Tại sao cần
có quan điểm là chỉ được dùng nội tệ
Vũ
Quang Việt
10 September
2018
Thông tư
19 (28/8/2018)
có người cho rằng chỉ là tiếp nối của quyết định của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam năm 2004 (SỐ
689/2004/QĐ-NHNN) cho
phép dùng đồng Nhân dân tệ trong thanh toán xuất nhập khẩu với TQ ở vùng
biên giới. Nhưng đọc kỹ thì thấy quyết định 2004 hạn chế hơn nhiều, chủ
yếu là nhằm tới mua bán tại vùng biên giới “theo quy định tại Hiệp định
về mua bán hàng hoá ở vùng biên giới”, còn thông tư năm 19 là xuất nhập
khẩu qua biên giới (tức là xuất nhập khẩu phục vụ toàn thị trường Việt
Nam). Thông tư 19 viết trong điều 1 ngoài buôn bán tại chợ biên giới còn
nói rõ về ”thanh toán trong hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch
vụ qua biên giới của thương nhân”, và thanh toán bằng cả chuyển khoản và
tiền mặt.
Thông tư 19 là dựa trên Hiệp định Thương mại Biên Giới Việt Trung 2016
cho phép “thương mại biên giới
được thực hiện
thông qua các cửa khẩu
biên giới đất liền và khu (điểm) chợ biên giới được hai Bên thỏa thuận
nhất trí mở tại bảy tỉnh
Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên
của Việt Nam
và 2 tỉnh/khu Vân Nam và Quảng Tây của Trung Quốc.”
Hiệp định này đã do hai bộ trưởng công thương Trần Tuấn Anh và Cao Hổ
Thành ký ngày 12/9/2016.
Hiệp định
2016
này hình như không được đem ra Quốc hội bàn thảo và thông qua và có vài
đặc điểm sau:
1. Hiệp định và
thông tư mở rộng diện giao dịch không chỉ với thương nhân và cư dân ở
địa phương mà với doanh nghiệp khắp nước, cũng như quyền của địa phương
“Thương
mại biên giới” trong Hiệp định này là chỉ hoạt động thương mại của các
doanh nghiệp hoặc thương nhân và cư dân biên giới được tham gia xuất
nhập khẩu hàng hóa tại khu vực biên giới hai nước theo quy định của pháp
luật mỗi nước.
Hiệp định ở Điều 13 còn đi quá đà tạo ra sự tùy tiện khi thực hiện
“...ủy
quyền cho cho chính quyền địa phương cấp tỉnh biên giới tương ứng của
mỗi Bên ký kết các thỏa thuận cụ thể có liên quan trong khuôn khổ Hiệp
định này.”
Hiệu định ở Điều 8 chấp nhận thanh toán bằng tiền mặt, khuyến khích
thanh toán qua ngân hàng chứ không bắt buộc.
“ Khuyến khích thanh toán thông qua ngân hàng thương mại hai Bên.”
2. Hiệp định mở rộng hành động giao dịch trong thanh toán của phía TQ
Nhưng quan trọng hơn nữa là thông tư 19 qua điều 11 cho phép mở rộng
thêm các hoạt động như sau:
·
Cho phép thương nhân TQ, và ngân hàng TQ có chi nhánh ở vùng biên giới
có nhiều tài khoản
·
Cho phép họ có quyền chi “VND chuyển Khoản để mua CNY hoặc ngoại tệ khác
tại chi nhánh ngân hàng biên giới để chuyển về nước”, tức là cho phép
doanh nhân TQ tham gia vào buôn bán ngoại tệ mạnh, tất nhiên kể cả đầu
cơ buôn tiền, ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối ở Việt Nam.
3. Hiệp định có thể tạo ảnh hưởng khó lường với kinh tế Việt Nam
Hiệp định mới cũng như Qui định 19 rõ ràng đã mở rộng về phạm vi thanh
toán và sử dụng tiền so với trước
đây, nhưng còn nhiều điều khác thì chỉ rõ với người soạn chúng và
người tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Điều này cần tìm thiểu thêm.
Tuy vậy, với quyền của phía TQ mua bán các loại ngoại tệ trên thị trường
VN, và với tình trạng thiếu hụt buôn bán hàng năm của VN với TQ khoảng
20 đến 30 tỷ US, tức là khoảng 6-9% lượng tiền tệ trong nước, TQ có thể
tạo ảnh hưởng mạnh đến thị trường Việt Nam. Hiện nay, để nhập khẩu,
thương nhân và doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu phải dùng ngoại tệ mạnh (dư
thừa trong buôn bán với Mỹ và các nước khác, cũng như kiều hối gửi về)
đổi ra nhân dân tệ để mua hàng từ TQ. Nhưng với qui định mới, các nhà
đầu cơ TQ nắm được lượng tiền VN tương đương với 20-30 tỷ USD có thể ảnh
hưởng khó lường đến thị trường FDI, chứng khoán, trái phiếu, và đất đai
và kể cả hối suất nếu họ bán tống tài sản, chuyển ra đồng ngoại tệ mạnh
để chuyển về nước.
Kịch bản trên không phải là kịch bản giả thuyết. Chính năm 1997, mấy tay
tài phiệt buôn tiền như George Soros, khi các nước như Thái Lan, Mã Lai,
Indonesia đang bị thiếu hụt cán cân thanh toán và hối suất so ra cao, đã
tập trung đánh đồng bản tệ, bằng cách bán tháo cổ phiếu, trái phiếu và
các tài sản khác rồi đổi ra đồng ngoại tệ (US, Yen) và rút chạy. Các nền
kinh tế trên gần như suy sụp, phải cầu viện IMF và chịu sự không chế của
họ vì thiếu ngoại tệ đáp ứng, để trả nợ nước ngoài. Mã Lai là nước duy
nhất cấm rút ngoại tệ mạnh chuyển ra nước ngoài trong 1 năm, và tránh
khỏi khủng hoảng trầm trọng.
Có người cho rằng nhiều nước khác cũng cho phép thanh toán bằng đồng thứ
hai, thứ ba như Việt Nam. Tất nhiên không thể chối bỏ là có nước nhỏ bé
và dựa vào hoạt động kinh tế Mỹ, như Panama coi đồng Mỹ là đồng chính
thức, hay vì không còn ai chấp nhận nội tệ do in nhiều quá để tiêu nên
không còn giá trị gì đã phải bắt buộc dùng đồng US là đồng chính thức;
đấy là tình trạng ở Zimbawee, nơi tôi đã từng tới làm việc tư vấn, đồng
tiền USD đã đuổi đồng nội tệ xấu mất giá ở mức phi mã ra khỏi thị
trường, hoàn toàn thay thế nó toàn bộ mọi thanh toán ở bất cứ nơi nào,
đến mức nhà nước phải trả lương bằng USD, dù trên danh nghĩa đồng hợp
pháp là nội tệ.
Như thế, muốn độc lập về tài chính thì phải thực hiện nguyên tắc đồng
tiền thanh toán duy nhất là đồng nội tệ. Với tình hình lạm phát rất cao
ở Việt Nam trước đây, đồng tiền Việt, đã bị USD và vàng gần như đuổi cổ
khỏi thị trường. Hiện nay, và trong tương lai, nếu nhà nước chi nhiêu
hơn thu, lạm phát cao thì đồng nhân dân tệ, nếu được phép lưu hành, cũng
có thể đuổi cổ đồng Việt Nam ra khỏi thị trường.
Lúc đó, cũng như Hy Lạp vừa qua do đã chấp nhận đồng Euro là đồng
chính thức, không thể điều chỉnh chính sách tiền tệ và điều chỉnh hối
suất để giảm thiếu hụt cán cân mậu dịch, sẽ chỉ còn nước giảm chi tiêu,
thải người, cắt lương hoặc xè tay xin viện trợ hoặc vay mượn của nước
nắm quyền quyết định chính sách tiền tệ.
Ở đây cũng xin giải thích thêm về tình hình ở Mỹ.
USD là đồng tiền thanh toán hợp
pháp (legal tender) được nhà nước bảo vệ giá trị.
a)
Đồng US là legal tender tức là đồng tiền chính thức mà chính phủ có
nhiệm vụ phải bảo vệ giá trị. Trước đây, đồng USD được bảo vệ bằng vàng.
NHNN các nước có thể chuyển USD thành vàng. Từ thời Nixon, bãi bỏ, và để
thị trường tự do quyết định, nhưng chính phủ Mỹ qua FED (NHTU) sẵn sàng
can thiệp để bảo vệ giá trị.
b)
Vì là legal tender, theo luật, mọi thanh toán như đóng thuế, đóng
phí mua bán với với chính phủ Mỹ và cơ quan chính phủ phải bằng đồng US.
c)
Federal Deposit Insurance Corporation (FDIC) chỉ bảo hiểm tiền gửi ở
ngân hàng nếu bằng đồng US, và không
bảo hiểm foreign currency deposit accounts. Chính vì thế chẳng ai dại có
tài khoản bằng ngoại tệ vì không được bảo hiểm. Tức là nếu ngân hàng
thất bại, đóng cửa, bạn sẽ mất sạch.
d)
Với người speculator về tiền tệ, và nếu muốn có tài khoản (accounts)
bằng tiền nước ngoài, thì bạn có thể ra nhà băng ở Mỹ có chi nhánh ở
nước ngoài, mở tài khoản account cho bạn, nhưng thật ra là thông qua tài
khoản của họ ở nước có đồng bạc bạn muốn như Yen Nhật hay đồng Yuan Tầu.
Bạn đưa tiền Mỹ, họ sẽ đổi ra tiền Yuan và bỏ vào đó, khi bạn rút ra, họ
không đưa tiền Yuan, nhưng dùng ở Mỹ phải đổi ra tiền US. Như đã nói tài
khoản ngoại tệ sẽ không có bảo hiểm của nhà nước Mỹ (theo luật FDIC) vì
nhà nước không có nhiệm vụ này.
e)
Mọi thanh toán với nước ngoài, với giá trị 10 ngàn US trở lên, phải báo
trong ngày cho ngân hàng trung ương và cơ quan an ninh Mỹ FBI, dù gửi
check, qua ngân hàng, qua bưu điện hay đem tiền qua hải quan. Bạn có thể
đem tiền hay gửi tiền vào Mỹ với lượng không hạn chế, nhưng phải báo
trước về người đem và người nhận. Mỹ không chỉ muốn kiểm soát lượng tiền
tệ mà còn muốn kiểm soát hành động rửa tiền.
f)
Mỹ rất rộng rãi và tự do nhưng nhiệm vụ của FED (Ngân hàng Trung ương)
là phải bảo vệ giá trị đồng tiền. Mỹ
cũng có dự trữ các đồng nước ngoài, nhưng quan trọng nhất là đồng USD
được thế giới coi là đồng dự trữ quan trọng nhất, và do đó chính nó là
đồng dự trữ của Mỹ. FED có thể in tiền để mua ngoại tệ đưa vào dự trữ,
kể cả in tiền nhằm tăng tín dụng tài trợ chi tiêu qua việc mua trái
phiếu nhà nước nhằm ảnh hưởng đến lãi suất và hối suất. Nhưng thường họ
chỉ làm thế trong trường hợp đặc biệt, như để cứu kinh tế như thời khủng
hoảng năm 2007-09, vì không muốn tạo lạm phát. Mỹ làm thế được vì các
nước sẵn sàng cầm đồng USD, tài trợ sức mua của Mỹ vì đồng USD là đồng
mạnh, có giá trị. Hiện nay, 63% dự trữ ngoại tệ của thế giới là bằng
đồng US, phần còn lại là đồng Euro (20%), đồng Yen (5%), chỉ có 1.2% là
đồng nhân dân tệ. FED và Bộ Tài chính Mỹ quyết định mua bán ngoại tệ,
đưa vào dự trữ và bán ra khi cần để điều hành giá trị đồng US. Mua hay
bán, bao nhiêu là dựa vào ủy ban hợp tác giữa FDE và Bộ Tài chính. nên
nhớ chỉ có tiền giữ ở trong Ngân hàng Trung ương mới có thể gọi là dự
trữ. Tiền nằm trong ngân hàng thương mại (dù quốc doanh hay không) không
được coi là dự trữ.
g)
So với đồng US, nhân dân tệ của TQ, dù đã được
IMF chập nhận là đồng tiền dự trữ mà các nước có thể dùng làm dự trữ, nó
vẫn chưa phải là đồng tiền tự do chuyển đổi. Và tất nhiên ở TQ họ không
cho phép mua bán bằng ngoại tệ (đây là hành động chợ đen có thể bị bắt).
Để bảo đảm giá trị và khả năng kiểm soát tiền tệ và tài chính,
TQ vẫn còn ở chế độ kiểm soát ngoại tệ.
TQ cấm dùng tiền nước ngoài trong thanh toán,
cấm có tài khoản bằng ngoại tệ, trừ ở Hồng Kông, Singapore vì đó
là nơi họ cho phép buôn bán đồng nhân dân tệ (tất nhiên lượng là do
chính phủ TQ kiểm soát).
Muốn đem tiền nước ngoài và NDT ra nước ngoài ở mức độ nhất định phải
xin phép.
TQ hiện nay có tới 3000 tỷ US dự trữ ngoại tệ, trong đó ít nhất là 1200
tỷ US dưới hình thức trái phiếu nhà nước Mỹ. Vì đồng nhân dân tệ chưa
được tin cậy, dù IMF quyết định coi nó là đồng dự trữ quốc tế.
Kết luận
Như tôi đã nói, nếu VN để sổng ngoại tệ tràn vào tay dân, hay thậm chí
nằm trong ngân hàng thương mại mà không kiểm soát được thì sẽ không kiểm
soát được tiền tệ và giá trị đồng bạc, và cũng không kiểm soát được lạm
phát. Tiền Việt lại còn cho phép tràn vào tay TQ và đưa ra nước ngoài
thì khó đoán được chúng làm gì, khi lượng nhiều, VN sẽ không kiểm soát
được. Vì vậy mới có chuyện đô la hóa hay vàng hóa, và sắp tới có thể
nhân dân tệ hóa.
Tôi rất nghi ngờ khả năng chính phủ VN có thể kiểm soát vì thông tư 19
đã mở rộng cho hoạt động xuất nhập khẩu, tất nhiên là của cả nước, qua
biên giới chứ không chỉ áp dụng cho trao đổi hàng ở chợ biên giới. Như
tôi đã nêu ngay doanh nghiệp biên giới đã có thể hiểu là doanh nghiệp ở
nơi khác nhưng có chi nhánh ở biên giới. Còn ngân hàng tất nhiên không
thể chỉ là ngân hàng biên giới, mà rõ ràng là nó chỉ là chi nhánh của
ngân hàng nơi khác. Vậy thử hỏi khi nhận được Yuan không lẽ nó chỉ giữ ở
chi nhánh biên giới?
Không thể kiểm soát được là đương nhiên vì chính hiện nay chính quyền
cũng đã không kiểm soát nổi thương mại tiểu ngạch ở biên giới rồi
(chuyển hàng lậu, không chứng từ,
không khai báo với hải quan và không đóng thuế). Đã không kiểm
soát được như thế, bây giờ với chính sách cho phép chính thức thì làm
sao bịt được các nguồn hàng từ trong nội địa và từ biên giới vào nội
địa. Như ta biết, tiền có thể mua được tất cả quan chức hiện nay.
Do đó mà tôi thấy cần có quan điểm rõ ràng, và quan điểm của tôi là cấm
trao đổi mua bán dùng tiền mặt nước ngoài. Trao đổi bằng tiền nội thì
cần trả phí chuyển đổi từ ngoại tệ ra nội tệ hoặc ngược lại, nhưng đó là
chuyện bình thường mà mọi nước chấp nhận.
|