Tản Mạn Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc
Từ
Câu Chuyện Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông
Trần
Văn Chánh
Tản mạn về hòa giải hòa hợp dân tộc trong khoảng thời gian này, gần nửa
thế kỷ sau khi chấm dứt cuộc chiến tranh tàn khốc 30 năm đi đến thống
nhất hai miền Nam, Bắc, tôi
xin khởi đầu từ câu chuyện qua đời của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông tháng 2
năm 2018 vừa qua.
Nguyễn Văn Đông là nhạc sĩ miền Nam, từ lâu
nổi tiếng với những ca khúc Chiều
mưa biên giới, Phiên gác đêm
xuân, Mấy dặm sơn khê,
Sắc hoa màu nhớ… Ông còn là
soạn giả hoặc đạo diễn của khoảng 50 vở tuồng cải lương nổi tiếng, như
Nửa đời hương phấn, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng,
Đoạn tuyệt, Tướng
cướp Bạch Hải Đường ...
Vì nguyên là đại tá Cục trưởng Cục An ninh
Quân đội VNCH, thuộc “bên thua cuộc”, ông được đưa đi học tập cải tạo
đến năm thứ 11 khi gần chết mới được cho về, may sao được gia đình chăm
sóc phục hồi sức khỏe, thoát chết, nhưng từ đó ông hoàn toàn im lặng,
không hề phát biểu phê phán tiếng nào đối với chế độ mới, từ chối mọi
cuộc phỏng vấn của một số nhà báo, kể cả những chương trình trực tiếp
ghi hình ở hải ngoại. Cũng không đi xuất ngoại theo diện HO, mà ở lại
với quê hương, sống lặng lẽ trong sự thanh bần với cửa hàng tạp hóa
khiêm tốn của gia đình ở đường Nguyễn Trọng Tuyển, TP. HCM, và mất ngày
26.2.2018, thọ 86 tuổi.
Trong bối cảnh hậu chiến, nhạc sĩ Nguyễn Văn
Đông có lẽ đúng là một trong những người Việt yêu nước, trong sạch tiêu
biểu, xứng đáng được nêu ra để làm gương cho tinh thần hòa giải hòa hợp
dân tộc! Vì ông đã tự giác hơn ai hết xóa bỏ quá khứ, hận thù, chấp nhận
sống vui với những gì đang có.
Trước đó, Nguyễn Văn Đông tuy là người lính
VNCH (cấp bậc đại tá, không phải “tâm lý chiến” như người ta đồn đại),
nhưng nhạc ông toàn mang dấu ấn phản chiến làm nhụt ý chí binh sĩ. Cá
nhân ông vốn có cái nhìn đối lập với cuộc chiến, nên năm 1961 Bộ Thông
tin chế độ Sài Gòn đã ra lệnh cấm phổ biến hai nhạc phẩm
Chiều mưa biên giới và
Mấy dặm sơn khê, và bản thân
tác giả cũng đã từng bị trừng phạt, cho ngưng chức một thời gian dài
(theo Trần Hữu Ngư, Ủa, sao kỳ lạ
vậy?, NXB Mỹ Thuật, 2016, tr. 134). Như vậy về
mặt khách quan, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã gián tiếp góp công không nhỏ
cho “bên thắng cuộc”, bởi tính ra về mặt quân sự ông chẳng có thành tích
gì đáng được nhắc tới trong chuyện hành quân chống cộng, trái lại chỉ vô
tình hay cố ý tuyên truyền cho lính hoặc người sắp đi quân dịch phe mình
bị nhũn đi không còn muốn đánh đấm gì nữa, khi ông cho họ nghe hàng ngày
những lời nhạc văng vẳng khắp hang cùng ngõ hẻm suốt thời gian dài, được
chuyển tải một cách truyền cảm bởi một số ca sĩ tài danh một thời: “…
Lòng trần còn tơ vương khanh
tướng, thì đường trần mưa bay gió cuốn còn nhiều anh ơi…” (Chiều
mưa biên giới, 1956). Hoặc: “Chốn
biên thùy này xuân tới chi?/ Tình lính chiến khác chi bao người/ Nếu
xuân về tang thương khắp lối/ Thương này khó cho vơi, thì đừng đến xuân
ơi!” (Phiên gác đêm xuân,
1956).
Sau khi đi học tập cải tạo hơn 10 năm trở về,
Nguyễn Văn Đông đã trở thành một công dân tốt, nếu không nói quá tốt. Ấy
vậy mà khi ông qua đời đầu năm nay, gia đình cho đăng cáo phó trên mục
quảng cáo báo chí, đã có hai tờ báo lớn ở TP. HCM từ chối không đăng!
Những người biết chuyện đều cho việc từ chối đăng cáo phó là một thái độ
nhỏ nhen hèn kém, không biết phân biệt phải quấy (không biết câu “nghĩa
tử là nghĩa tận”) của anh em làm báo, nhưng dường như đây không phải lỗi
riêng của họ, vì sự thù dai thù vặt kiểu chủ nghĩa lý lịch hèn kém vốn
đã được truyền từ trên xuống, thâm nhiễm trong các cấp chính quyền lớn
nhỏ, và có tính hệ thống. Tôi được biết cựu dân biểu Dương Văn Ba của
chế độ cũ khi qua đời tháng 11 năm 2015 cũng gặp một trường hợp tương
tự. Tuy nhiên, điều quan trọng là từ sự kiện bề ngoài trông nhỏ nhặt
này, những người có lương tâm trong bộ máy chính quyền hiện tại sẽ phải
suy nghĩ thêm về thực chất thái độ hòa giải hòa hợp dân tộc của “bên
thắng cuộc”, và nhớ lại cho kỹ hơn lời nói 13 năm về trước của cố thủ
tướng Võ Văn Kiệt, khi năm
2005 ông nhắc lại chiến thắng nhân dịp kỷ niệm ngày 30.4: “Một
sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui,
mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc,
cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”.
Nhưng hòa
giải hòa hợp dân tộc phải có điều kiện và cũng phải xuất phát từ thiện
chí hai phía, trên cơ sở xóa bỏ quá khứ hướng về tương lai, từ đó không
còn mọi thứ mặc cảm, cả tự tôn lẫn tự ti.
Cho đến hiện
nay, trừ những ý kiến phê phán nghiêm chỉnh của một số trí thức Việt
kiều hải ngoại có gốc “cách mạng” (như Bùi Tín…) hay “ngụy quyền” đối
với chế độ CS Việt Nam, không ít cá nhân người Việt ở nước ngoài vẫn còn
hậm hực chửi càn CS và tôn vinh chế độ cũ VNCH là có lý do chính đáng
của họ, bởi gia đình họ phải trực tiếp chịu đựng quá nhiều nỗi đắng cay
khi còn là “thuyền nhân” di tản trong cuộc chuyển hình kỳ lịch sử, và
cũng vì trông thấy các nhà đương cuộc Việt Nam liên tiếp phạm phải nhiều
chính sách sai lầm cả về kinh tế lẫn chính trị,
nhưng đây dường như không phải là hành động sáng suốt thức thời
vụ, cần thiết cho một nước Việt Nam đang cần có sự đoàn kết gắn bó chặt
chẽ để vừa phát triển, vừa đối phó hiệu quả với những khó khăn nguy hiểm
từ bên ngoài đưa lại.
Trên thực
tế, lịch sử đã sang trang. Điểm lại sẽ thấy, cách chống cộng của VNCH
khá văn nghệ tài tử, nên không thua mới lạ. Luật pháp ngăn cấm tuy có đó
nhưng áp dụng không nghiêm vì còn có sự ràng buộc của Hiến pháp với
nguyên tắc phải tôn trọng tự do dân chủ, và người ta cứ thoải mái sáng
tác/ ca hát nhạc vàng, nhạc phản chiến; báo chí khuynh tả hoạt động công
khai đầy rẫy (như các tờ Tin Văn,
Hành Trình,
Đất Nước,
Đối Diện…); văn học các thể
loại thì trừ văn học thông tin tuyên truyền do nhà nước bảo trợ, hầu như
không có bài văn bài thơ nào cổ vũ cho việc đánh nhau, trái lại chỉ
“chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện”... Thể loại bút ký phát
triển mạnh trong giai đoạn chiến tranh ác liệt (1965-1975) nhưng chỉ mô
tả toàn những chuyện đau khổ trong chiến tranh, đầy khóc thương ai oán
(như Dấu binh lửa của Phan
Nhật Nam, Nhật ký của người chứng
của Thái Lãng, Giải khăn sô cho
Huế của Nhã Ca…). Quân đội thì trừ một số muốn tiến thân trên đường
binh nghiệp, trở thành tướng tá, hầu hết đều đi đánh trận một cách bất
đắc dĩ (kiểu người lính-nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông vậy), ai cũng sợ chết.
Không ít lính VNCH còn rất thông cảm trong cùng cảnh ngộ với người lính
Bắc phương, như khi Phan Xuân Sinh viết: “Người
lính nào mà chẳng rét lúc ra quân/ Khi lâm trận mà không té đái”
(“Uống rượu với người lính Bắc phương”, 1972).
Cũng nhà thơ
Phan Xuân Sinh, sau hơn 30 năm trở lại thăm quê nhà, ngồi uống rượu đế
với người lính già mới quen gốc Việt cộng, đã cảm hứng viết tiếp với
giọng điệu cảm thông như cũ: “Người
lính già bên kia chiến tuyến, gật gù say/ Tôi thầm cám ơn viên đạn, anh
em tôi bắn trật/ Nên ông còn sống sót cùng tôi đối ẩm/ Chúng tôi nghẹn
ngào chia xớt nỗi lòng nhau” (“Người lính già, bên kia”, 2011).
Tướng lãnh
cấp cao VNCH có người còn ăn chay niệm Phật, thiền định, như các ông Cao
Văn Viên (Tổng tham mưu trưởng), Trần Văn Chơn (Đề đốc, Tư lệnh Hải
quân), Nguyễn Khoa
|