NGƯỜI VIỆT
Việt Nam nợ Trung Quốc bao nhiêu tiền? Hiếu Chân Từ
một nước nhận viện trợ, Trung Quốc đã vượt qua Hoa Kỳ trở thành nước cho
vay và viện trợ lớn nhất thế giới. Việt Nam là một trong nhiều nước vay
vốn của Trung Quốc, nhưng ít ai biết được quy mô của món nợ, mục đích
vay vốn và cái giá chính trị phải trả cho món vay đó. Dữ
liệu về viện trợ và cho vay của Trung Quốc được Bắc Kinh cho là “bí mật
quốc gia” được giữ rất kỹ; ngay cả những hợp đồng cho vay giữa Trung
Quốc và các nước cũng có những điều khoản bảo mật, khiến cho việc phân
tích, đánh giá về hoạt động cho vay của Trung Quốc rất khó khăn. Mới
đây, Trung Tâm AidData của đại học College of William & Mary ở Virginia
hợp tác với các nhà nghiên cứu của đại học Harvard University và đại học
Heidelberg University ở Đức đã lần đầu tiên đưa ra một bức tranh toàn
cảnh về hoạt động cho vay của Trung Quốc và tác động của nó đến tình
hình thế giới. Báo
cáo của AidData cho thấy, cho đến năm 2008, viện trợ và cho vay của
Trung Quốc vẫn kém xa Hoa Kỳ, nhưng từ năm 2009 xu thế đó bị đảo ngược
và từ đó Trung Quốc cho vay nhiều hơn hẳn so với Hoa Kỳ; ví dụ năm 2009
Trung Quốc cho nước ngoài vay $70 tỷ, gấp đôi mức $35 tỷ của Hoa Kỳ. Dữ
liệu của AidData ghi nhận trong 18 năm (2000-2017), Trung Quốc đã viện
trợ hoặc cho vay thực hiện 13,427 dự án, trị giá $843 tỷ ở 165 quốc gia;
đa số các dự án này nằm trong sáng kiến Vành Đai và Con Đường (BRI) –
chiến lược trọng tâm của ông Tập Cận Bình, chủ tịch Trung Quốc.
Nhưng đáng chú ý là Trung Quốc và phương Tây phân phối tiền vay theo hai
cách hết sức khác nhau. Phần lớn (93%) viện trợ và cho vay của phương
Tây thực hiện đúng định nghĩa quốc tế về hỗ trợ phát triển chính thức
(official development assistance – ODA) nhằm phát triển kinh tế và phúc
lợi của nước đi vay, tức là các nước đang phát triển có thu nhập trung
bình và thấp (low and middle income countries – LMIC); khoảng 25% tổng
số tiền là viện trợ trực tiếp không hoàn lại (direct grant).
Trung Quốc rất hiếm khi viện trợ không hoàn lại, chỉ dành 21% cho các
khoản vay ODA, phần lớn là cho vay thương mại mà nước vay phải trả lại
với lãi suất cao, thuật ngữ tài chính gọi là OOF (Official Other Flows).
Khi cho nước khác vay, Trung Quốc không chỉ nhắm mở rộng ảnh hưởng chính
trị mà còn đặt mục tiêu thu lợi về kinh tế, chiếm những nguồn tài nguyên
và thực hiện chiến lược bá chủ trên toàn cầu. Là
một trong những quốc gia gần gũi Trung Quốc, Việt Nam đã vay bao nhiêu
tiền của nước láng giềng? Câu hỏi đó không dễ trả lời. Theo Tiến Sĩ Vũ
Quang Việt, cựu chuyên gia tài chính của Liên Hiệp Quốc, kể từ năm 2011,
Bộ Tài Chính Việt Nam chỉ công bố tổng số nợ nước ngoài và chấm dứt việc
công bố nợ từng nước. “Bản
tin nợ nước ngoài số 7 công bố năm 2011 cho thấy tổng số nợ của chính
phủ Việt Nam với Trung Quốc tính đến hết năm 2010 lên đến $552 triệu và
khoản nợ do chính phủ bảo lãnh là $1.12 tỷ. Như vậy tổng số nợ Trung
Quốc tính đến cuối năm 2010 mà chính phủ trách nhiệm là $1.64 tỷ,” ông
Việt viết trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn năm 2018.
Nhưng theo dữ liệu công bố ngày 29 Tháng Chín vừa qua của Trung Tâm
AidData, Việt Nam đã vay của Trung Quốc $18.37 tỷ trong thời gian
2000-2017, trong số này có $16.35 tỷ là vay thương mại và chỉ có $1.37
tỷ là vốn ODA. Việt Nam xếp thứ tám trong các nước vay nhiều vốn Trung
Quốc nhất. Khối nợ này cao hơn nhiều lần so với dữ liệu công bố của
chính quyền và chiếm khoảng 5.8% GDP của Việt Nam. Ai
là người vay nợ của Trung Quốc? Về đại thể, chính phủ Việt Nam thường
vay nợ để bù vào khoản thâm hụt ngân sách do thường xuyên chi nhiều hơn
thu; chính phủ cũng đứng ra “bảo lãnh” để các tập đoàn, công ty quốc
doanh của nhà nước vay tiền thực hiện các dự án xây dựng hạ tầng hoặc
nhà máy xí nghiệp theo các kế hoạch kinh tế mà chính phủ Hà Nội đề ra.
Tập đoàn Điện Lực Việt Nam (EVN) thường được nói tới như là con nợ lớn
nhất và hầu hết các dự án xây dựng nhà máy điện của tập đoàn này đều sử
dụng vốn vay của Trung Quốc. Các tập đoàn Hóa Chất, Thép, Đường Sắt… và
hàng chục tập đoàn công ty khác cũng dựa vào nguồn vốn vay của Trung
Quốc. Các “quả đấm thép” – nói theo từ ngữ của cựu Thủ Tướng Nguyễn Tấn
Dũng, hầu như đều làm ăn thua lỗ, đốt tiền thuế của dân như đốt vàng mã
nhưng vẫn được chính phủ ưu ái vì cho rằng, đó là thành phần kinh tế
“chủ đạo” của một quốc gia xã hội chủ nghĩa. Về
phía người cho vay, chính phủ Trung Quốc không đứng ra trực tiếp cho vay
mà thông qua các ngân hàng của nhà nước Bắc Kinh, chủ yếu là ngân hàng
Xuất Nhập Khẩu Trung Quốc (China Eximbank) ngân hàng Phát Triển Trung
Quốc (China Development Bank) hoặc các tập đoàn tư nhân như Huawei
Technologies. Đa số các món nợ do vậy không hiển thị trong sổ sách kế
toán chính thức của chính phủ Bắc Kinh. Dữ liệu AidData ghi nhận có đến
$385 tỷ được cho vay dưới hình thức này và khi xảy ra tranh tụng thì
chính phủ Trung Quốc không dính dáng tới. AidData gọi số nợ $385 tỷ này
là “nợ giấu” (hidden debt) và chứa nhiều nguy cơ cho các nước vay nợ.
AidData cũng cho biết trong số nợ thương mại $16.35 tỷ của Việt Nam có
một nửa là hidden debt. Vay
nợ của Trung Quốc không hề rẻ. Lãi suất các khoản mà Trung Quốc cho nước
khác vay thường ngang với lãi suất thị trường, khoảng 3%/năm, cộng thêm
0.5% phí quản lý, 0.5% phí cam kết, tổng số khoảng 4.0%. Mức tiền lời
này cao hơn rất nhiều lần so với lãi suất 0% của Đan Mạch, 0.2% của Tây
Ban Nha, 0.6-1.2% của Nhật, 1.04% của Pháp, 0.75% của Đức, 1.75% của Ấn
Độ và 0.9% của các tổ chức tài chính quốc tế, theo dữ liệu của tiến sĩ
Việt.
Trung Quốc buộc các nước vay nợ phải thế chấp (cầm cố) bằng tài nguyên
khoáng sản, các cơ sở hạ tầng thiết yếu, đất đai và tài khoản ngoại tệ
quốc gia để khi không trả được vốn và lãi, Trung Quốc sẽ chiếm các tài
sản thế chấp đó để trừ nợ. Trường hợp của Lào phải giao cho một công ty
Trung Quốc quyền điều hành mạng lưới điện quốc gia sau khi vay tiền
Trung Quốc xây dựng tuyến đường sắt Yumo nối Lào với tỉnh Vân Nam Trung
Quốc, hay trường hợp của Sri Lanka phải giao cho Trung Quốc cảng
Hambantota sau khi vay tiền để mở rộng hải cảng này là những ví dụ về
“bẫy nợ” của Trung Quốc. Và
như vừa nói trên, phần lớn tiền Việt Nam vay của Trung Quốc là tín dụng
thương mại, nước đi vay phải chịu nhiều điều kiện ràng buộc rất bất lợi,
chẳng hạn như phải sử dụng nhà thầu và công nhân Trung Quốc, phải mua
thiết bị và công nghệ Trung Quốc – gồm cả những thiết bị và công nghệ mà
Trung Quốc thải ra, như trường hợp các nhà máy nhiệt điện đốt than đang
được xây dựng ồ ạt ở các tỉnh ven biển Việt Nam. Việc cho phép hàng chục
ngàn người lao động Trung Quốc sang Việt Nam “thực hiện dự án,” phần
đông đều không quay về nước mà định cư lấy vợ sinh con ở Việt Nam đã và
đang đặt ra những nguy cơ tiềm ẩn về an ninh quốc gia và gây phẫn nộ
trong dân chúng địa phương. Các
nhà thầu Trung Quốc có nhiều tai tiếng về làm chậm tiến độ, nâng giá dự
án lên gấp đôi gấp ba, thiếu minh bạch và phẩm chất công trình kém cỏi.
Công trình đường sắt Cát Linh-Hà Đông ở Hà Nội bị đội vốn từ $419 triệu
lên $866 triệu và sau 13 năm vẫn chưa hoàn thành đoạn đường chỉ dài 13
cây số là một ví dụ tiêu biểu cho các dự án vay vốn Trung Quốc khiến dư
luận hết sức bất bình. Theo
AidData, Việt Nam là nước chậm trễ thứ năm trong việc thực hiện các dự
án kinh tế sử dụng vốn vay của Trung Quốc, bình quân mỗi dự án bị chậm
trễ 1,783 ngày (4.9 năm); Việt Nam cũng xếp thứ tư trong 10 quốc gia có
các dự án đầy “tai tiếng, tham nhũng.” Theo
Tiến Sĩ Vũ Quang Việt, từ lâu các cán bộ tài chính Việt Nam đã nhìn thấy
thực tế đó và “định hướng trong thời gian tới đối với việc vay nguồn tín
dụng ưu đãi của Trung Quốc cần được xem xét, cân nhắc.” Nhưng chính
quyền Việt Nam chẳng những không xem xét cân nhắc mà càng ngày càng lún
sâu vào cái bẫy nợ mà Bắc Kinh đã giăng ra. Tại sao lại như vậy? Giáo
Sư Zachary Abuza của đại học National War College ở Washington, DC, nhận
xét, Việt Nam hy vọng gắn bó mật thiết hơn với Trung Quốc sẽ giúp hạn
chế hành vi đe dọa, bắt nạt và xâm lấn của Bắc Kinh. Có thể như vậy,
nhưng có một lý do khác không kém phần quan trọng là các món vay của
Trung Quốc không có ràng buộc về cải cách quản trị, về dân chủ, nhân
quyền, về tính minh bạch chống tham nhũng như điều kiện vay vốn từ các
nước phương Tây. Nói cách khác, Trung Quốc rất biết lấy lòng các nhà
lãnh đạo độc tài. Ngoài ra, các doanh nhân Trung Quốc rất giỏi đút lót,
đưa hối lộ cho các quan chức cầm quyền để thực hiện ý đồ; còn các quan
chức Việt Nam thì chẳng quan tâm tới chất lượng dự án hay bẫy nợ mà chỉ
cần tiền tham nhũng để vinh thân phì gia trước khi hạ cánh an toàn.”
Trung tâm AidData cảnh báo nguồn vốn và cho vay của Trung Quốc đang lôi
kéo các nước nghèo lảng tránh các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân
Hàng Thế Giới (WB) hay Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), củng cố các chế độ độc
tài, tham nhũng và xói mòn công cuộc dân chủ hóa. Ở Việt Nam, món nợ
ngày càng lớn với Trung Quốc còn đặt ra nhiều rủi ro chính trị và tác
động tới chính sách của Việt Nam trước những hành vi đe dọa, cưỡng bức
và xâm lấn của nước láng giềng phương Bắc, nhất là trong vấn đề Biển
Đông. Sợi
xích ràng buộc chủ nợ-con nợ cùng với sự tương đồng về thể chế chính trị
độc tài đảng trị sẽ khiến Việt Nam khó mà thoát ra khỏi sự khống chế của
Trung Quốc. |