bắt đầu từ lúc Trần Đình Nam, cán bộ biên tập NXB Kim Đồng vào miền Nam tìm tôi đặt hàng truyện dài HẢI ĐẠI BÀNG. Cuốn truyện phát hành thuở bao cấp xa xưa gây tiếng vang nhất định. Từ thành công bước đầu ấy, năm 1995 giám đốc Nguyễn Thắng Vu tin tưởng giao cho tôi phóng tác 70 cuốn TỨ QUÁI TKKG của Stefan Wolf qua bản dịch mộc của Vũ Hương Giang. Bằng kinh nghiệm giang hồ và văn phong không giống ai, tôi đã đẩy mỗi cuốn TỨ QUÁI TKKG phát hành hằng tuần lên con số trung bình 6 vạn bản, một con số mà đến giờ này chưa bộ sách nào phá nổi. Bộ TỨ QUÁI TKKG đã giúp tôi xây được một ngôi nhà khang trang đúng nghĩa tại Sài Gòn. Chưa dừng ở đó, năm 1997 giám đốc Nguyễn Thắng Vu tiếp tục đặt hàng tôi viết bộ truyện thiếu niên hành hiệp phiêu lưu mạo hiểm diệt bạo trừ gian hoàn toàn đặc sản Việt Nam mang tên 5 SÀI GÒN gồm 40 cuốn. Bộ truyện 5 SÀI GÒN cũng tạo được sự chú ý của dư luận với con số phát hành cao điểm mỗi cuốn lên tới 2 vạn bản mỗi tuần. Phải nói đây là lần đầu tiên 2 bộ truyện dành cho tuổi mới lớn trên được bày bán khắp các sạp báo, lẫn lộn và cạnh tranh với báo chí trên toàn quốc. Xét về mặt năng lực, ngoài Huỳnh Bá Thành từng đưa tờ báo Công An TP từ trong bóng tối ra ánh sáng với con số phát hành kỷ lục gần một triệu số hằng tuần, thì người thứ hai không ai khác chính là Nguyễn Thắng Vu, vị giám đốc tài ba và lão luyện từng vực dậy NXB Kim Đồng cất cánh qua bộ truyện tranh ĐÔRÊMÔN, một bộ truyện nhập cảng từ Nhật Bản làm đảo lộn hết những cái nhìn mô phạm cứng ngắc trong kinh doanh của ngành xuất bản bao cấp nội địa. Ông Vu đối với gia đình tôi có những tình cảm đặc biệt. Ông quan tâm đến tôi ngay cả lúc đã về hưu, chuyển sang làm chủ tịch hội đồng cố vấn cho NXB Kim Đồng. Tôi yêu quý và tôn trọng tâm huyết của ông về sự tự do cho trẻ con, sự công bằng cho người lớn khi ông nói về một thế giới mơ ước. Năm 2007 khi báo chí loan tin tôi về với hãng Chánh Tín Film của đạo diễn Nguyễn Chánh Tín để chuyên viết những kịch bản phim nhựa 45 phút đề tài kinh dị, hành động… Ông Nguyễn Thắng Vu đã gọi điện cho tôi nói rằng: “Xin chúc mừng em chuyển sang bước ngoặt mới. Theo anh thì Bùi Chí Vinh có ba thời kỳ phất lớn trong sáng tác. Đó là thời kỳ làm thơ, thời kỳ viết truyện và bây giờ đến thời kỳ làm phim. Anh luôn tự hào và tin tưởng ở em”. Cuộc trò chuyện qua điện thoại rất dài và rất nhiều chuyện để nói giữa hai anh em ít khi gặp được nhau. Tôi không phản đối sự chúc mừng hồn nhiên của “lão ngoan đồng” Nguyễn Thắng Vu, tuy nhiên trên thực tế tôi làm gì có thời nào cho mình. Tôi sống bằng nổ lực tối đa để tự cứu mình, cứu người thân, và cứu đồng loại. Chữ “thời” chỉ xảy ra với những kẻ liên minh quyền lực và tiền bạc trong khi tôi chỉ là một người cầm bút “solo”. Sau lưng tôi chỉ có nhân dân thấp cổ bé miệng, tôi đã bị “đóng đinh” không ít lần trong đời vì chiến đấu cho số đông nhân dân bị quên lãng ấy. Năm nay 2008 tôi đã bước vào tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh”, người xưa nói số tuổi này nắm được mệnh trời. Tôi chẳng nắm gì cả, tôi ghê tởm bọn tham sân si và không thể đánh đu số mệnh giống chúng được. Tôi vẫn tiếp tục sống như một con người dù có lúc bị đẩy vào đường cùng như một con vật. Thậm chí tôi sẵn sàng đề tựa tập thơ NGỰA CŨNG BUỒN của thầy giáo Tiến sĩ dạy toán trường đại học Kinh Tế là Nguyễn Văn Nhân vì tôi cảm thấy hạnh phúc khi đọc một tập thơ có những bài thơ hay. Bài tựa mang tên LỜI TRI KỶ CHO NHÂN mà tôi phóng bút tại chỗ lúc ngồi với Phạm Hồng Danh, Nguyễn Văn Nhân trong một chiều mưa tầm tã. Xin trích bốn câu cuối cùng bài tựa mà tôi viết: Đệ nhìn huynh như nhìn… con ngựa Ngựa chứng nhiều khi cũng biết buồn Ta nhìn đệ như nhìn đốm lửa Cuối đường hầm leo lét mà thương Phạm Hồng Danh, Thạc sĩ toán kiêm thi sĩ đại học Kinh Tế cũng là một chiến hữu từ trên trời rớt xuống. Danh biết tôi từ hồi hắn đi bộ đội nằm bệnh xá quân y nghe một sĩ quan Trung đoàn 10 Rừng Sát nằm giường kế bên kể về giai thoại cuộc đời tôi trong đơn vị của anh ta. Mối hảo cảm phát sinh nên khi gặp nhau dễ dàng trở nên huynh đệ. Qua Phạm Hồng Danh, tôi có dịp cụng ly với vô số thầy giáo dạy toán nhưng mê thơ như điếu đổ, các hiền đệ như Tuấn guitar chơi đàn ngọt xớt và hát không biết mệt. Quan niệm của tôi về thơ và đời nhẹ tênh như câu trả lời phỏng vấn cho một nhà báo báo Tin Tức Cuối Tuần. Khi được hỏi “Nhà thơ thời chiến tranh bảo vệ tổ quốc, nhà thơ thời thị trường và nhà thơ thời hội nhập trong suy nghĩ của ông?” thì tôi đã trả lời như sau: “Nhà thơ thời kỳ nào cũng phải giữ khí tiết và liêm sĩ. Thể chế chính trị có thể thay đổi theo thời gian dâu bể nhưng tác phẩm và tài năng mãi mãi trường tồn. Tôi còn nhớ sự tích Lý Bạch bắt Cao Lực Sĩ cởi giày, sau đó làm thơ ca tụng nhan sắc Dương Quý Phi, chọc giận Đường Minh Hoàng rồi bỏ triều đình đi giang hồ lãng tử, cuối cùng ôm trăng mà chết. Sự tích đó thật đẹp. Hy vọng các nhà thơ chân tài lấy Lý Bạch làm tấm gương cho cuộc sống của mình”. Phát biểu trên thay cho lời khép lại GIAI THOẠI CỦA THI SĨ, PHẦN 4. Cái sự khép mang tính tiên tri trong một bài thơ mà tôi viết cách đây 10 năm, khi thế giới sắp bước vào năm 2000 với những lời sấm truyền về ngày tận thế. Bài thơ vượt qua giới hạn của mọi ràng buộc về quốc tịch, ngôn ngữ để nói lên tiếng cầu cứu của con người cô độc. Thiết nghĩ chép lại bài thơ DỰ BÁO NĂM 2000 ở đây để tạm kết thúc phần tự truyện này vẫn còn nguyên giá trị vượt thời gian: DỰ BÁO NĂM 2000 Năm ấy ta 46 tuổi Theo tử vi thì bụng phệ má bầu Biết làm tình sớm nên lưng đau Biết làm ăn muộn nên răng rụng Đừng võ đoán về sự gầy sự thủng Vì chưng mập ốm không do con người Vì chưng trái đất không do bầu trời Thời gian chia hai phần màu sắc Ban đêm có màu đen súc vật Ban ngày có màu vàng nhân sinh Đứa trẻ sinh ra đã chết ngay không tăng thêm điêu linh Thằng già hưởng thụ đã đời rồi nhăn răng không giảm phần khoái lạc Con người nhún vai kiếp này rồi xuôi vai kiếp khác Rồi vẫn mọc hai vai để gánh kiếp con người Ta chưa hề bố thí kiếm lời Nên Chúa Phật ban cho cái lỗ Ta không mua bán với thiên cổ Ta không đặt cọc với mai sau Làm thơ như nói tục Cục cứt không có đầu
Ta là một cục cứt năm 46 tuổi Thối hoăng từ lúc mới sinh Người ta cấy nhau trẻ con để được cường dương Ta bị ăn cắp thân thể ngay khi mới đẻ Những thằng người lớn vì dục tình với nàng hầu, vợ bé Đã lấy sự khỏe mạnh của ta gieo rắc trên giường Vì gầy ốm ta thuở nhỏ bất lương Vì bụng phệ ta lúc già thành Di Lặc Con người ăn thịt lẫn nhau rồi biến mất Cục cứt vẫn không có đầu Đẻ ra đau Ỉa ra khoái Có gì khôi hài hơn khi cục cứt biết nói Về sự thơm tho không tưởng của mình Rằng con người ta rất văn minh Rằng con người ta không phải là một cây lau cây sậy Rằng con người ta biết đái Như biết thờ cúng ông bà Tội nghiệp ông bà, trước khi ta được biết ta Ta chỉ là một con sâu trong cái hình thù cương cứng Cục cứt ơi đừng lúng túng Nhà ngươi cứ phải thối hoăng dù trốn ở nhà lầu Nhà ngươi nhão nhẹt trong cao lâu Lầy nhầy trong khách sạn Nhà ngươi đẻ ra phát minh rồi trầm trồ tự thán Coi chừng nguyên tử hủy diệt địa cầu Nhà ngươi quên rằng mình chẳng thể sống lâu Trong cái phần thân thể thối Bộ phận sinh dục của nhà ngươi lên tiếng nói Công bằng, cơm áo, tự do Hỡi những triết gia lừa dối Trước sau gì mày cũng thành con ma
Ha ha Ta là một con ma năm 46 tuổi Một con ma đói Vì ăn phải bã con người Nguyễn Công Trứ chỉ muốn làm cây thông trên đồi Vì ăn nhằm bỗng lộc Nguyễn Khuyến về già mù mắt Vì ngó phải công danh Nguyễn Du vang tiếng lầu xanh Vì dám nhận mình bất lực Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc Vì đẻ một lô con cháu chẳng ra gì Trần Tế Xương nhậu nhẹt li bì Vì sợ tỉnh ra là biết hết Cao Bá Quát đâm đầu chết Thiên tài kỳ cục vậy ta Rõ ràng con người là một con ma Lè lưỡi Thằng giàu có nếm thức ăn giỏi Lưỡi dài Thằng nghèo túng quanh năm sắn khoai Lưỡi ngắn Lưỡi càng cong càng ma vô cùng tận Ta có hồn ma có xác người 46 tuổi đời 2000 năm tuổi cứt Không gian lắm chiều nên khi nằm dưới đất Ta lúc nào cũng có thể bị văng ra Trái đất tự xoay để tạo ngày giờ Ta tự thối rửa để lòi định mệnh Thời gian giống như một con điếm Truyền sida trên khắp màu cờ Đừng tự hào vì quốc kỳ mà chế tạo robo Khi mọi thứ đều từ đất vụn Nổ tung trái đất đi, hỡi các nhà vua xuất chúng Các nút bấm tuyệt vời ở Nga, Mỹ, Nato Không có lý do gì mùi cứt 2000 năm nay làm thối mũi các nhà thơ
Lịch sử sẽ mới nguyên nếu được bới từ tro Các trái đất khác lại bắt đầu năm thứ nhất Lẽ dĩ nhiên là bắt đầu thúi hoắc!
THÁNG 11 – 2008 BÙI CHÍ VINH
Lên trang viet-studies ngày 30-1-09 |