(Bài
đăng trên Tuổi Trẻ ngày
8/6/2018. Đây là bản gốc của tác giả)
Ba đặc
khu cần trả lời ba câu hỏi
Trần Văn Thọ
Dự
thảo luật về ba đặc khu kinh tế đang được dư luận quan tâm. Mục đích
thành lập 3 đặc khu được ghi nhận là đưa ra các điều kiện vượt
trội, hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong các lãnh vực
công nghệ cao, hoặc các lãnh vực có nhu cầu cao trên thị trường thế
giới, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế trong giai đoạn tới. Cho đến nay
nhiều chuyên gia kinh tế, luật sư và một số dân biểu quốc hội đã nêu
nghi vấn về tác động kinh tế của ba đặc khu dự kiến và sự lo ngại về an
ninh quốc gia khi cho phép người nước ngoài thuê đất lâu dài. Tôi chia
sẻ với nhiều nghi vấn và lo ngại nầy, ở đây muốn phân tích thêm từ vài
khía cạnh khác.
Để
đánh giá khách quan, trước hết cần đặt ra 3 câu hỏi.
(1)
Nhu cầu phát triển sắp tới của đất nước là gì? Các đặc khu có đáp ứng
được các nhu cầu đó không?
(2)
Nền kinh tế đã phụ thuộc vào tư bản nước ngoài rất nhiều rồi, giai đoạn
tới cần phải vừa nuôi dưỡng, khuyến khích tư bản dân tộc phát triển vừa
chọn lựa những nhà đầu tư nước ngoài thật sự cần thiết ở những lãnh vực
trong nước chưa đủ năng lực, và ngoại lực đó phải có sức lan tỏa giúp
cho nội lực ngày càng mạnh. Các đặc khu đã được thiết kế để đáp ứng yêu
cầu nầy chưa?
(3)
Những tập đoàn công ty nước ngoài nổi tiếng có công nghệ cao, có nguồn
lực và văn hóa kinh doanh tiên tiến mà chúng ta sẽ cần họ đến đầu tư
đang đánh giá Việt Nam như thế nào? Họ mong Việt Nam tạo môi trường như
thế nào để họ mang các dự án chất llượng cao đến và các đặc khu kinh tế
dự kiến có hy vọng đáp ứng các yêu cầu đó không?
Về câu
hỏi thứ nhất, hiện nay hơn 40% lao động còn làm việc trong nông nghiệp
với năng suât thấp. Mặt khác, khu vực cá thể, hộ gia đình (cũng năng
suất thấp) còn chiếm hơn 30% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Do đó chiến
lược sắp tới phải thúc đẩy phát triển công nghiệp và dịch vụ theo hướng
hiện đại (áp dụng công nghệ mới và tăng quy mô nhà máy, cơ sở sản xuất)
để thu hút lao động dư thừa và lao động cá thể, thực hiện phát triển vừa
bao trùm vừa với tốc độ cao. Phát triển công nghiệp của Việt Nam đã tiến
một bước nhưng chủ yếu mới lắp ráp, gia công, trước mắt phải đẩy mạnh
công nghiệp hỗ trợ, tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam tham gia cao
hơn vào mạng lưới cung ứng toàn cầu hoặc khu vực. Một phương hướng nũa
là đẩy mạnh phát triển công nghiệp thực phẩm làm đòn bẩy phát triển nông
nghiệp.
Cần
thêm một điểm nữa là với kỹ thuật công nghệ ngày nay công nghiệp hóa có
khuynh hướng dùng ít lao động, do đó để tạo công ăn việc làm cho lực
lượng lao động hiện nay, cần phải phát triển nhiều ngành dịch vụ có giá
trị gia tăng cao như công nghệ thông tin phần mềm, tài chánh,... hoặc
tận dụng các lợi thế thiên nhiên
và di sản văn hóa để phát triển dịch vụ du lịch.
Từ nhu
cầu nói trên, ba đặc khu kinh tế đang dự định chỉ có tác dụng thúc đẩy
ngành du lịch, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí. Các công ty nước ngoài
định đầu tư vào công nghiệp sẽ chọn những trung tâm đã hình thành các
cụm công nghiệp hoặc những nơi phụ cận, hay những vùng gần với sản xuất
nông phẩm. Nếu 3 đặc khu đang bàn được thiết lập 30 hay 25 năm trước,
khi VN mới mở cửa và kinh tế thị trường mới sơ khai thì hiệu quả phát
triển công nghiệp sẽ rất lớn (giống như các đặc khu của Trung Quốc 40
năm trước đây). Nhưng hiện nay thì hiệu quả phát triển công nghiệp tại
những nơi đó hầu như không có được. Tôi có nói chuyện với đại diện nhiều
tập đoàn công nghiệp của Nhật, không ai quan tâm đến các đặc khu mà ta
đang bàn cả.
Ông
Kawada Atsusuke, cựu giám đốc JETRO tại Việt Nam, người thường xuyên
tiếp xúc với các nhà đầu tư lớn của Nhật, có nói với tôi là ông chưa đến
khu Văn Phong nên không có ý kiến, nhưng riêng về Vân Đồn và Phú Quốc
thì ông thấy không thể là nơi thu hút đầu tư của Nhật trong các ngành
dùng công nghệ cao, và các nới đó không thể trở thành cứ điểm sản xuất
để tham gia vào mạng lưới cung ứng toàn cầu. Ông cũng nói thêm là riêng
ỏ bắc bộ, nếu muốn thu hút đầu tư nươc ngoài trong các ngành công nghệ
cao thì thay vì Vân Đồn nên lập các khu công nghiệp gần Hải Phòng là nới
có hội đủ các điều kiện
Như
vậy, ba đặc khu kinh tế nếu chỉ có tác dụng phát triển du lịch, nghỉ
dưỡng, giải trí thì không cần đưa ra các tiêu chuẩn vượt trội như thuế
và quyền sử dụng đất lâu dài. Với luật đầu tư nước ngoài hiện hành là đủ
rồi. Chỉ cho thuế đất tối đa 50 năm.
Về
điểm thứ hai, hiện nay, các công ty có vốn nước ngoài (FDI) đã chiếm
khoảng 50% sản lượng công nghiệp và 70% xuất khẩu của Việt Nam. Độ phụ
thuộc của kinh tế Việt Nam vào tư bản nước ngoài là rất cao, cao nhất
tại Á châu. Hơn nữa, khu vực FDI và khu vực tư bản trong nước hầu như ít
liên kết với nhau. Độ lan tỏa của công nghệ nươc ngoài qua FDI còn rất
yếu.
Ngoài
ra phải kể đến hiện tượng tư bản nước ngoài, chủ yếu là Trung Quốc,
trong nhiều năm nay đã nhờ người Việt Nam đúng tên mua nhiều đất ở ven
biển. Trung Quốc còn thắng thầu trong rất nhiều dự án xây dựng ở Việt
Nam. Do đó vấn đề của Việt Nam hiện nay là từng bước khắc phục quan hệ
không lành mạnh với tư bản nươc ngoài, đồng thời xúc tiến hợp tác liên
kết giữa tư bản trong nước với những dự án FDI chất lượng cao.
Nhìn
từ thực tế đó, nếu ba đặc khu kinh tế ra đời nhằm thu hút FDI vào các
lãnh vực khách sạn, nghỉ dưỡng, du lịch, giải trí thì cũng nên có chính
sách, điều kiện để tư bản dân tộc tham gia theo hình thức liên doanh,
hợp tác.
Về
điểm thứ ba, hiện nay Việt Nam đang là môi trường đầu tư nhiều triển
vọng đối với tư bản nước ngoài. Theo điều tra gần đây của Tổ chức xúc
tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO), Việt Nam được đánh giá rất cao, xếp
thứ hai trong những nước mà các công ty Nhật muốn đến đầu tư. Không
riêng gì Nhật, không cần những ưu đãi vượt trội về thuế và thời hạn thuê
đất, công ty nước ngoài vẫn chọn Việt Nam là địa điểm đầu tư hấp dẫn. Dĩ
nhiên họ mong môi trường đầu tư ở VN được cải thiện hơn nữa nhưng theo 3
nội dung khác. Một là, thủ tục hành chánh, thông quan ở các cửa khẩu cần
nhanh chóng hơn. Hai là, cung cấp nhiều hơn nguồn nhân lực chất lượng
cao để họ dễ triển khai các dự án công nghiệp có quy mô lớn và xử dụng
công nghệ cao. Ba là, ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển để doanh
nghiệp FDI giảm được chi phí đầu vào vì không phải nhập khẩu linh kiện,
bộ phận và các sản phẩm trung gian với phí tổn cao. Ba nội dung nầy cũng
phù hợp với nhu cầu cải cách, phát triển của VN.
Từ
phân tích trên, có thể kêt luận là ba đặc khu kinh tế đang dự định thành
lập chỉ thích hợp cho phát triển du lịch, cơ sở nghỉ dưỡng dịch vụ vui
chơi, giải trí...và do đó, không cần đưa ra các ưu đãi vượt trội về
thuế, về quyền thuê đất lâu dài. Đặc biệt cả 3 đặc khu đều ở các vị trí
quan trọng về quốc phòng, ngay cả việc áp dụng luật đầu tư nước ngoài
hiện hành (được thuê đất 50 năm) cũng cần thận trọng không để tập trung
vào đầu tư từ một nước duy nhất, nhất là đôi với Trung Quôc, một nước đã
cho thấy nhiều tham vọng đối với lãnh thổ nước ta. Tôi mong Quốc Hội kỳ
này chưa thông qua luật về ba đặc khu, nên dành thời gian bàn thảo, phân
tích và tham khảo hơn nữa ý kiến của các chuyên gia./.
|