Thoát Trung Là Thế Nào Và Bằng
Cách Nào?
Trần Văn Chánh
Việt
Trước hết, cần xác định thật rõ, thoát Trung không có nghĩa là chống
Trung Quốc. Xu hướng chính của thời đại toàn cầu hóa hiện nay là hợp tác
trên cơ sở các bên cùng có lợi chứ không phải tìm cách chống nhau, gây
khó khăn cho nhau. Hơn nữa, kinh nghiệm đời cho thấy, họ hàng xa không
bằng láng giềng gần, sống hòa bình hợp tác với láng giềng thì bao giờ
cũng có lợi cho người dân của cả hai phía.
Trong quan hệ cả về lịch sử lẫn địa lý, Việt Nam và Trung Quốc là hai
nước rất gần gũi, có chung đường biên giới dài gần 1500 km ở phía Bắc,
với những mối quan hệ mật thiết từ lâu đời về các mặt văn hóa, chính
trị, kinh tế… Trong quá khứ, phải khách quan thừa nhận Trung Quốc là
nước lớn đàn anh, có nhiều mặt mạnh hơn so với Việt Nam, nên Việt Nam
qua các triều đại phong kiến phải chịu đóng vai thần phục và triều cống
Trung Quốc theo đạo quân thần, cũng giống như Nhật Bản, Triều Tiên, Miến
Điện, Lào, Thái Lan… xưa kia vậy. Trong trật tự phong kiến đó, sự chấp
nhận ngôi thiên tử của nước lớn Trung Quốc được coi như điều tự nhiên
không ai thắc mắc; nhưng ngược lại, thiên tử cũng có trách nhiệm với
nước nhỏ theo đạo “nhu viễn” nghĩa là mềm mỏng vỗ về các dân tộc hoặc
nước phương xa làm cho họ chấp nhận theo về với mình, để các bên đều có
lợi. Chính sách này cũng đã được các triều đại phong kiến Việt Nam áp
dụng y chang đối với một số nước lân cận nhỏ hơn (như Chiêm Thành, Chân
Lạp, Vạn Tượng, Thủy Xá, Hỏa Xá…), chứ không có chuyện nước lớn đem giàn
khoan hay tàu hải giám, hải cảnh… ngang nhiên xâm lấn lãnh hải các nước
nhỏ trong khu vực biển Đông như nhà cầm quyền Trung Quốc bây giờ đang
làm.
Xem sách Thanh thực lục,
chúng ta sẽ thấy được chính sách “nhu viễn” của các nhà cầm quyền Trung
Quốc thời xưa có vẻ khôn ngoan nhân đạo hơn đường lối “bá đạo” bá quyền
hiện nay của họ. Chẳng hạn, khi nghe quan địa phương báo cáo về chuyện
tranh chấp vài miếng đất nhỏ ở vùng biên giới Trung-Việt (bắc Việt Nam),
vua Khang Hi (một vua tài giỏi được nhân dân Trung Quốc rất kính phục)
liền hạ ngay chiếu chỉ, đại khái nói: “Ðất
này quả có lợi ư, thế thì Thiên triều lẽ nào lại nên tranh lợi với nước
nhỏ? Nếu không có lợi ư, thế thì lại cần gì phải tranh chấp với họ? Bụng
Trẫm chỉ muốn lấy đại công chí chính làm hẹn, coi [mọi người] trong nước
ngoài nước đều là con đỏ. Vả lại hai đất giáp giới liền cõi, rất dễ xảy
ra xích mích, càng nên khéo xử để vỗ về an ủi tỏ sự quan tâm đến họ,
không chỉ làm cho dân nước họ được yên, mà cũng chính là để làm cho dân
ta được yên… Những hành động tham lợi muốn cầu may lập công, đều không
đáng làm bài học...” (Thanh
thực lục: Việt Nam Miến Điện Thái Quốc Lão Qua sử liệu trích sao, “Thế
Tông thực lục”, bản chữ Hán, q. 31, tr. 28-31).
Về phía Việt Nam, theo nhận định rất chính xác của cụ Trần Trọng Kim,
viết trong lời Tựa sách Việt Nam
sử lược, Thời đại tự chủ
của Việt Nam được kể từ nhà Ngô, nhà Đinh cho đến đầu nhà Hậu Lê,
“nước mình từ thời đại ấy về
sau là một nước độc lập, tuy đối với nước Tàu vẫn phải xưng thần và chịu
cống, nhưng kỳ thực là không ai xâm phạm đến cái quyền tự chủ của mình”
(NXB Văn Học, 2017, tr. 25).
Tuy nhiên, hoàn cảnh lịch sử của thế giới nói chung và của Việt
Nam-Trung Quốc nói riêng hiện nay đã có khác. Trung Quốc với gánh nặng
đông dân như từ trước tới nay thì khuynh hướng chung của họ là bắt buộc
phải bung ra bên ngoài để tìm một sinh lộ, tập trung trước hết vào các
nước lân cận ở vùng Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, và đây là chủ
trương đã có từ những năm 60 của thế kỷ trước, khi lãnh tụ Mao Trạch
Đông còn đầy quyền uy ở Trung Quốc. Họ đã tiếp nối thực hiện ý đồ này
bằng hai cách: vừa trắng trợn đánh chiếm (Hoàng Sa…), vừa áp dụng chính
sách xâm thực dần dần dưới hình thức đấu thầu các hạng mục đầu tư khai
thác, thuê đất, cho người Trung Quốc tràn vào ở hợp pháp hoặc không hợp
pháp dưới sự quản lý rất lỏng lẻo của các nhà cầm quyền địa phương Việt
Nam.
Trước đây, các nhà đương cuộc phía Bắc Việt Nam (chứ không phải toàn thể
nhân dân Việt Nam) tuy có “mang ơn” nhận viện trợ của Trung Quốc để
“chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam”, nên có mối ràng buộc lệ thuộc
tình nghĩa, nhưng Trung Quốc giúp Việt Nam không phải hoàn toàn vô tư
hoặc không có ý đồ bành trướng xấu xa, và lịch sử đã nhiều lần chứng tỏ,
họ sẵn sàng lấn lướt xâm phạm lãnh thổ nước ta vì quyền lợi của họ. Cho
nên, khi hòa bình lập lại, quan hệ giữa hai nước có thể vẫn cần thân
thiện hữu nghị trên cơ sở hợp tác bình đẳng các bên cùng có lợi nhưng
không thể là quan hệ chủ-tớ “thần phục” mãi mãi được.
Nay Trung Quốc và Việt
Trung Quốc xâm lược Việt
Mặt khác, theo nhận định chung của hầu hết các học giả trên thế giới (kể
cả học giả gốc Trung Quốc), Trung Quốc chỉ mạnh một số mặt bên ngoài
(sức mạnh quân sự, dự trữ đô la…) nhưng lại yếu về bên trong; họ không
thành công về mặt xây dựng xã hội và văn hóa-đạo đức, chủ yếu do thể chế
chính trị lạc hậu độc tài toàn trị gây nên. Họ phải thường xuyên liên
lục đối phó với biết bao vấn nạn, như tính chất phong kiến cổ hủ khó sửa
của dân tộc họ về mặt văn hóa (“người Trung Quốc xấu xí”…), những vấn
nạn về tình trạng tranh chấp quyền lực chính trị nội bộ (đang ở đỉnh
cao…), nạn ô nhiễm môi trường rất nặng, nạn thất nghiệp, độ phân hóa
giàu nghèo ngày càng sâu sắc; mâu thuẫn giữa các dân tộc hoặc giữa các
địa phương, giữa Trung Quốc đại lục với bộ phận Hồng Kông, Đài Loan,
cũng như tình trạng quốc nạn tham nhũng trầm trọng kéo dài vô phương cứu
chữa; chưa kể đến những trận thiên tai ngày càng hung hãn gây thiệt hại
với quy mô rất lớn về nhân mạng và tài sản... Tất cả đều làm cho nước
Trung Quốc phải bận tâm nhiều và bị giảm đi một phần sức mạnh đáng kể.
Đặc biệt kể từ sau sự kiện sinh viên biểu tình chống độc tài ở Thiên An
Môn 1989, các nhà cầm quyền Trung Quốc luôn phải cảnh giác đối phó với
tình trạng bất ổn chính trị-xã hội có khả năng dẫn tới sụp đổ, do đó họ
phải tìm mọi biện pháp tăng cường kiểm soát/ trấn áp bên trong, đồng
thời “chuyển lửa ra bên ngoài”, qua một số động thái quan hệ thô bạo với
Việt Nam và Nhật Bản, hai quốc gia đã từng để lại cho Trung Quốc nhiều
kỷ niệm đáng nhớ nhưng không mấy vui vẻ trong lịch sử.
Trong bối cảnh cuộc thương chiến quyết liệt Mỹ-Trung đang diễn ra hiện
nay, Việt Nam có lẽ cần tiếp tục kiên trì lập trường tương đối mềm mỏng
như đã nói trên, để chờ đợi sự xuất hiện thêm của nhiều yếu tố chính trị
mới, trong cũng như ngoài Trung Quốc, chẳng hạn khả năng rất dễ bị tổn
thương tan vỡ của nhà cầm quyền Trung Quốc dưới sự điều khiển độc tài
của Tập Cận Bình. Điều này có nghĩa, vẫn nên tiếp tục khẳng định chủ
quyền nhưng với thái độ kiềm chế và thương lượng, cố tránh cho được xung
đột vũ trang để sinh linh cả hai bên khỏi bị tàn sát, bằng cách củng cố
nội trị ngoại giao, tạo thêm các mối liên kết, chờ thêm thời gian để có
độ chín muồi của các điều kiện tương quan quốc tế.
Sau trận đại dịch Covid-19, đã xảy ra và đang tiếp diễn, Trung Quốc càng
mất thêm nhiều đồng minh trên trường quốc tế, chỉ trừ việc họ chinh phục
được vài nước nhỏ như Campuchia và Lào bằng cách dùng sức mạnh đồng tiền
để xâm nhập chi phối. Nhưng Trung Quốc không phải hễ cứ muốn là được, để
tiếp tục ngang nhiên trái luật làm mưa làm gió đối với Việt Nam cũng như
với một vài nước khác trong khu vực biển Đông, và ta có thể tin nhà cầm
quyền Việt Nam cũng có thừa kinh nghiệm chính trị để đối phó, vì phải
chân thật nhận rằng: CS Việt Nam mưu mô cũng không kém gì CS Trung Quốc,
còn trong chiến tranh thì phía Việt luôn luôn thắng, khiến Trung Quốc
phải gờm. Một khi Trung Quốc “yếu” đi rồi, thậm chí chế độ chính trị có
thể sụp đổ nếu họ khư khư không chịu sửa đổi,
như cả thế giới đang nhìn vào dự đoán, thì Việt Nam có thể thu
hồi Hoàng Sa, Trường Sa một cách dễ dàng theo kiểu “bất chiến tự nhiên
thành” mà chẳng cần tốn viên đạn, sau đó hai nước còn có thể hợp tác
khai thác kinh tế lâu dài trong điều kiện hòa bình và trên cơ sở các bên
cùng có lợi, thay vì cứ choảng chửi nhau hoài chẳng ai còn làm ăn gì
được.
Trở lại vấn đề thoát Trung, như trên đã nói, thoát Trung không có nghĩa
là chống Trung Quốc. Có trường hợp hiểu không đúng vấn đề: Khoảng năm
1980, sau cuộc đụng độ năm 1979 ở biên giới phía Bắc, Bộ Giáo dục Việt
Nam có công văn chỉ thị hủy bỏ tất cả những bài học trong sách giáo khoa
có nội dung liên quan Trung Quốc, như bài “Vịt Bắc Kinh” ở một lớp tiểu
học, các bài về Kinh Thi, Đường thi,
Tây du ký… ở mấy lớp trung
học. Một cách chống hay thoát Trung rất tiểu nông nhỏ mọn, không phân
biệt được đâu là giá trị văn hóa đích thực lâu dài thuộc tinh hoa nhân
loại, với đâu là những mâu thuẫn chính trị thường chỉ có tính nhất thời…
Trái lại muốn thoát Trung thì lại cần phải nghiên cứu kỹ để hiểu biết
sâu sắc hơn về người Trung Quốc cùng với nền văn hóa của họ với cả mặt
tốt lẫn mặt xấu.
Thoát Trung vì vậy chỉ có nghĩa đơn giản là thoát khỏi những ảnh hưởng
xấu của Trung Quốc vào nội tình chính trị Việt
Trước hết cần phân biệt và tách rời khái niệm giữa nhân dân Trung Quốc
với nhà cầm quyền Trung Quốc, trong sự chia sẻ rằng, nhân dân Trung Quốc
cũng đang chịu sự khốn khổ nhiều mặt dưới chế độ độc tài toàn trị, và
thực chất là vẫn đang đối lập với chế độ này. Họ phải cắn răng chịu đựng
như vậy vì cũng giống như Việt
Việt Nam cũng có thể thoát Trung theo kiểu khôn ngoan của tổ tiên mình
trong thời quân chủ phong kiến: một mặt vẫn kiêng nể hợp tác với Trung
Quốc, ưu đãi cho Trung Quốc một số quyền lợi vừa phải ở mức chấp nhận
được (xưa là triều cống theo định lệ), nhưng mặt khác vẫn phải giữ tư
thế độc lập tự chủ và bình đẳng, như lời khẳng định hào hùng của nước
Đại Việt xưa trong bài Bình Ngô
đại cáo: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, gây nền độc lập; cùng Hán,
Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương”.
Như
chúng ta đều biết, nếu chỉ tính từ năm 1954, Việt
Cho nên gọi thoát Trung,
có nghĩa Việt Nam phải làm khác Trung Quốc, thoát khỏi cách thực hành
chính trị của Trung Quốc trong quá trình xây dựng đất nước; những gì xấu
xa tệ hại của họ gây bất mãn trong dân thì Việt Nam rút kinh nghiệm đừng
làm, mặc dù vẫn có thể cơ bản tiếp tục đi theo con đường xây dựng CNXH
nhưng phải là một thứ CNXH có nội dung đổi mới, chứ không rập khuôn theo
mô hình Trung Quốc như từ trước.
Ngày
nay, trong thời đại thông tin Internet, tình hình thế giới và các mối
tương quan chính trị quốc tế đã có nhiều biến đổi,
Việt Nam đã có thể chủ động đi
trước Trung Quốc một bước trong quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội,
từ đó thay đổi dần nội dung CNXH, mà mô hình có thể tham khảo ở một
vài xứ Bắc Âu (Thụy Sĩ, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch…), hoặc một quốc gia
tiến bộ nào khác ở Châu Á (như Singapore…). Trong hơn chục năm gần đây,
Trung Quốc
ngày càng lấn lướt xâm lược biển đảo của Việt Nam thì đây chính là điều
kiện và thời cơ lịch sử tốt nhất để Việt Nam “thoát Trung”,
bằng con đường đi trước
Trung Quốc một bước cải
cách CNXH dựa trên nền tảng Hiến
pháp và những luật
pháp hiện có.
Như vậy, Việt Nam sẽ có cơ
phòng chống được quốc nạn tham nhũng đang hoành hành nghiền nát đất nước
và cả hệ thống chính trị, thậm chí còn có thể tạo ảnh hưởng tác động
tích cực trở lại cho nhân dân Trung Quốc
đứng lên đòi hỏi chính quyền của họ phải đáp ứng các nhu cầu về thực thi
dân chủ. Đây cũng là một trong những điều kiện tiên quyết và cũng là lộ
trình để thoát Trung một cách an toàn và hiệu quả, mà không cần phải
chống Trung, cũng không gây nên bất kỳ đột biến chính trị nào. Vì thoát
Trung, như trên đã nói, không phải chống Trung, mà chỉ cần chủ động tách
khỏi ảnh hưởng của đường lối chính trị lạc hậu kiểu Mao kiểu Tập, vốn đã
và đang bị chính nhân dân Trung Quốc cực lực lên án.
Nhân khi Trung Quốc còn
lẹt đẹt phía sau về đổi mới chính trị, Việt Nam mạnh dạn sáng tạo đi
trước một bước chính là làm gương ngược lại cho phía Trung Quốc, khiến
họ phải phản tư phản tỉnh, chẳng khác nào người học trò non trẻ xưa kia
nay đã trở nên tài giỏi, vượt hơn lão thầy già đã lẩm cẩm không còn sức
sống và khả năng tư duy mạch lạc.
Lộ trình biến đổi có thể không cần đến những biện pháp quá nhanh mạnh có
thể gây nên tình trạng xáo trộn xã hội ảnh hưởng xấu đến công cuộc phát
triển kinh tế. Đại khái, chỉ cần
thi hành thực chất Hiến pháp Việt Nam 2013 và một số luật, bộ luật hiện
có do chính các nhà đương cuộc hiện tại đặt ra chứ chẳng phải ai khác,
với một số điều khoản đã được quy định về các quyền tự do dân chủ, như
tự do bầu cử ứng cử, tự do báo chí, lập hội, biểu tình…
Cần sớm soạn thảo và thông
qua Luật Biểu tình (như đã ghi ở Điều 25 Hiến pháp 2013) để tập cho nhân
dân có thói quen sinh hoạt dân chủ, trở thành lực lượng phản biện và đối
trọng có tác dụng góp phần xây dựng một hệ thống chính quyền lành mạnh
thật sự do dân và vì dân.
Công
việc tiếp theo là phải tu chính hiến pháp, bầu
lại Quốc hội theo thể thức thật sự dân chủ, đúng luật (như Điều 7 Hiến
pháp 2013 quy định, “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử
và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân”, không có nạn cơ cấu, hiệp thương… như một thủ đoạn xếp đặt
sẵn trước);
sửa lại một số điều sẵn có trong Hiến pháp,
đặc biệt cần loại bỏ Điều 51 “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”, và
Điều 53 “Đất đai… thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý”
vì đây là hai điều khoản dã man nhất chống lại sự phát triển đúng hướng
của nền kinh tế thị trường hiện đại, và cũng là nguyên nhân chủ yếu gây
nên quốc nạn tham nhũng từ rất lâu nay đe dọa sự tồn tại bền lâu của chế
độ. Soạn thêm một vài luật mới cho phù hợp với công cuộc cải cách CNXH,
thực hiện cuộc cách mạng ôn hòa
lần thứ hai. Trước mắt, trên cơ sở thực tế hiện có,
Việt Nam vẫn có thể tiếp tục đi
theo con đường CNXH nhưng là một thứ CNXH cải cách theo chiều hướng dân
chủ hóa đời sống xã hội, đi trước Trung Quốc và khác với Trung Quốc,
đồng thời có thể nghĩ đến việc đổi lại tên nước có hai chữ “dân chủ” cho
phù hợp với đường hướng phát triển mới.
Những người trầm tĩnh hiểu
biết bên ngoài đều cho rằng, đa số các vị lãnh đạo đứng đầu đất nước
hiện nay đều biết rõ cái “tẩy” bá quyền nước lớn của Trung Quốc là nguy
hại cho đất nước như thế nào, cũng như đều hiểu rõ nhu cầu bức thiết cần
phải cải cách thể chế chính trị cho hợp với kinh tế thị trường theo một
lộ trình tiệm tiến thích hợp, nhưng như tôi đã nói trong một bài viết
trước (“Nhà đương cuộc cộng sản
Việt Nam không phạm sai lầm và cũng không đổi mới”, đăng
Vietstudies, 25.6.2020), “người CS Việt Nam vừa là tội đồ, vừa là nạn
nhân của chính họ, bị mất hết mọi quyền tự do!”, nên biết đó mà chẳng ai
dám ho he, buộc phải né tránh nhiều thứ sự thật, do khiếp sợ trông thấy
tấm gương tày liếp vết xe đổ vào năm 1990 của Trần Xuân Bách, khi nhân
vật ủy viên Bộ Chính trị này can đảm dám nói lên trước những người đồng
sự khác về đa nguyên đa đảng! Quả thật là đại bi kịch của một thể chế
chính trị không có tự do dân chủ!
Nhưng trước thực tế bức
bách hiện nay, không cho phép cứ ù lì mãi được. Do sự dồn tích mâu thuẫn
từ những yếu tố bất lợi kéo dài trong hơn nửa thế kỷ, Việt
8.12.2020
|