RFA Blog
4/17, 4/19. 4/25/2017
Nguyễn Thị Từ Huy (NTTH):
Thưa
ông, từ
khi còn
rất nhỏ,
tôi đã
có dịp
nghe đến
cuốn
« Đêm
giữa ban
ngày »
của ông,
được
nhắc tới
trong
các câu
chuyện
của ba
tôi và
bạn bè
ông ấy.
Giờ đây,
thật may
mắn cho
tôi có
dịp được
trò
chuyện
cùng
ông. Hy
vọng,
trong tư
cách
nhân
chứng,
ông sẽ
giúp mọi
người
nhìn
thấy một
số mặt
khuất
trong
lịch sử
của
chúng
ta, cái
lịch sử
vốn còn
rất
nhiều
điều
chưa
được rõ
ràng.
Câu hỏi
đầu tiên
của tôi
liên
quan đến
vai trò
của Hồ
Chí Minh
trong
cấu trúc
quyền
lực của
chính
quyền
cộng sản
Việt
Nam.
Nhiều sử
gia quốc
tế chứng
minh
rằng
khoảng
từ những
năm 1960
Hồ Chí
Minh
không
còn có
thực
quyền
nữa.
Quyền
lực
chuyển
vào tay
bộ ba Lê
Duẩn, Lê
Đức Thọ
và
Nguyễn
Chí
Thanh.
Ông có
thể nói
gì về
điều
này ?
Vũ Thư
Hiên: Trước
hết, để
mở đầu
câu
chuyện,
tôi muốn
bạn
ngoái
nhìn bối
cảnh
cuộc đấu
tranh
giải
phóng
dân tộc
vào năm
những
năm
1938-1939,
khi Mặt
trận
Bình dân
Pháp
(liên
minh các
lực
lượng
cánh tả
gồm
Đảng Xã
hội,
Đảng
Cộng sản,
SFIO,
Chi hội
Pháp của
Công
nhân Lao
động
Quốc tế)
bị đổ.
Chính
quyền
thuộc
địa thừa
dịp liền
mở một
cuộc
tổng
khủng bố
tràn lan
– tất cả
những
người có
liên
quan với
phong
trào dân
chủ Đông
Dương,
có xu
hướng
chống
chế độ
thuộc
địa –
các đảng
viên
cộng
sản,
quốc dân
đảng, kể
cả những
người
thuộc
diện
tình
nghi đều
bị bắt.
Lúc bấy
giờ hai
ông
Trường
Chinh và
Hoàng
Quốc
Việt
phải
trốn
gấp,
người
đưa hai
ông đi
trốn là
cha tôi,
Vũ Đình
Huỳnh.
Ông
Trường
Chinh
được cha
tôi gửi
gắm ở
nhà ông
Trần Văn
Vần ở
Phúc
Yên. Từ
Phúc Yên
quay về
Hà Nội,
cha tôi
bị Pháp
bắt ở ga
Hàng Cỏ,
đưa vào
Hoả Lò.
Người
duy nhất
biết
Trường
Chinh và
Hoàng
Quốc
Việt ở
đâu bị
đưa đi
an trí ở
nhà tù
Sơn La.
Mất liên
lạc,
Trường
Chinh ở
Phúc Yên
cho đến
hết năm
1940.
Nói
thêm:
ông Trần
Văn Vần
không
phải
đảng
viên
cộng
sản,
nhưng đã
bảo vệ
ông
Trường
Chinh
rất chu
đáo.
Vì không
tìm thấy
quyền Bí
thư
Trường
Chinh
đâu, nên
một số
Trung
ương uỷ
viên và
xứ uỷ
Bắc Kỳ
đã triệu
tập một
cuộc họp
Trung
Ương bất
thường
và mở
rộng tại
Bắc
Ninh,
người
được bầu
làm tổng
bí thư
lâm thời
là bí
thư xứ
ủy Bắc
Kỳ, Đào
Duy Kỳ
(tôi
nghe ông
Đào Duy
Kỳ kể,
không
nhớ thời
gian).
Sự kiện
này tôi
không
thấy
được ghi
trong
chính sử
của ĐCS.
Đào Duy
Kỳ trả
lại cho
Trường
Chinh vị
trí này
khi
Trường
Chinh ra
khỏi nơi
ẩn nấp.
Trong
mắt lớp
người
cách
mạng thì
việc núp
quá kín
trong
một thời
gian dài
chứng tỏ
Trường
Chinh
hèn và
nhát.
Trong
giai
đoạn đó
người ta
trọng
những
người
cách
mạng
trung
thành,
dũng
cảm, còn
giỏi hay
không
giỏi, là
cái
không ai
quan
tâm.
Năm 1941
Trường
Chinh,
cùng một
số đồng
chí đi
qua biên
giới đón
Nguyễn
Ái Quốc.
Trong
bối cảnh
ấy, khi
gặp
Nguyễn
Ái Quốc,
Trường
Chinh đã
kêu to
lên
rằng :
“Lãnh tụ
tối cao
đây
rồi!”
Tôi lưu
ý bạn
câu nói
này, nó
được ghi
trong
những
hồi ký.
Nó đáng
được chú
ý, vì từ
trước
chưa ai
gọi
Nguyễn
Ái Quốc
là lãnh
tụ tối
cao, cho
dù ông
nổi
tiếng
với tư
cách một
nhà cách
mạng ở
ngoại
quốc.
Tôi nhớ,
cũng
trong
các hồi
tưởng về
cuộc gặp
gỡ này,
ông Hồ
Chí Minh
đã ôm
Trường
Chinh mà
khen
ngợi:
“Đồng
chí này
là một
người
học trò
ưu tú
của
Mác”. Sự
xác nhận
này là
rất tốt,
và rất
cần
thiết,
cho
Trường
Chinh
khi ấy.
Chuyện
quyền
lực về
sau này
có liên
quan tới
sự kiện
tôi vừa
nhắc
tới. Nó
giúp cho
việc lý
giải dài
hơn, đủ
hơn, về
quyền
lực của
ông Hồ
Chí Minh
trong
câu hỏi.
Các sử
gia quốc
tế khi
nói về
quyền
lực
trong
tay ai
cũng chỉ
căn cứ
vào
thống kê
những
lần xuất
hiện của
những
nhân vật
cầm
quyền
trước
công
chúng và
trên mặt
báo để
phỏng
đoán chứ
không
thể có
bằng
chứng
văn bản
học.
Cũng xin
nói
trước
rằng tôi
cũng thế
thôi,
tôi chỉ
có thể
nói về
những gì
tôi tôi
thấy,
tôi nhớ
được,
cộng với
những
nhận
định mà
tôi cho
là có
lý. Ý
kiến của
tôi nằm
bên
ngoài sử
học, nó
không có
gì hơn
một tham
khảo,
hoặc một
gợi ý để
các sử
gia tìm
thêm
những
bằng
chứng
khả tín.
NTTH:
Theo
những gì
ông biết
thì Hồ
Chí Minh
như thế
nào vào
những
ngày
Tháng
Tám năm
1945?
Vũ Thư
Hiên:
Khi ấy
tôi là
một đứa
trẻ.
Nhưng là
một đứa
trẻ
trong
một gia
đình
cách
mạng,
được gặp
nhiều
người về
sau trở
thành
những
nhân vật
lịch sử,
được
nghe
nhiều
chuyện
người
lớn nói
với
nhau.
Theo ông
Nguyễn
Lương
Bằng
(sau là
phó chủ
tịch
nước)
thì ông
Hồ Chí
Minh
không
nắm rõ
tình
hình
trong
nước lắm
đâu. Tại
hội nghị
Tân Trào
năm
1945,
ông Bằng
dẫn cha
tôi gặp
ông Hồ
Chí Minh
báo cáo
với ông
Hồ về
phong
trào
cách
mạng ở
các địa
phương,
về những
nhân vật
mà ông
Hồ muốn
biết.
Dưới vỏ
bọc
người
chào
hàng cho
các hãng
buôn,
cha tôi
thường
xuyên
vào Nam
ra Bắc
để liên
lạc,
chắp nối
giữa các
chi bộ
đảng với
nhau và
với
nhiều
người có
tư tưởng
chống
Pháp, kể
cả những
tổ chức
cách
mạng
không
cộng
sản. Cha
tôi kể:
trong
cuộc trò
chuyện
ấy ông
Hồ Chí
Minh tỏ
ra không
nhận
được
những
thông
tin
chính
xác,
thậm chí
ông còn
hỏi cha
tôi: ông
Huỳnh
Thúc
Kháng
hình như
đã “đầu
Tây”
(đầu
hàng),
phải
không?
Cha tôi
nói ông
vừa gặp
ông
Huỳnh
Thúc
Kháng
mấy
tháng
trước,
và cho
ông biết
đó là
tin thất
thiệt -
Huỳnh
Thúc
Kháng là
người
rất kiên
cường.
Kết quả
cuộc gặp
gỡ này
là trong
một cuộc
họp
trung
ương
đảng vào
ngày 27
hay 28
tháng 8
năm
1945, ở
phố Hàng
Ngang,
ông
Nguyễn
Lương
Bằng đã
đưa ý
kiến cha
tôi bỏ
công tác
quân sự
(theo
quyết
nghị ở
Tân Trào
thì Võ
Nguyên
Giáp và
Vũ Đình
Huỳnh
phụ
trách
quân
sự), để
làm bí
thư cho
ông Hồ.
Ông ấy
rất cần
một
người
như thế
ở bên
cạnh.
Nhân
tiện
cũng nói
để bạn
biết
thêm
rằng vào
thời
điểm
trước
Cách
mạng
tháng
Tám, lực
lượng
cộng sản
không có
bao
nhiêu
đâu.
Theo cha
tôi thì
chỉ có
chừng
dăm bảy
trăm
đảng
viên
thực sự
tích
cực,
hoạt
động có
hiệu
quả.
Thành
công của
cách
mạng
tháng 8
là nhờ
lòng yêu
nước của
nhân dân
và thời
cơ thuận
lợi -
Nhật đầu
hàng và
chiến
tranh
thế giới
thứ hai
kết thúc
tạo ra
khoảng
trống
quyền
lực để
đảng
cộng sản
phất cờ
khởi
nghĩa.
NTTH:
Như vậy,
ông Hồ
Chí Minh
có vai
trò
quyết
định
trong
những
ngày đầu
của
chính
quyền
cách
mạng,
chứ
không
phải
Trường
Chinh?
Vũ Thư
Hiên: Theo
những
đảng
viên mà
tuổi
cách
mạng
nhiều
hơn tuổi
đảng
(những
người
hoạt
động
trong
phong
trào
giải
phóng
dân tộc
từ khi
đảng
chưa ra
đời) bên
cạnh một
Hồ Chí
Minh –
Nguyễn
Ái Quốc
được nói
đến như
một nhà
ái quốc
vô
song,
cứu tinh
của dân
tộc, thì
vai trò
của
Trường
Chinh
khi ấy
rất mờ
nhạt.
Ấy là
chưa kể
cái lỗi
đi trốn
quá lâu
bỏ bê
việc
đảng của
ông ta
chưa
phai
nhạt.
Chính vì
lẽ đó,
sau khi
lấy được
chính
quyền,
vai trò
của ông
Hồ Chí
Minh là
vai trò
lớn
nhất.
Thời
gian
cuối năm
1945 và
suốt năm
1946, Hồ
Chí Minh
hiển
nhiên là
ngôi sao
sáng
chói
trên bầu
trời
chính
trị Việt
Nam. Ông
là người
quyết
định mọi
việc lớn
nhỏ - từ
việc đối
phó với
các
tướng
lĩnh
Trung
Hoa Dân
Quốc,
đàm phán
với các
đại diện
Pháp,
cho tới
việc lo
dự trữ
muối cho
cuộc
kháng
chiến mà
ông biết
trước sẽ
lâu dài…
Tôi hay
ra vào
Chủ tịch
Phủ để
mang
thức ăn
bổ dưỡng
mẹ tôi
làm cho
ông Hồ
Chí
Minh,
chạy
việc vặt
khi ông
sai bảo,
tôi thấy
ông làm
việc
không
lúc nào
ngơi
nghỉ.
Từ Việt
Bắc về
Hà Nội,
Hồ Chí
Minh gầy
yếu, sức
khoẻ rất
kém, ông
còn bị
lao phổi
nữa. Cha
tôi lo
lắng cho
sức khoẻ
của ông,
mới nhờ
người
bạn thân
là bác
sĩ Trần
Duy Hưng
đến Bắc
bộ phủ
lo chữa
bệnh cho
ông Hồ.
Tình
thân của
ông Hồ
với ông
Trần Duy
Hưng bắt
đầu từ
đấy. Mặc
dầu ông
Trần Duy
Hưng
không
phải
đảng
viên
cộng
sản,
nhưng
ông Hồ
vẫn bảo
cha tôi:
anh
Huỳnh
vận động
anh Hưng
làm chủ
tịch Hà
Nội đi.
Là người
xa cách
chính
trị,
nhưng
ông Trần
Duy Hưng
không từ
chối
việc
nước,
ông nhận
lời và
làm chủ
tịch Hà
Nội từ
ngày ấy
cho đến
khi về
hưu. Mọi
chuyện
thời bấy
giờ rất
đơn giản
thế đấy.
Ông Hồ
bổ nhiệm
nhiều
người
khác vào
chính
phủ cũng
không
xét nét
lý lịch,
miễn là
người
không từ
nan việc
nước là
ông mời.
Hồ Chí
Minh rất
hiểu dân
chúng
chẳng
biết
Trường
Chinh,
Hoàng
Quốc
Việt, Võ
Nguyên
Giáp hay
Phạm Văn
Đồng là
ai,
nhưng
tiếng
tăm của
những
nhân sĩ
Bắc Hà
thì dân
biết.
Ông thấy
cần phải
mời các
nhân sĩ
tham gia
chính
phủ là
ông mời,
không
cần hỏi
ý kiến
ai, thậm
chí cũng
chẳng
đòi hỏi
họ phải
có lập
trường
chống
Pháp. Có
sự tham
gia của
các vị
ấy thì
chính
phủ cách
mạng mới
có bộ
mặt
chính
phủ của
dân tộc,
vậy
thôi.
Các vị
vốn là
những
người có
chuyên
môn,
không
biết
việc
hành
chính,
khi nhận
lời làm
việc với
những
cương vị
lớn thì
lúng
túng
lắm,
thôi thì
cứ theo
cung
cách của
chính
quyền
thuộc
địa và
chính
quyền
Nam
triều cũ
mà bắt
chước,
lồng vào
đấy một
nội dung
cách
mạng là
xong. Cứ
xem
những
văn bản
thời bấy
giờ thì
có thể
hình
dung ra
cái sự
lúng
túng ấy
nó thế
nào. Bây
giờ
người ta
tô vẽ
cho nó
như là
một cái
gì chính
thống
lắm,
nhưng
thật sự
không
phải như
vậy. Mà
tô vẽ
thế là
dại.
Chính
cái lúng
túng ấy
là nét
đẹp của
chính
quyền
cách
mạng.
Về
chuyện
bổ nhiệm
công tác
theo
cách đơn
giản như
thế tôi
xin kể
một thí
dụ: khi
Trung
ương
Đảng bàn
về việc
phân
công cho
ai làm
việc
công an
thì mọi
người
đều ngớ
ra –
chẳng có
ai biết
việc ấy
làm thế
nào, tổ
chức nó
ra sao.
Rốt
cuộc,
ông Hồ
cử ông
Lê Giản
làm Tổng
Giám đốc
Nha công
an. Ông
Hồ cho
rằng chỉ
có ông
Lê Giản
sau khi
được Mỹ
giải
phóng từ
Madagascar,
đã được
Mỹ đưa
đi huấn
luyện ở
New
Delhi
(Ấn Độ),
xem ra
mới là
người
còn biết
tí chút
về ngành
này.
Thậm chí
trong sở
Liêm
Phóng Hà
Nội (tên
gọi của
Sở CA Hà
Nội hồi
ấy) còn
có một
cán bộ
là nhà
văn chưa
từng làm
công an
bao giờ.
Người ta
cho rằng
ông Phạm
Cao Củng
đã là
tác giả
các tiểu
thuyết
trinh
thám:
“Lê
Phong
phóng
viên”,
“Đảng
bàn tay
ma”...
thì ắt
phải
biết
nghề
công an
nó thế
nào.
NTTH:
Như vậy,
ông Hồ
Chí Minh
là người
toàn
quyền
quyết
định các
vấn đề
nhân sự
trong
giai
đoạn
cuối
1945 và
1946?
Vũ Thư
Hiên: Tôi nghĩ
vậy. Và
những
người
làm việc
với ông
Hồ Chí
Minh
cũng
không
nghĩ
khác.
Vào thời
kỳ đó
mọi công
việc của
chính
phủ đều
diễn ra
tại Bắc
bộ phủ
(phủ
Thống sứ
thời
thuộc
Pháp).
Trong
những
hồi ký
về hai
năm đầu
của
chính
phủ cũng
không
thấy ai
nói
khác.
NTTH:
Xin ông
nói về
chủ
trương
cải cách
ruộng
đất,
theo
hiểu
biết của
ông?
Vũ Thư Hiên: Khi chủ trương cải cách ruộng đất được đặt ra, ông Hồ có nói với cha tôi: “Chuyện này tôi nghĩ mình chẳng cần phải làm ngay bây giờ, để kháng chiến xong mình làm cũng không muộn. ”Ông Hồ không muốn tiến hành cải cách ruộng đất ngay lập tức, đó là sự thật. Điều cha tôi kể lại cho tôi nghe cũng không phải bịa đặt. Nhưng rồi sau, như ta biết, chính ông Hồ, với tư cách chủ tịch nước, đã ký sắc lệnh cải cách ruộng đất, năm 1953. Theo lời những cán bộ cách mạng lão thành, mà tôi thấy là có lý, thì Trường Chinh mới là người muốn tiến hành cải cách ruộng đất ngay lập tức. Chủ trương này phù hợp với lời dạy của Mao Trạch Đông (cách mạng vô sản phải tiến hành song song hai nhiệm vụ phản phong và phản đế, lấy đấu tranh giai cấp làm động lực). Người ta đã vội vã tiến hành cải cách ruộng đất dưới chiêu bài ấy, không nhằm mục tiêu cải cách ruộng đất thực sự đâu. Nó mang mục đích chính trị. Có thể lý giải sự việc như thế nào? Để cải cách ruộng đất phải có những cuộc điều tra kỹ càng về tình hình ruộng đất, nước nào cũng vậy. Nhưng đã không có một cuộc điều tra nào như thế, trừ sự sử dụng vài con số thống kê do người Pháp làm trong thời thuộc Pháp. Ý đồ được ẩn giấu là: gạt ra ngoài lớp người đã tham gia từ đầu việc cướp chính quyền năm 1945 – những người không coi trọng tôn ti trật tự trên dưới, mà coi mọi người tham gia cách mạng đều bình đẳng. Mà, theo Trường Chinh, tôn ti trật tự là cái rất cần cho cách mạng, để thực hiện những mục tiêu của cách mạng.
NTTH: Vậy có thể hiểu: người chủ trương cải cách ruộng đất ngay lập tức là Trường Chinh?
Vũ Thư Hiên: Cuộc cải cách ruộng đất có mặt nổi và mặt chìm của nó. Từ năm 1949, khi biên giới Trung-Việt đã thông và nhiều đoàn cố vấn quân sự của Trung Quốc sang Việt Nam thì tình hình đổi khác hoàn toàn. Mọi sự được rập theo khuôn mẫu Trung Quốc (Mao), từ việc nhỏ đến việc lớn. Các bạn khó hình dung cảnh này: khi một viên tướng Tàu cần dùng ngựa thì một người lính Tàu lập tức chạy đến để viên tướng nọ dẫm lên lưng mình mà lên yên. Chưa hết, tướng Tàu đi đâu cũng có một toán lính phục dịch: lính bảo vệ, lính vác đệm, chăn, màn, gối cho tướng ngủ, lính cấp dưỡng lo cơm nước, lính giám mã chăm lo ngựa. Thế nhưng ban lãnh đạo đảng cho thế là phải, thế mới là tôn ti trật tự cách mạng. Ảnh hưởng Tàu vào miền Bắc Việt Nam lúc đó mạnh lắm. Ở bên Tàu có chỉnh đốn tam phong (văn phong, tác phong, đảng phong) thì ở ta có chỉnh huấn, chỉnh quân. Mọi tài liệu huấn luyện để dạy dỗ chúng tôi đều là sách dịch từ các tác phẩm của các lãnh tụ Tàu: Mao Trạch Đông , Lưu Thiếu kỳ, Ngãi Tử Kỳ…Một cán bộ vận áo đại cán (áo kiểu Tôn Trung Sơn), ngực đeo huy hiệu Mao Trạch Đông, túi áo gài bút máy Kim Tinh là một cán bộ được ngưỡng mộ vì được huấn luyện ở bên Tàu về. Những phát ngôn của anh ta trong những hội nghị, những cuộc học tập được coi như chân lý không thể phản bác. Thậm chí chuyện mức ăn trong quân đội cũng phân biệt đẳng cấp: đại táo, tiểu táo, trung táo. Đặc táo là mức ăn cao nhất, với nghĩa đặc biệt, là cái trên hết các thứ “táo”. Nó không có giới hạn. Mọi thứ đều được sao chép nguyên xi của Tàu. Như vậy ảnh hưởng Tàu trong việc tiến hành cải cách ruộng đất là sự đương nhiên. Nó phù hợp với ý muốn của Trường Chinh - người lãnh đạo đảng.
Tôi nói chuyện chuyện ảnh hưởng Tàu để dẫn tới một lý giải chưa chắc đã được sự đồng tình, vì nó khác với những gì từng được viết ra về cải cách ruộng đất. lý giải ấy thế này: mấy năm đầu kháng chiến bộ đội là do dân nuôi, chẳng có đảng nào nuôi hết, kho bạc nhà nước cũng chẳng có đồng nào. Dân nuôi bộ đội, cán bộ là sự thật. Nhưng không phải là dân nói chung, lại càng không phải là bần cố nông nghèo khó, mà là những người có của (thị dân, địa chủ). Vào thời gian ấy họ được tâng bốc là những nhà hằng tâm hằng sản, trong thực tế chính họ mới là những người có khả năng đóng góp cho kháng chiến. Bấy giờ những người chỉ có vài ba mẫu ruộng (mẫu Bắc bộ bằng 3600 mét vuông, không phải hectar bằng 10.000 mét vuông), cũng đã bị gọi là địa chủ rồi. Trong sự đồng tâm hiệp lực cho mục đích cao cả là đánh Pháp giành độc lập mọi người đều thấy mình bình đẳng, với nhau, và cả với những người cầm quyền. Quan niệm bình đẳng là quan niệm tự sinh, tự nó có, trong dân chúng cũng như trong quân đội. Võ Nguyên Giáp mà đến đơn vị chúng tôi thì cũng ngồi ăn với chúng tôi, không phân biệt quan lính. Quan niệm bình đẳng ấy, khốn thay, lại là cái làm cho Trường Chinh và những người như ông ta không ưa. Trường Chinh thèm được dân sùng phục mình như những người ở vị trí tương đương ở bên Tàu. Muốn dẹp quan niệm bình đẳng thì phải thanh toán những kẻ mang tư tưởng ấy – những người tham gia từ những ngày đầu cách mạng. Từ đó mới sinh ra sự triệt hạ những người đang nắm quyền ở nông thôn, thường là những người đã tích cực đóng góp cho cuộc kháng chiến, gọi họ là cường hào, ác bá. Song song với cải cách ruộng đất là cuộc vận động chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương phụ trách. Người ta chụp lên đầu những người đang cầm quyền ở nông thôn đủ mọi nhãn hiệu: tay sai đế quốc, làm việc cho Phòng Nhì của Pháp, là đảng viên các đảng phản động chống phá cách mạng - Quốc Dân Đảng, Đại Việt vv… Rốt cuộc, bằng cách tước đoạt tài sản của những người bị dán nhãn hiệu cường hào, ác bá với mọi loại phản động bị đấu tố, bị xử bắn, xử tử rồi đem chia cho bần cố nông là những người chưa hề tham gia cách mạng, chưa hề có công với cách mạng, họ sẽ mang ơn các lãnh tụ, mang ơn đảng. Và cái quan trọng hơn cả là sau khi xoá bỏ chính quyền cũ ở nông thôn, chính quyền mới được dựng nên sẽ tuyệt đối trung thành với tôn ti trật tự mới. Hiểu được cái mục đích che giấu ấy ta sẽ thấy cải cách ruộng đất không hề sai lầm – nó đã làm được cái việc nó cần làm. Biết trước việc làm sẽ như thế nào sao có thể gọi là sai lầm? Chỉ vì nó lỡ trớn, vượt quá cái người ta mưu toan, chỉ vì bị phản ứng mạnh ngay trong đảng và ngoài xã hội mà phải thừa nhận rằng có sai và phải sửa sai mà thôi.
NTTH: Thế còn những nhân sĩ đã tham gia chính phủ lâm thời, có chức vụ cao trong chính phủ mấy năm đầu trong thời kỳ cải cách ruộng đất, họ ra sao?
Vũ Thư Hiên: Các nhân sĩ trí thức tham gia chính phủ kháng chiến không bị đụng đến trong cải cách ruộng đất. Nhưng nói chung các vị ấy cũng bị ảnh hưởng của cách đối xử theo lối Trung Quốc. Mốc 1949 là cái mốc đánh dấu sự chuyển biến từ sự tồn tại của một nhà nước mưu cầu độc lập sang một nhà nước lệ thuộc. Di chứng của nó, như nay ta thấy, kéo dài mãi về sau. Nói về thái độ trong quan hệ của ông Hồ Chí Minh với các nhân sĩ trí thức tôi muốn nói lời công bằng, như tôi thấy - đối với các vi ấy ông Hồ có sự trọng thị thật sự. Ông rất giữ lễ xưa trong khi gặp gỡ các cụ cao tuổi như cụ Bùi Kỷ, Bùi Bằng Đoàn, tôi được chứng kiến. Thêm một thí dụ: khi đến thăm gia đình ông Trần Duy Hưng, bao giờ ông Hồ cũng xin phép được vào chào cụ thân sinh ông Hưng trước đã. Cách cư xử như thế có thể là do truyền thống trọng sĩ phu ngày trước chưa mất đi trong lòng ông. Với ban lãnh đạo đảng cộng sản thì không được như vậy. Ngay từ đầu, họ coi các nhân sĩ nọ như một thứ hàng hóa bắt mắt, chỉ để bày. Ở trong khu an toàn các nhân sĩ vẫn còn được giữ những chức vụ trên danh hiệu như năm 1945-1946, tuy công việc về thực chất từ đây đã do các đảng viên nắm, với chức vụ khiêm tốn chỉ là phụ tá, là phó trong các cơ quan. Nhưng tới giữa năm 1950 (tôi nhắc lại, khi lối sống Trung Quốc được tích cực sao chép) đã hoàn toàn thống trị, thì tất cả các nhân sĩ đang ở khu An toàn huyện Sơn Dương đều bị đưa lên cư trú bắt buộc tại huyện Chiêm Hoá (huyện phía Bắc tỉnh Tuyên Quang) ngồi chơi xơi nước.
NTTH: Ai là người đưa ra quyết định đó?
Vũ Thư Hiên: Cũng là Trường Chinh, nhiều người nói thế, tôi thấy có lý.
NTTH: Ông Hồ không có can thiệp gì vào việc đó sao?
Vũ Thư Hiên: Tôi không thấy sự can thiệp nào của ông ấy. Là Chủ tịch đảng, trên danh nghĩa, nhưng ông Hồ vẫn phải tuân theo mọi quyết định của Bộ Chính trị, đứng đầu là Trường Chinh. Bác lại Bộ Chính trị à? Trong việc đưa các nhân sĩ đi tập trung ở Chiêm Hóa chắc chắn không phải sáng kiến của ông ấy. Theo nhiều người nhận xét, Hồ Chí Minh là người nhu nhược. Tôi nghĩ khác - ông ấy chẳng mấy quan tâm tới số phận những người ông ấy từng mời mọc hợp tác trong chính phủ lâm thời.
NTTH: Hồ Chí Minh ở trong khu kháng chiến có chứng kiến và có biết trực tiếp những chuyện xảy ra lúc đó tại các địa phương trong việc xử lý cải cách ruộng đất không?
Vũ Thư Hiên: Theo tôi nghĩ, chứng kiến và biết trực tiếp thì không, nhưng ông Hồ có nhận được những báo cáo chứ, sao không, có điều chúng là những báo cáo không trung thực.
NTTH: Còn cái vụ ông Hồ bịt râu đi xem hành quyết bà Năm, như đồn đại, ông nghĩ sao?
Vũ Thư Hiên: Tôi không tin đồn này. Thứ nhất là từ Núi Hồng, chỗ Hồ Chí Minh ở, cho đến làng Đồng Bẩm, nơi đấu bà Nguyễn Thị Năm, khoảng 75 đến 80 cây số đường chim bay. Để ông Hồ di chuyển chừng đó cây số, theo lệ thường, phải có ít nhất một trung đội bảo vệ và một tiểu đội tiền trạm. Đội tiền trạm phải đi trước xem xét chỗ ông ấy sẽ nghỉ, trung đội bảo vệ với ông ấy đi sau phải bố trí ở quanh ông. Ông Hồ cưỡi con ngựa được đặt tên cao ủy Pháp Bolaert chỉ đi từng bước, không bao giờ phi nước kiệu hay nước đại, phải từ hai ngày rưỡi tới ba ngày mới tới được Đồng Bẩm. Cái version ông ấy bịt râu xem đấu khó tin lắm. Đám bảo vệ bao quanh ông lúc nào cũng lom lom nhìn vào mặt từng người đứng gần ông trong đám đông, chẳng giấu được ai, thể nào người ta cũng nhìn ra, không ngay lập tức, thì sau đó, không người này thì người kia. Tác giả Đèn Cù là người duy nhất ghi lại tin đồn, ngoài ra tôi không được nghe ở nguồn nào khác.
NTTH: Còn bài báo tố bà Năm ký tên CB thì sao, thưa ông?
Vũ Thư Hiên: Bài đó là của ông Hồ, do chính ông ấy viết. Với việc ký sắc lệnh cải cách ruộng đất, ông ấy là tội đồ dân tộc. Cần sòng phẳng trong việc này. Tội thì phải gọi là tội.
Tôi không tin câu chuyện ông Hoàng Tùng viết trong hồi ký rằng ông Hồ không muốn xử chết bà Năm, nói: “Không nên đánh người đàn bà dù bằng một cành hoa”. Nếu ông Hồ cương quyết chống lại việc làm ác độc ấy, chắc chắn nó không thể xảy ra. Nhưng ông đã buông xuôi, theo ý Trường Chinh “cần mở màn cải cách ruộng đất bằng một bản án mạnh”. Ở đây có một cái gì đó khó giải thích, một nghịch lý cùng tồn tại trong một con người chăng? Những gì tôi thấy ở ông Hồ trong những dịp gần ông, quan sát ông, tôi không có cảm giác ông một người ác, nói cách khác không mang bản tính ác. Hẹp hòi thì có, chấp nhặt cũng có. Thấy cán bộ dùng xà phòng thơm, ông bĩu môi khinh bỉ, nhưng chỉ thế thôi, không phê phán nặng lời, không kỷ luật. Có lần ông sai thư ký Vũ Kỳ gọi tôi đi dịch cho ông nói chuyện với chuyên gia Liên Xô ở nhà máy điện Vinh, tôi thoái thác, tôi kêu tôi đau đầu, để không đi. Thế rồi khi bắt quả tang tôi không chịu làm việc cho ông để đi chơi với bạn gái, ông cũng chẳng nói gì. Tôi nghĩ, ông ấy, cũng như nhiều người khác ở cương vị lớn mà tôi biết, nhúng tay vào tội ác mà không hề áy náy, nhờ ẩn nấp dưới chiêu bài ý thức tổ chức. Đảng đã quyết, thì ta làm, đảng bao giờ cũng sáng suốt. Người bản tính không ác vẫn an nhiên làm những việc ác là thường tình. Họ bịt miệng lương tâm bằng sự biện minh rằng họ làm ác chẳng qua để thực hiện thiện. Ở những nước xưng chuyên chính vô sản hiện tượng này xảy ra nhiều lắm lắm, chẳng cần phải dẫn chứng.
NTTH: Danh sách những người bị đấu tố và bị giết trong cải cách ruộng đất có được đưa lên cho ông Hồ duyệt không?
Vũ Thư Hiên: Làm gì phải đến ông Hồ? Mạng người trong cải cách ruộng đất chẳng là cái gì hết. Tất cả những người bị đấu tố, rồi bị lên án tử, chỉ đưa lên đến Đoàn uỷ là hết. Bí thư Đoàn ủy ký xong thì đem bắn.
NTTH: Đoàn uỷ là cái gì, ở đâu?
Vũ Thư Hiên: Dưới ủy ban cải cách ruộng đất là các Đoàn ủy cải cách ruộng đất. Nó là một tổ chức thi hành cải cách ruộng đất. Một tỉnh lớn có thể có hai Đoàn uỷ, tỉnh nhỏ một Đoàn uỷ. Dưới Đoàn ủy là các Đội. Các đội đi đến các làng, sống cùng với nông dân, làm các công việc được gọi là thăm nghèo, hỏi khổ, bắt rễ, xâu chuỗi để làm công việc cuối cùng là đấu tố địa chủ (với các thứ cường hào, ác bá, và các thứ đảng phái phản động khác luôn thể), chia quả thực (các thứ thu được), chia ruộng đất. Để hiểu hết từ ngữ chuyên biệt của thời kỳ này cần phải đọc các sách viết về cải cách ruộng đất, chúng hoàn toàn khó hiểu với người không sống trong thời kỳ đó.
NTTH: Như vậy phải chăng trong việc bổ nhiệm cán bộ sau năm 1946 ông Hồ không thực sự có quyền ?
Vũ Thư
Hiên: Ông
Hồ Chí
Minh
không
còn bao
nhiêu
quyền
lực như
năm
1946,
bắt đầu
sớm hơn,
nó ít
dần từ
năm 1947
kia, khi
chính
phủ rời
Hà Nội
lên Việt
Bắc,
theo cha
tôi. Chủ
tịch phủ
thời
kháng
chiến
đóng ở
Thác
Dẫng
huyện
Sơn
Dương
(Tuyên
Quang)
hầu như
rất ít
công
việc.
Tôi có
thời
gian ở
đấy,
khoảng
độ nửa
năm. Tôi
và anh
Phạm Sĩ
Liêm
(sau làm
phó chủ
tịch Hà
Nội)
cùng làm
việc ở
đó như
một thứ
nhân
viên văn
phòng,
làm cả
việc
chép
sách
kinh
điển
mác-xít,
cả việc
chạy
công văn
khi hai
cậu liên
lạc tên
Bính và
Phoóng,
người
Tầy, lên
cơn sốt
rét.
Quan sát
công
việc của
Chủ tịch
phủ lúc
bấy giờ
tôi thấy
nó giống
một cái
cơ quan
hành
chính
rỗi
việc.
Các sắc
lệnh do
bên đảng
quyết,
các cán
bộ chủ
tịch phủ
soạn văn
bản, ông
Hồ Chí
Minh ký.
Phủ chủ
tịch
không
phải,
không hề
giống cơ
quan chỉ
huy cuộc
kháng
chiến
chống
Pháp.
Nói nó
là đại
bản
doanh
của
chính
phủ
kháng
chiến
như
người ta
miêu tả
là nói
quá.
Những
quyết
định
quan
trọng
cho cuộc
kháng
chiến là
ở những
cuộc
họp,
chúng
diễn ra
không
phải ở
một nơi
nhất
định,
chắc
chắn
không ở
thác
Dẫng.
Chủ tịch
phủ
không
phải là
nơi điều
khiển
công
việc
điều
hành đất
nước.
Tất cả
các cơ
quan đầu
não của
cuộc
kháng
chiến
đóng
trong
một khu
an toàn
(gọi tắt
là ATK)
, có một
trung
đoàn bảo
vệ, lấy
bí danh
là tiểu
đội
Thanh
Sơn. Có
thể nói
sự xa
cách về
địa lý
giữa các
cơ quan
cũng làm
cho ông
Hồ dần
mất
quyền
quyết
định
trong
mọi
việc.
Nơi ông
Hồ ở là
Núi Hồng
cách
thác
Dẫng
không
xa. Ông
thường
chỉ ra
thác
Dẫng khi
tiếp
khách.
Mọi cơ
quan đều
mang bí
danh:
Chủ tịch
phủ là
ban Kiểm
tra 12,
Bộ nội
vụ là
Tiểu đội
1. Bộ
Thông
tin
Tuyên
truyền
là Ban
canh
nông xã
Công
bằng.
Nha công
an Việt
Nam là
Ông Cả
Nhã hiệu
Việt
Yên. Các
cơ quan
đều ở
cách
nhau khá
xa, gần
nhất
cũng năm
bảy cây
số đường
rừng.
Liên lạc
giữa các
cơ quan
đều dùng
người
chạy
công
văn,
không có
điện
thoại
dây hoặc
phương
tiện
khác.
Ngay
giữa chủ
tịch phủ
và nơi
ông Hồ ở
cũng
liên lạc
bằng
công văn
chạy bộ.
Lúc bấy
giờ Hồ
Chí Minh
không
còn
nhiều
người ở
bên cạnh
như khi
ở Hà
Nội.
Trong
tình
hình ấy
vai trò
của ông
Trường
Chinh
khác
trước
rất
nhiều.
Vì sao?
Vì tất
cả các
tỉnh uỷ,
tức là
hệ thống
đảng, là
do
Trường
Chinh
nắm, mà
nguyên
tắc đảng
lãnh đạo
thì cả
hệ thống
hành
chính
đều tùy
thuộc
vào nó
(đảng).
Sự chỉ
huy này
không
nằm ở
chủ tịch
phủ. Một
thí dụ:
Trung
Quốc
nhiều
lần nhắc
nhở, mà
nhắc nhở
ông
Trường
Chinh,
chứ cũng
không
cần nhắc
nhở ông
Hồ Chí
Minh,
rằng để
một
người do
đế quốc
đào tạo
làm Bộ
trưởng
Bộ công
an là
không
được.
Bên
Trung
Quốc
không
làm như
thế. Ông
Hồ có
hỏi cha
tôi nghĩ
sao về
việc
thay ông
Lê Giản
bằng
Trần
Quốc
Hoàn.
Cha tôi
trả
lời :
“Anh
Hoàn ở
tù cùng
với tôi
ở Sơn
La.
Người
này
không có
học. Bộ
này cần
người có
học”.
Chuyện
Trần
Quốc
Hoàn là
người
thế nào
tôi có
viết
trong
hồi ký
“Đêm
Giữa Ban
Ngày”.
Vì ăn
cắp chữ
chì có
hàm
lượng
antimoine
cao của
nhà in
IDEO để
bán cho
các lò
đúc
gang,
Trần
Quốc
Hoàn bị
bắt.
Trong
tù, Hoàn
được mấy
ông cộng
sản
thương
tình
khuyên
là nên
khai lấy
chữ chì
cho đoàn
thể để
in
truyền
đơn, thì
sẽ được
xem là
tù chính
trị, sẽ
không bị
đánh đập
như tù
hình sự.
Thế là
Trần
Quốc
Hoàn trở
thành tù
chính
trị. Lúc
đó Lê
Đức Thọ
cũng ở
Sơn La.
Lê Đức
Thọ lấy
em vợ
của ông
Đặng
Châu
Tuệ, một
cán bộ
cách
mạng lão
thành,
bà này
có một
cửa hàng
sách ở
Nam
Định,
hằng
tháng
gửi cho
chồng 5
piastres
(năm
đồng bạc
Đông
Dương),
trong
khi giá
gạo chưa
tới 2
piastres
một tạ.
Lê Đức
Thọ chỉ
cần thuê
Trần
Quốc
Hoàn
chừng 5
hào (50
centimes)
là đủ để
Trần
Quốc
Hoàn vui
vẻ phục
dịch Thọ
mọi việc
hàng
ngày.
Sau này
người
hầu mẫn
cán được
Lê Đức
Thọ nhớ
đến, đưa
lên làm
Bộ
trưởng
Bộ công
an.
NTTH:
Nhưng
nếu nói
là Hồ
Chí Minh
không có
thực
quyền
thì công
lao của
ông Hồ
đối với
hai cuộc
kháng
chiến
nằm ở
đâu ?
Vũ
Thư
Hiên: Nằm
ở hình
ảnh ông
ấy, được
ngành
tuyên
truyền
dày công
dựng
nên. Ông
được
thánh
hoá
trong sự
sùng
bái, cứ
như thể
ông là
người
lãnh đạo
trong
mọi
việc.
Trong
thực tế,
công
việc chỉ
huy (tôi
không
muốn
dùng chữ
lãnh đạo
với ý
nghĩa
người có
được sự
đồng
thuận
của nhân
dân coi
là người
chỉ
đường
cho
mình)
nằm
trong
tay
Trường
Chinh và
Võ
Nguyên
Giáp,
(về danh
nghĩa
thì có
cả Phạm
Văn
Đồng,
nhưng
ông này
chẳng
quyết
định
việc
gì),
tiếp đến
là Lê
Duẩn, Lê
Đức Thọ.
Căn cứ
vào một
bằng
chứng
duy nhất
được
nhiều
người
biết thì
đến năm
1964 ông
Hồ mới
thực sự
bị loại
khỏi hệ
thống
quyền
lực.
Bằng
chứng ấy
là:trong
một cuộc
họp với
cán bộ
tuyên
giáo ở
Hưng Yên
vào năm
này, Tố
Hữu đã
nói:
“Ông Cụ
lẫn cẫn
rồi. Bây
giờ mọi
việc do
anh Ba
và chúng
tôi đảm
nhiệm”.
Mà Tố
Hữu, uỷ
viên Ban
Bí thư
trung
ương
đảng, có
thể coi
như
người
phát
ngôn
chính
thức của
ban lãnh
đạo
đảng.
NTTH:
Vấn
đề là
tại sao
bộ máy
quyền
lực phải
tuyên
truyền
cho ông
Hồ ? Tại
sao
trong
kháng
chiến
chống
Pháp ông
Trường
Chinh
không
làm một
chiến
dịch
tuyên
truyền
hình ảnh
của
mình ?
Vũ Thư
Hiên:
Trường
Chinh có
muốn thế
cũng
không
được.
Trong
đảng lúc
ấy còn
rất
nhiều
người
tính về
thâm
niên
cách
mạng còn
hơn
Trường
Chinh.
Họ không
dễ tán
đồng một
sự sùng
bái như
thế. Vào
giai
đoạn năm
45-46
ông Hồ
đã là
một ngôi
sao sáng
rồi,
sáng đến
mức
không
thể dập
tắt
được, để
có thể
thay thế
bằng một
ngôi sao
khác.
Ông Hồ
được
tuyên
truyền
rộng rãi
như một
người
suốt đời
tận tuỵ
với dân
tộc,
không
ham hố
quyền
lực cũng
như danh
vọng.
Trường
Chinh
không
thể nào
sánh
bằng.
Người ta
chỉ có
thể
tuyên
truyền
cho vai
trò
Trường
Chinh
bằng
cách
phát
hành lẫn
vào chân
dung các
lãnh tụ
cộng sản
quốc tế:
Marx,
Engels,
Lenin,
Stalin,
với Hồ
Chí Minh
và
Trường
Chinh
được
treo ở
vị trí
thấp
hơn.
Những
chân
dung màu
đẹp đẽ
được in
ở bên
Tàu,
bằng
giấy
tốt,
được
phát
không
cho dân
chúng,
được
trang
trọng
treo ở
các nhà
bên trên
cái gọi
là ban
thờ tổ
quốc.
Tôi cho
rằng
trong
một bối
cảnh như
thế ông
Hồ cũng
chẳng
cần đến
quyền
lực, nó
chẳng để
làm gì,
một khi
ông đã
được đàn
em bê
lên bệ
thờ,
được mê
mẩn
trong
khói
hương
với
những
bản tụng
ca không
lúc nào
tắt
tiếng ở
bên
dưới.
NTTH:
Một câu
hỏi
ngoài
lề:
trong
sinh
hoạt,
ông Hồ
Chí Minh
là người
thế nào?
Vũ Thư
Hiên: Theo
tôi
biết, mà
biết
chắc, về
chuyện
ăn uống,
ông là
người
rất giản
dị, có
thể dùng
chữ “đạm
bạc”.
Trong
kháng
chiến
chống
Pháp,
mọi thứ
đều
thiếu.
Mọi
người
chiều
ông, rất
quan tâm
bữa ăn
cho ông,
ông muốn
ăn gì
chẳng
được,
nhưng
tôi
biết,
ông
không hề
đòi hỏi.
Bữa ăn
của ông
thường
chỉ có
rau dưa,
vài khúc
cá kho
mặn
(người
Nghệ
mà).
Người ta
chiều
ông đến
nỗi khi
nghe ông
nói thèm
cà Nghệ,
thế là
cà Nghệ
được
chuyển
từ Nghệ
An, qua
bao
nhiêu
tỉnh,
qua cả
vùng
địch
chiếm,
để mang
tới Việt
Bắc quả
cà còn
tươi
nguyên.
Đó là
lòng
dân, là
chuyện
có thật,
chính
tôi được
ăn ké
món cà
muối
xổi.
Trong
ông Hồ,
theo tôi
thấy,
bằng mắt
mình, có
một anh
nông dân
thâm căn
cố đế.
Tôi nhớ
những
lần ông
ra thác
Dẫng,
anh Phạm
Sĩ Liêm
khoe bí
đỏ đậu
nhiều
lắm, thế
là ông
tức tốc
ra vườn
cùng anh
Liêm
kiếm cái
lót dưới
quả bí
non để
nó không
bị thối,
còn tôi
thì có
thể lợi
dụng
thời
gian đó
ung dung
xoáy của
ông vài
điếu
thuốc lá
cho hai
đứa.
Phải rất
nông dân
thật thà
mới nói
thế này
với ông
bà Trần
Duy
Hưng:
“Cô chú
đông các
cháu,
hằng
tháng
cho các
cháu lên
ăn với
tôi một
vài
bữa".
Lời kể
của ông
Trần Duy
Nghĩa,
con bác
sĩ Trần
Duy
Hưng,
cho tôi
thấy
thêm một
lần chất
nông dân
của ông,
khi đứa
trẻ Trần
Duy
Nghĩa vô
ý làm
vãi vài
hạt cơm
trong
bữa ăn
với ông
Hồ.
“Cháu
phải
biết:
cái này
là của
ngọc
thực,
nông dân
phải làm
lụng một
nắng hai
sương
mới ra
được hạt
gạo,
cháu
nhặt lên
mà ăn
nhá!” –
ông nhẹ
nhàng
bảo. Đức
tính
tiết
kiệm của
ông được
nói đến
nhiều,
được ca
ngợi
nhiều,
nó cũng
là sự
thật.
Bên cạnh
sự thật
ấy có
một sự
thật
khác.
Ông Hồ
không
thể bỏ
thói
quen
nghiện
thuốc lá
ngoại.
Thuốc lá
ngoại
thời
kháng
chiến
rất đắt,
phải mua
ở các
chợ giáp
ranh
giữa
vùng
giải
phóng và
vùng tạm
chiếm,
tiền mua
vài bao
thuốc có
thể nuôi
sống một
gia đình
nông dân
đông con
một
tháng.
Ông
nghiện
thuốc lá
Mỹ:
Craven
A,
Phillips
Morris,
State
Express
555, đôi
khi là
Camel,
không
bao giờ
ông hút
thuốc lá
Pháp như
Bastos,
Melia,
Cotab.
Tôi
không
biết nếu
người ta
không
chiều
ông, lo
thuốc lá
Mỹ cho
ông hút
thì tình
hình sẽ
ra sao?
Ông có
hút
thuốc
sừng bò
như bộ
đội
không?
Người ta
đã
chiều,
và tôi
nghĩ
chiều
thế cũng
phải
thôi,
ông dù
sao cũng
là chủ
tịch một
nước, mà
ông
không có
đòi hỏi
gì hơn.
Tôi có
đọc một
hồi ký
buồn
cười khi
thấy tác
giả viết
rằng
người ta
dùng một
đại dội
biệt
động áp
tải cả
tạ thuốc
lá từ Hà
Nội ra
cho ông
Hồ hút.
Cứ như
thể ông
ấy hút
mỗi ngày
vài tút,
và thuốc
lá dự
trữ
không
bao giờ
bị mốc.
Còn
chuyện
khi về
Hà Nội
ông có
đầu bếp
riêng,
ông
thích ăn
ngon,
với
những
món ăn
khó kiếm
như gà
Quảng
Châu
vv…, tôi
không
được
biết,
thời kỳ
này tôi
không
còn có
dịp gặp
ông,
được ăn
cùng ông
để biết
bữa ăn
của ông
thế nào,
nhưng
tôi tin
những
bài viết
ấy là
thực.
Cái gọi
là tiêu
chuẩn
cho
“lãnh
tụ”. nó
còn hơn
suất
“đặc
táo”
trong
kháng
chiến
rất
nhiều.
Các ông
“lãnh
tụ” tự
cho mình
có quyền
được
hưởng
những
thứ mà
dân
thường
không
thể hình
dung, là
chuyện
bình
thường.
Có hẳn
một “Ban
bảo vệ
sức khoẻ
Trung
ương” lo
toan đủ
thứ cho
các vị
được
sống
sung
sướng,
sống
hạnh
phúc cơ
mà. Cái
gì ta
không
biết, ta
có thể
tưởng
tượng.
Có
nhiều
người
cho rằng
trong
việc
chuyển
đổi thể
chế từ
độc tài
cộng sản
sang dân
chủ phải
bắt đầu
từ việc
giải
thiêng
hình
tượng
ông Hồ
Chí
Minh.
Tôi
không
nghĩ như
vậy. Tôi
cho rằng
những
cuộc đấu
tranh
nhằm vào
những
sai trái
của thể
chế hiện
tại, đấu
tranh
từng
điểm
một,
tiến lên
từng
bước
một, đưa
đấu
tranh từ
ngoài
vào
trong,
khuyến
khích
đấu
tranh từ
trong ra
ngoài,
mới là
cái quan
trọng sẽ
dẫn tới
sự
chuyển
đổi mong
muốn.
NTTH:
Xin cảm
ơn ông
về cuộc
phỏng
vấn này.
|