LUẬT QUỐC TẾ:
Tạ Văn Tài, Ph.D.
Vào thời đại xa xưa, mà
Đại Việt còn là tiểu quốc đơn độc tại Đông Nam Á trước đại cường phía
Bắc, sức mạnh quân sự thiên hẳn về
cường quốc phuơng Bắc, nhưng tinh thần dân tộc kiên cường đã đã chiến
thắng bọn xâm lược : vua quan và nhân dân Nhà Trần đã đại thắng, đẩy lui
nhiều cuộc tấn công của quân Nguyên,
và Lê Thái Tổ và các sĩ phu giỏi như Nguyễn Trãi và cùng quân sĩ đã
trường kỳ kháng chiến chống quân Minh, kết thúc bằng tuyên ngôn độc lập
vang dạy Bình Ngô Đại Cáo,“ĐEM ĐẠI NGHĨA ĐỂ THẮNG HUNG TÀN, LẤY CHÍ NHÂN
MÀ THAY CƯỜNG BẠO”.
VIỆT NAM
CẦN SỬ
DỤNG TỐI ĐA CHÍNH NGHĨA LUẬT QUỐC TẾ ĐỂ BẢO VỆ QUYỀN VỀ BIỂN ĐẢO TẠI
BIỂN ĐÔNG, Y NHƯ TUYÊN NGÔN BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO: Áp dụng gương sáng và bài
học lịch sử đó cho sự bảo
vệ chủ quyền biển đảo hiện nay chống
tham vọng Đại Hán của Trung quốc-- tức là nếu vận dụng sức mạnh chính
nghĩa của luật pháp quốc tế và do đó, sẽ có thêm sự ủng hộ ngọai giao
của thế giới, thì Việt Nam ngày nay, đang có nhiều cường quốc bạn trong
nền ngọai giao đa phương và Việt Nam cũng từng là nước hộị
viên và chủ tịch Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, lại được
tuyệt đại đa số nhân dân trong nước và hải ngoại ủng hộ việc cương nghị
với Đại hán để bảo vệ chủ quyền Biển Đảo--thì chắc Việt Nam không thể bị
thua thiệt, bị Trung quốc lấn át được, cho dù Trang quốc, những năm gần
đây, cứ thỉnh thoảng lại có hành vi hung hãn như đâm vỡ ngư thuyền của
dân chài Việt Nam, bắt giam họ mà
đòi tiền chuộc, đem
hạm đội tầu cá và hải giám của họ ào ạt vào Biển Đông,đem giàn khoan vào
thềm lục địa Việt Nam
Lãnh đạo
cao cấp có thể dùng ngôn ngữ ngoại
giao, lịch sự để cố duy trì hòa bình hữu nghị,nhưng phải để cho các nhân
viên ngoại giao cấp dưới và cố vấn
luật pháp dùng những lý luận cương nghị nhất trong cuộc đấu tranh pháp
luật, mà trên diễn đàn quốc tế bây giờ thường gọi là lawfare , như là
khí giới quan trọng ngang hàng với chuẩn bị warfare/ chiến tranh, nếu
cần.Vì nếu có căn bản pháp luật vững chắc cho lập trường của mình, thì
một quốc gia mới có thể tìm được các sự ủng hộ về mặt chính trị-ngoại
giao của các nước bạn, tức là có nhiều sức mạnh mềm (soft power) để củng
cố vị thế của mình, trước khi phải bất đắc dĩ dùng đến sức
mạnh quân sự trong
việc tự vệ đơn phương hay tập thể (defensive warfare, collective
defense), theo đúng Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, đúng theo nguyên tắc
exhaustion of peaceful remedies (Tận dụng các biện pháp hòa bình)
Xin đề nghị
một chương trình hành động để
Việt Nam bảo vệ chủ quyền đất đai (sovereignty on territories) của Việt
Nam tại Hòang Sa và Trường Sa, sau khi có biến cố quan trọng là Phán
quyết năm 2016 của Tòa Án Trọng Tài Luật Biển trong vụ Phi Luật Tân kiện
Trung quốc,tuy bản án phần lớn là đưa ra các kết luận về vùng biển
(maritime areas), hơn là về điểm nước nào làm chủ vùng đất đai nào
(sovereignty over territories, tức đảo,đá).
Trong những
năm trước khi có bản án 2016 của Toà Án Trọng Tài Luật Biển trong vụ Phi
kiện Trung Quốc, thì chúng
tôi đã có những nỗ lực giúp cho quyền và lợi ích của Việt Nam
trong những bài viết và phát biểu cho các hội thảo quốc tế về
Biển Đông tại Việt Nam ,ở Quảng Ngãi 2013, ở Đà Nẵng
2014 (dịp Trung Quốc đem giàn khoan vô vùng biển Việt Nam), ở Nha Trang
2016, ở Harvard University nhiều lần, ở
University of California, Berkeley 2014 và ở Yale University
(phải nói,riêng hội thảo chỗ này sảy ra năm 2017) ,và chúng tôi cũng có
các dịp trả lời cho phỏng
vấn tại Vô tuyến Truyền hình Việt Nam VTV4 hay Báo Quân Đội Nhân Dân hay
Saigon Kinh Tế Thời Báo trong các dịp các hội thảo trên, hay trả
lời
phỏng vấn trên Radio Free Asia, Radio
France Internationale, Voice of America. Ngoài
ra, có hai lần hội thảo quốc tế về
phân định biên giới vùng biển và kỹ
thuật khoan dầu biển khơi
tại Houston, năm 2010 và 2012, trong đó chúng tôi không đóng góp bài
tham luận, nhưng có đứng lên chất vấn
đại diện Sở Đại Dương Trung Quốc và Công Ty China National Offshore Oil
Corporation về những phát biểu sai pháp luật quốc tế của họ.
Trong các
dịp dự các hội thảo quốc tế
hay trả lời phỏng vấn trên, chúng tôi đã cố
gắng trình bày chi tiết, ít hay nhiều tuỳ dịp,
là Chủ quyền lãnh thổ của
Việt Nam tại phần lớn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (không phải
là trên tất cả các đá, bãi ngầm) và
các quyền chủ quyền
(sovereign rights,
về tài nguyên) đi liền với các vùng biển chung quanh chúng,
mà luật quốc tế dành cho Việt Nam, thì được xây trên các
căn bản chắc chắn của các chứng
cớ sự kiện lịch sử và các nguyẽn tắc của quốc tế công pháp truyền thống
và của luật quốc tế mới trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
(United Nations Convention on the Law of the Sea, UNCLOS).
Ngòai các
lời biện hộ cho Việt Nam dựa trên căn bản các sự kiện lịch sử và các
luận cứ pháp luật, chúng tôi có nhắc đến một sự kiện được một luật sư
lãnh đạo đoàn
luật sư của Phi Luật Tân tại Toà Luật Biển là ông Francis
Jardeleza,trong hai lần ổng đến Harvard thuyết trình, có nói lại với tôi
là chính phủ Phi Luật Tân ,
năm 2014, có rủ Việt Nam, và Malaysia nữa,
cùng nạp đơn kiện Trung Quốc, sau khi Phi đã nghĩ kỹ về
giải pháp thương nghị để giảm
thiểu sự lấn lướt trong 17 năm của
Trung Quốc , mà Phi cố gắng mãi không xong, nhưng Việt Nam rút
cục chỉ nạp một bài ý kiến dự sự để yêu cầu Tòa để ý đến quyền
lợi của Việt Nam. Rút cục thì Phi Luật Tân đã thắng vẻ vang tại Toà Luật
Biển năm 2016 mà Việt Nam thì hụt mất một cơ hội để có một bản án về
quyền lợi của mình trong đó mình đã tham gia với tư cách nguyên
đơn . Còn nếu chỉ có một văn thư xin Toà để ý cho mình, thì Việt
Nam không có một bản án thắng Trung Quốc mà từ đó trở đi có thể dán lên
ngực đại diện Trung quốc mỗi khi phải đương đầu với họ, với luật pháp
quốc tế do tòa phán quyết, như một khí giới đại nghĩa thắng được sự hung
tàn. Luận cứ luật pháp là sức mạnh của kẻ yếu về quân sự, cần vận dụng
tối đa, ngòai sự vận dụng ngọai giao và ủng hộ của các cường quốc
mạnh về quân sự. Chính cái
thành ngữ tiếng Việt “ đinh đóng cột” mà
tôi đã nói trên radio trong câu “quyền lợi trong Vùng Đặc Quyền
Kinh Tế và Thềm Lục Địa của các nước cận duyên như Việt Nam đã được luật
quốc tế minh định chắc chắn như 'đinh đóng cột' ”,đã được một ông Trung
quốc trong Đài Á Châu Tự Do nhắc lại
và nói là nghe tôi nói trong đài Á Châu Tự Do và muốn hỏi lại tôi điều
này, điều kia về quan điểm về quyền lợi Việt Nam.
Vì những
trải nghiệm trên, chúng tôi càng có xác tín là cần phải xây dựng trên
cái đà chiến thắng của luật pháp quốc tế , tượng trưng bởi
Bản án 2016 của Toà Trọng Tài trong vụ Phi kiện Trung quốc,mà suy ra
Việt Nam có thể dựa trên bản án đó mà củng cố thêm quyền lợi và thế đứng
chính nghĩa của mình ra sao.
Không thể
có chỗ ở đây để nhắc lại tất cả các chi tiết về các luận cứ pháp lý, về
chủ quyền đất đai (sovereignty over land features) và quyền chủ quyền
trong các vùng biển (sovereign rights in the maritime zones , EEZ và
Continental Shelf), mà chúng tôi đã đua ra trong các bài tham luận
đóng góp cho các Hội thảo Quốc tế suốt từ 2010 cho đến 2017.
Vi thế ở thời điểm 2018 này, chỉ xin đề nghị là chỉ xây đắp luận
cứ pháp lý cho Việt Nam dựa trên biến cố trọng đại gần đây mà thôi, tức
là Bản Án Tòa Trọng Tài 2016 trong vụ kiện Phi chống Trung quốc..
Xin suy ra
các hệ luận từ bản án đó trong vụ Phi kiện Trung quốc
cho vấn đề chủ quyền đất đai
của Việt Nam .
Đây
là làm một việc mà đạo đức nghề nghiệp luật sư (code of
professional ethics) khuyến khích như một sứ mạng : cố kéo dài luật pháp
(extension of the law) để nhấn đến mức tối đa lợi ích của của người hay
quốc gia mình biện hộ . Ngay cả nước ưa dọa dùng võ lực và cũng đã dùng
võ lực là Trung Quốc cũng phải đồng ý, dù là đồng ý
miễn cưỡng, với các
nước Đông Nam Á là nên biến các quy tắc ứng xử nhiệm ý ở Biển Đông
(Declaration of Conduct) thành một Bộ luật Ứng xử (Code of Conduct),
với giá trị cưỡng hành
để có chính nghĩa
của luật pháp có hiệu lực bó buộc.
Bản án
Trọng tài về việc Phi kiện Trung Quốc
ngày 12 tháng 7,2016 của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực ( Permanent
Court of Arbitration) là một bản án tuyên phán về ý nghĩa luật pháp và
không có hiệu lực cưỡng hành về mặt buộc một quốc gia phải hành động gì
đó, nhưng bản án không
kháng cáo được mà là chung quyết và
bó buộc các phe dương tụng về mặt thẩm quyền xét xử ( compulsory
jurisdiction) --dù Trung quốc lờ Tòa án đi, mà chỉ làm một bài viết bên
ngòai Toà án, không xuất hiện mà nạp Tòa . Nó là một chiến thắng vẻ vang
của Phi, mà các quốc gia có tình trạng tương tự như Phi được hưởng lợi
về sự giải
thích luật của bản án, và là một sự thất bại ê chề của Trung quốc trong
tham vọng quá đáng xác nhận bừa chủ quyền trên một khỏang đại dương quá
lớn trong Biển Nam Hải (South China Sea), gọi là Vùng Đường 9 đọan hay
Đường Lưỡi Bò. Khi Toà bàn về
các vấn đề dưới ánh sáng của Công Ước Luật Biển (United Nations
Convention on the Law of the Sea –UNCLOS) năm 1982, Bản án của Tòa không
xét đến các lời yêu sách, xác nhận chủ quyền
về đất đai (territorial sovereignty) về đá (rocks ) và đảo (islands) có
trong Hòang Sa và Trường Sa, vì chuyện
chủ quyến đất đai thuộc lãnh
vực của Luât Quốc Tế
Truyền Thống hay Tập Tục (Traditional or Customary International Law) đã
có từ 4 thế kỷ. Nhưng Bản án có ảnh hưởng gián tiếp tới việc định nghĩa
đặc tính của các mỏm đất (land features) đó.
Vì thế, sau
đây sẽ xin trình bày ảnh hưỡng
của Bản Án đối với quyền lợi của Việt Nam trong Biển
Nam Hải, về các mỏm đất trong Hòang Sa và Trường Sa
I. TÓM LƯỢC NỘI DUNG BẢN ÁN TRỌNG TÀI , MÀ PHẦN LỚN NÓI VỀ VÙNG BIỂN.
Bản Án
ban cho Phi một chiến thắng pháp lý rõ rệt, dựa trên các quy tắc
luật về vùng biển (maritime zones) trong UNCLOS: Trung Quốc không thể
dùng Đường Chữ U (Lưỡi Bò) mà đòi
chủ quyền lịch sử trên 80% diện tích Nam Hải,
phải từ bỏ sự quấy phá như đã làm,
mà phải tôn trọng quyền chủ quyền (sovereign rights) chuyên độc
của Phi Luật Tân về tài nguyên cá, dầu khí, khóang sản trong Vùng Đặc
Quyền Kinh Tế (Exclusive Economic Zone) vả Thềm Lục Địa (Continental
Shelf) của Phi, và không được làm hại tới mức vô phương cưú chữa, như đã
làm, gây ra cho sự tòan vẹn của môi sinh đại dương. Các điểm thắng lợi
pháp lý này của Phi cũng có lợi cho các quốc gia cận duyên khác, như
Việt Nam, mà họ không phải nạp đơn trong một vụ kiện mới nào, ví giải
thích của Toà là áp dụng cho mọi quốc gia trong UNCLOS.
Chúng tôi
đã viết bài nhận định về
Bản án Tòa Trọng Tài cho Hội Thảo tại
Nha Trang vào ngày 17 tháng 8,2016, hội thảo năm 2016 này là nỗ lực
của Việt Nam tiếp tục đẩy tiến thêm
các kết quả của các hội thảo tại Quảng Ngãi năm 2013 và Đà Nẵng
năm 2014.
Vì thế
trước hết, xin ghi lại vài đọan của các tham luận cho hai hội thảo trước
2013 và 2014 , để cùng thấy rõ là may thay, các kết luận hay quan điểm
đưa
ra trong các bài tham luận
2013 và 2014 đó , đã được tuyên nhận trong Bản Án Trọng Tài năm 2016 về
vụ Phi kiện Trung Quốc:
'China cannot show any
international law basis for this ridiculous claim [on maritimes zones in
the U-Line] and has been self-contradictory at international conferences
when providing various vague rationales for this claim: “historical
circumference”or “adjacent waters”. But such sweeping and unfounded
claims are clearly in violation of the other Southeast Asian coastal
states' claims on their own territorial seas of 12 miles, their
exclusive economic zones and their continental shelves of 200 miles
width measuring from the base line. In these maritime zones, the coastal
states are protected in the exercise of their exclusive sovereign rights
under the 1982 UN Convention on the Law of the Sea (UNCLOS),
articles 56,57,76,and 77. These sovereign rights over natural
resources are exclusive to the coastal states, which they can enjoy
without being required to proclaim a claim to them, and they may
construct artificial structures on rocks, whether submerged or not, into
artificial islands, and carry out sea research, regulate protection of
environment, provided that they respect the rights of other states to
freedom of navigation or to laying of oil pipelines or cables. Other
states than the coastal states cannot exploit natural resources in the
EEZ and Continental Shelf of the coastal states without their explicit
consent. UNCLOS has reserved these exclusive rights to coastal states as
firmly as 'nail hit into a wooden pole' (as we say in the Vietnamese
proverb: “chắc như đinh đóng cột”). The U-shaped line, which claims vast
ocean areas for China, is unsupported by UNCLOS (article 89 says “No
State may validly purport to subject any part of the high sea to its
sovereignty”)'.
“ Trung
Quốc không đưa ra được căn bản luật quốc tế nào cho sự nhận vơ này [ về
Đường 9 đọan chữ U], mà còn mơ hồ hay mâu thuẫn trong lúc biện giải tại
các hội nghị quốc tế, khi thì nói đến “vòng cung lịch sử” (historical
circumference), khi thì nói đến các “vùng biển lân cận” (adjacent
waters) tính từ các đảo/đá của Hoàng Sa và Trường Sa . Nhưng các yêu
sách quá đáng và vô căn cứ này trái với quyền của các quốc gia cận duyên
Đông Nam Á (quanh Biển Đông) trong vùng
lãnh hải (territorial sea) 12
hải lý và trong vùng đặc quyền
kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ)
cũng như ở thềm lục địa
(Continental Shelf, CS) tính từ
đường cơ sở ra 200 hải lý. Các quyền chủ quyền về tài nguyên, tài
nguyên sinh vật như cá sống trong vùng nước 200 hải lý đó, cũng như tài
nguyên vô sinh như dầu khí và khoáng chất dưới đáy biển, là các
quyền chuyên độc hay
dành riêng (exclusive rights)
của các quốc gia cận duyên, mà họ được hưởng mà không cần ra tuyên bố
xác lập.( UNCLOS, các điểu 56,57,76,77) Các quốc gia cận duyên có quyền
xây các kiến trúc nhân tạo trên các đá, dù nhô trên mặt nước biển hay
ngầm, thành các đảo nhân tạo, thi hành nghiên cứu biển, quy
định việc bảo vệ môi sinh, miễn là họ tôn trọng các quốc gia khác khi họ
sử dụng quyền tự do lưu thông hải hành (freedom of navigation) hay đặt
các ống dẫn dầu và cáp ngầm. Các quốc gia khác đó không có quyền khai
thác tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của các quốc gia cận duyên, nếu không có sự ưng thuận minh thị của các
nước cận duyên. Thực là UNCLOS dành các quyền chuyên độc cho các nước
cận duyên một cách chắc chắn như “đinh đóng cột”.Đường “đường 9 đoạn”
yêu sách vùng biển rộng lớn cho Trung Quốc,là
hoàn toàn trái với UNCLOS (Điều 89 của UNCLOS nói “yêu sách chủ
quyền trên biển cả là vô giá trị”).
Sau sự phản
đối của Trung quốc về thẩm quyền bó buộc của Tòa Trọng Tài khi vụ kiện
được đệ nạp vào năm 2013 và về sự không công nhận phán quyết chung kết
về các vấn đề nội dung vào
tháng 7-8,2016, được nêu ra bởi nhiều cấp bậc Chính quyền
Trung quốc, từ Chủ Tịch Tập, đến ngọai trưởng, và phát ngôn nhân, thì
chính ra nước Tàu đã có thái độ trầm lặng đối với bản án (vài học giả
còn nói nên công nhận một vài khía cạnh của bản án) và hình như Trung
Quốc không sẵn sàng thực thi các đe dọa như xây cất thêm ở Vùng Bãi cạn
Scarborough hay các đá ngầm khác, hay lập Vùng Nhận Dạng Phòng
không ( Air Defense Identification Zone-ADIZ)
tại Biển Đông. Hình như Trung quốc thiên về thương nghị, như
chính đại sứ Trung Quốc ở Mỹ nói, và thiên về đấu tranh pháp lý: không
còn nói tới rút lui khỏi UNCLOS, Tòa Án Tối Cao Trung Quốc đưa ra một
quyết nghị chống lại Tòa ở Hague, tức là Trung quốc thấy cuộc chiến tốt
hơn là cuộc đấu pháp lý (lawfare).
Do đó, ta
nên chú trọng đến các luận cứ pháp lý trong chương trình sau đây cho
Việt Nam, dù ta thấy có thể phải có chiến lược khác nữa là các cường
quốc có hải quân mạnh, như Mỹ, có thể giúp củng cố cho cuộc đấu pháp
luật với vài sự đe dọa võ lực khả tín nào đó, như dưa hàng không mẫu hạm
tới Biển Đông, gần các mẩu
đất có tranh .chấp.
I I.
ẢNH HƯỞNG CỦA BẢN ÁN 2016 ĐỐI VỚI
VIỆC ĐỊNH
NGHĨA TÌNH TRẠNG PHÁP LÝ CỦA CÁC MẨU
ĐẤT Ở TRƯỜNG SA VÀ CÓ THỂ CẢ Ở
HÒANG SA.
Bản Án ngày
12 tháng 7, 2016 giải
thích như sau về đặc tính của các mẩu
đất tại Trường Sa: tất cả các mẩu đất đó thì (a)
hoặc là đá (rocks) (tức là thực thể nổi trên mặt nước lúc thuỷ
triều lên cao, nhưng không phải là đảo theo định nghĩa của UNCLOS, tức
là khi ở trong trạng thái thiên nhiên nguyên thuỷ, nó có nước ngọt
và động, thực vật cho con người có thể sống trong một nền kinh tế
tự chủ ), (b) hoặc là các thực thể chỉ thấy nhô lên khi thuỷ triều xuống
hoặc là chìm khi nước lên. Đá thì có lãnh hải 12 hải lý bao quanh, nhưng
các thực thể chím hay chỉ thấy lúc nước xuống thì không có lãnh hải đó.
Đó là nguyên tắc luật pháp : “đất ngự trị biển”. Chắc hẳn định nghĩa
pháp lý này của Tòa Án cũng áp dụng cho các đá và đá chìm ở Hòang Sa .
Do đó chúng tôi đề nghị là Việt Nam nên khởi động một vụ kiện tại Tòa
Trọng Tài, y như vụ Phi Luật Tân, để xác lập tình trạng pháp lý của các
thực thể ở Hòang Sa—mà Việt Nam vẫn tuyên nhận chủ quyền, chống sự xâm
lược của Trung Quóc đã từ nhiều năm, trong đa số các thực thể đó--đều là
đá, chứ không phải là đảo.
Khi Tòa
tuyên bố là không thực thể nào ở Trường Sa là có thể cho con người cư
ngụ được trong trạng thái thiên nhiên, thì hệ luận là không thực thể nào
là đảo theo định nghĩa trong UNCLOS, mà có thể hưởng được vùng kinh tế
đặc quyền (Exclusive Economic Zone,EEZ) có bề rộng 200 hải lý.
Lời gỉai
thích, tuyên nhận này của Tòa có hậu quả là bác bỏ giá trị pháp lý, thực
ra không có, của luận cứ Trung quốc vẫn đưa ra để gây tranh chấp : đòì
hỏi vô căn cứ pháp lý là có một vùng Thềm Lục Địa hay Vùng Kinh Tế Đặc
Quyền rộng 200 hải lý tính từ đường
cơ sở của các mỏm đá, mà
Trung Quốc tự định nghĩa là đảo.
Trong hai
Hội thảo Quốc tế ở Quảng Ngãi, 2013 và Đà Nẵng, 2014, chúng tôi đã đưa
ra trong các bài tham luận cái đề nghị giống như tuyên phán năm 2016 của
Tòa Trọng Tài, để tiến tới một giải
pháp trong đó giảm được tranh chấp do
yêu sách đòi quá đáng một vùng
biển rộng hơn là 12 hải lý của lãnh hải (territorial sea)
[ For Paracels] We can
ask the Arbitral Tribunal of the Law of the Sea to use the compulsory
procedure to interpret and apply UNCLOS,(articles 186,288) and to issue
a declaratory judgment to the effect that all land features in Paracels,
such as Tri Ton , or even Woody, do not satisfy the conditions for
qualification as islands in accordance with article 121 of UNCLOS.
Islands must, in their original state of nature, have adequate
conditions for human habitation and self-sustaining economy (such as
soft water, food raised or planted locally—if only coca-cola is
available for drinking, as a Malaysian scholar joked, then it is not
island). If not island, then a land feature can only be a reef or rock
(article 121, section 3). If only a rock, it has no exclusive economic
zone or continental shelf, but only the 12-mile territorial sea (article
121, section 3). If island, the land feature would then have territorial
sea, contiguous zone, exclusive economic zone, and continental shelf. In
front of the Arbitral Tribunal of the Law of the Sea, Vietnam can sue
under the compulsory procedure to drag China into the tribunal which
would interpret and apply UNCLOS (articles 286,288) and hear Vietnam's
presentation of historical evidence of many centuries on the necessity
of Hoang Sa flottilla to bring soft water and food on its expeditions to
Hoang Sa, and then to withdraw back to the mainland for not being able
to live there all year round, in a self-sustaining economy. Therefor, at
the present moment, China
cannot ask for the status of island for any land feature in Paracels,
despite its construction of artificial structures thereon, or for any
recognition of exclusive economic zone and continental shelf emanating
from any land feature in Paracels.
[Về Hòang
Sa] Việt Nam có thể xin Tòa án Trọng tài Quốc tế về Luật Biển , theo
thẩm quyền bắt buộc về giải thích và áp dụng UNCLOS (điều 186,288),
ra một bản án tuyên nhận (declaratory judgment) rằng tất cả các
hòn như Tri Tôn hay ngay cả Phú Lâm tại Hoàng Sa, đều không hội đủ điều
kiện để là đảo theo định nghĩa của Điều 121 của UNCLOS. Đảo phải là nơi
mà trong trạng thái thiên nhiên nguyên thuỷ, có đủ điều kiện hỗ trợ cho
đời sống con người và một nền kinh tế tự túc (như có nước ngọt, thực
phẩm nuôi và trồng tại chỗ - nếu chỉ có cocacola thay nước như một học
giả Malaysia nói đùa, thì không phải là đảo); không đủ điều kiện là đảo
thì chỉ có thể là đá (reef, rock) theo khoản 3 của Điều 121. Và nếu là
đá thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở chung quanh, mà
chỉ có lãnh hải 12 hải lý (theo khoản 3, Điều 121). Còn nếu là đảo thì
có các vùng nước chung quanh như lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải
(Contiguous Zone), vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giống như lục
địa vậy. Trước Tòa án Trọng tài Quốc tế về Luật Biển, Việt Nam có thể
theo thủ tục bắt buộc (compulsory procedure) để kéo Trung Quốc ra tòa,
mà yêu cầu tòa dùng thẩm quyền giải thích và áp dụng UNCLOS (Điều 286 và
Điều 288), để Việt Nam trình bày được chứng cứ lịch sử của nhiều thế kỷ
về hoạt động của đội Hoàng Sa trước đây hàng năm đi ra quần đảo đều phải
mang nước ngọt và thực phẩm đi theo, rồi không sống quanh năm trong một
nền kinh tế tự túc được, và do đó, ngay bây giờ, Trung Quốc cũng không
đòi quy chế đảo cho Hoàng Sa được, và cũng không đòi vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa 200 hải lý cho Hoàng Sa được. Và do đó, vào năm 2014,
giàn khoan HD-981 đã xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của Việt Nam.
Chính những
người Trung quốc làm việc tại Hòang Sa trong những năm gần đây cũng phải
công nhận là Hòang Sa không đủ
nước ngọt do mưa cung cấp để con người có thể sống (nước giếng thì bị
cứt chim làm độc và do đó không uống được), mà cũng không có đủ rau trái
mà ăn, do đó phải ăn đồ hộp mang từ đất liền ra, và sau hết không có đất
trồng trọt. Do đó, mỗi tháng, phải tiếp tế đồ ăn và nước uống từ lục địa
(http://www.shtong.gov.cn/…/node839…/userobject1ai121797.html.
(http://baike.baidu.com/view/28617.htm).
Mở
rộng chiến thuật phản biện này sang các đá ở Trường Sa, mà minh chứng
tất cả các hòn ở đó đều là đá trong trạng thái thiên nhiên trước khi xây
các kiến trúc nhân tạo, thì có thể giảm thiểu nhiều sự tranh giành chủ
quyền của Trung Quốc trong vùng biển Trường Sa, vì dù Trung Quốc có
chiếm vài đá và đá ngầm, họ cũng không thể đòi gì rộng hơn 12 hải lý
lãnh hải quanh các đá đó (đá ngầm cũng không tạo ra lãnh hải, có xây
trên đó cũng không tạo thành đảo, và chỉ quốc gia cận duyên mới có quyền
xây trên đá ngầm - Điều 60 UNCLOS), không thể đòi vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa xuất phát từ các hòn đá; và “đường 9 đoạn” càng mất cơ
sở là có hòn đất nào đó để bám vào.
III . HỆ LUẬN CỦA BẢN ÁN
ĐỐI VỚI CHỦ QUYỀN
LÃNH THỔ CỦA VIỆT NAM Ở HAI QUẦN ĐẢO HÒANG SA VÀ TRƯỜNG SA
Một khi đã
mô tả các đặc tính vật lý của các đá, đá ngầm, hay đá nổi lên lúc thuỷ
triều xuống và định nghĩa tình trạng pháp lý của các thực thể đất đai ở
Hòang Sa và Trường Sa, ta còn phải
giải
quyết vấn đề này, là quốc gia nào có chủ quyền lãnh thổ trên các thực
thể đó. Vấn đề chủ quyền lãnh
thổ của Việt Nam trên các thực thể đất đai trong hai quần đảo thì do
Luật Quốc Tế Cổ Truyền hay Tục lệ quy định.
Trong hai
hội thảo quốc tế trước đây, năm 2013 và 2014, chúng tôi đã bàn về vấn đề
này như sau.
“Claims
of
sovereignty over each land feature in the Paracels and Spratleys must be
based on the customary/traditional/ classical rule of international law
of the last 4 centuries on acquisition of territorial sovereignty over
land
: a government wishing to establish a sovereignty claim over a land area
has to assert, after discovery or occupation, its intention to make such
claim, and to continue administering such area in peace, and if such
land area is taken over by another government through the use of force,
it has to protest in order to prevent the new authority to acquire
sovereignty by prescription, i.e. continuous and undisputed exercise of
sovereignty.
The historical facts about Vietnam's discovery and occupation of
Paracels , and also an unspecified number of land features in Spratleys,
dated back to centuries-old Vietnamese historical records, such as Phu
Bien Tap Luc (Frontier
Chronicles) of Lê Quí Đôn, while Chinese historical records did not
mention Paracels or Spratleys but stopped at Hainan as the southernmost
boundary of China; among these Chinese records is the detailed Kiangsi
emperor map of 1717 compiled by the French Jesuits, a copy of which ,
drawn by J.B.Bourguignon, was recently donated by German Chancellor
Merkel to Chinese President Xi Jin-ping. The Vietnamese historical
records under the emperors and under the French colonial rule show
Vietnam's repeated assertions of sovereignty over and administration of
both Paracels and Spratleys (which were named Hoang Sa and Truong Sa) .
Western travelers' and Christian missionaries' writings also confirmed
them.
During the existence of the two Vietnams from 1954 to 1975, the role of
asserting sovereignty over Paracels and Spratleys fell on the Republic
of Vietnam --RVN-- which was entrusted with the administration of
Paracels and Spratleys, situated south of the partition line of 17th
parallel, by the 1954 Geneva Accords, which was signed by a number of
big powers, including by China, and by the Democratic Republic of
Vietnam represented by Prime Minister Pham Van Dong himself.
But the most resounding
assertion of Vietnam's sovereignty over the Paracels was the valiant sea
battle the RVN navy fought on January 19, 1974 with China's navy which
was sent to occupy Hoang Sa—for a long time occupied and administered by
Vietnam-- after China's announcing sovereignty over Hoang Sa and Truong
Sa on January 12 and the RVN protested on January 16 with a request for
the United Nations Security Council to take action, which request was
repeated on January 20, for UN Security Council to hold an emergency
meeting . At the June 28,1974 UN Conference on the Law of the Sea in
Caracas, the RVN repeated its claim of sovereignty over the archipelagos
and its protest against illegal occupation by China. On September 24,
1975, at talks with a Vietnamese delegation on visit to China,
Vice-Premier Deng Xiao-ping admitted there was dispute between China
and Vietnam
on the archipelagos and suggested
discussion to settle the problem.
Ever since
the unification of the two Vietnams into one, many times the successor
state of Socialist Republic of Vietnam has protested whenever there was
an encroachment by China, by presenting historical evidence on the
sovereignty of Vietnam over Paracels and many territories in Spratleys ,
in declarations or white papers, in the years of
1978,1979,1980,1981,1982, 1984,1988 (protesting China's declared
incorporation of the archipelagos into Hainan), 1990,1991,1994
(protesting--- not China's territorial claim-- rather China's signing
agreement with Crestone permitting the latter to survey in Vietnam's
continental shelf and exclusive economic zone), 2012 ( protesting
China's overall plan for management of islands ). There was also action
in defense of Vietnam's sovereignty in 1988 when in supplying the
Vietnamese navymen standing in defense Vietnam-occupied Giac Ma in the
Spratleys, Vietnam
suffered 64 casualties. All these
words and acts claiming and defending sovereignty make it impossible for
China to erode Vietnam's
sovereignty by prescription.
During the
crisis of the oil rig HD-981, from May to July 2014, Vietnam
brought to the area surrounding
the rig many fishery inspection vessels, the maritime police or coast
guard, to demand withdrawal of the oil rig, so as to preserve
sovereignty and sovereign rights. Vietnamese fishermen continued to fish
in the proximity, despite the harassment of the Chinese vessels, keeping
a safe distance to avoid armed clash, with the purposes of earning their
livelihood and asserting national sovereignty in a self-controlled
manner.
This maneuver to preserve
Vietnamese sovereignty by words and deeds has kept intact the claim of
Vietnam
over Paracels and Spratleys and
avoided its erosion.”
Sự xác lập
chủ quyền đối với từng thực thể lãnh thổ trong Vùng Hòang Sa và Trường
Sa này phải dựa vào quy
tắc thủ đắc chủ quyền lãnh thổ của luật quốc tế truyền thống hay thông
lệ của 4 thế kỷ qua: một chính quyền của một quốc gia muốn xác
lập chủ quyền trên một vùng đất đai thì phải tuyên bố ý định đó, sau khi
khám phá hay chiếm hữu đất đai đó, và liên tục quản lý trong hòa bình,
và nếu bị một chính quyền khác dùng võ lực chiếm mất, thì phải phản đối
để không cho quyền lực mới đó thủ đắc chủ quyền bằng thời hạn tiêu diệt,
nghĩa là có một thời gian mà chủ thể quyền lực mới thi hành chủ quyền
liên tục mà không ai phản đối.
Các bằng
chứng về các sự kiện lịch sử trong câu chuyện Việt Nam khám phá và chiếm
ngụ Hòang Sa, và một số thực thể đất đai ở Trường Sa, thì đã được ghi
trong các tài liệu lịch sử Việt Nam có từ nhiều thế kỷ, như
cuốn Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn.
Trong khi đó thì tài liệu lịch sử Trung quốc không nói tới Hòang Sa và
Trường Sa mà dừng lại ở Đảo Hải Nam là vùng đất cực nam của Trung quốc;
trong số tài liệu đó, phải kể Bản Đồ chi tiết năm 1717 đời Vua Khang Hy
của Nhà Thanh, do các linh mục Dòng Tên Pháp sưu tập, mà một bản do
J.B.Bourguignon vẽ đã được Thủ Tướng Đức Merkel gần đây tặng Chủ Tịch
Trung Quốc Tập Cẩn Bình.
Tài liệu lịch sử của Việt Nam thời các vua chúa và thời Pháp thuộc cho
thấy Việt Nam liên tục xác lập chủ quyền và quản lý Hòang Sa và Trường
Sa . Các sách viết bởi các du khách Phương Tây và các nhà truyền đạo
Thiên Chúa Giáo cũng xác nhận như thế.
Trong thời
kỳ có hai nước Việt Nam, từ 1954 đến 1975, thì vai trò khẳng định chủ
quyền đối với Hòang Sa và Trường Sa rơi vào tay Việt Nam Cộng Hòa, được
trao nhiệm vự quản lý Hòang Sa và Trường Sa, chúng ở phía nam vĩ tuyến
17, bởi Hiệp Định Geneva
1954, hiệp định này do các cường quốc trong đó có Trung Quốc, và Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa (do Thủ Tướng P. V. Đồng đại diện) ký.
Nhưng sự
khẳng định mạnh mẽ nhất về chủ quyền
Việt Nam đối với Hòang Sa là trận hải chiến can đảm mà các chiến
sĩ hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã tiến hành ngày 19 tháng 1, năm 1974
chống lại hải quân Trung Quốc được gửi tới chiếm Hòang Sa-- từ lâu do
Việt Nam chiếm đóng và quản trị—trận này sảy ra sau khi Trung quốc tuyên
bố chủ quyền trên Hòang Sa và Trường Sa vào ngày 12 tháng 1 và Việt Nam
Cộng Hòa phản đối ngày 16 tháng 1 với lời
yêu cầu Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc can thiệp, lời
yêu cầu được nhắc lại ngày 20 tháng 1 , mong Hội Đồng họp khẩn.
Đến khi Hội Nghị Luật Biển của Liên Hiệp Quốc họp ở Caracas ngày 28
tháng 6, 1974, Việt Nam Cộng Hòa nhắc lại lời xác lập chủ quyền đối với
hai quần đảo va lời phản đối Trung quốc xâm chiếm bất hợp pháp. Ngày 24
tháng 9, 1975, khi một phải đòan Việt Nam qua Trung Quốc, Phó Thủ Tướng
Đặng Tiểu Bình công nhận là có tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam về
hai quần đảo và khuyên hai bên thương thảo để giải quyết vấn đề.
Sau khi
thống nhất đất nước, CHXHCN Việt Nam, kế quyền Viện Nam Cộng Hòa về các
quần đảo, đã nhiều lần phản đối sự xâm chiếm của Trung Quốc. Liên tục
nhiều năm, Việt Nam đã phản đối và đưa ra các chứng cứ lịch sử về chủ
quyền, trong lời tuyên bố hay các bạch thư (sách trắng) vào các năm:
1978, 1979, 1980, 1981, 1982, 1984, 1988 (phản đối Trung Quốc tuyên bố
sát nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào đảo Hải Nam), 1990,
1991, 1994 (phản đối Trung Quốc ký hợp đồng với hãng Crestone cho phép
thăm dò trong thềm lục địa và vùng kinh tế đặc quyền của Việt Nam), 2012
(phản đối Trung Quốc đưa ra chương trình quản lý các đảo, trong đó có
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa). Việt Nam cũng phải đổ máu bảo vệ
chủ quyền ở Gạc Ma năm 1988 khi đem đồ tiếp tế đến cho các chiến sĩ bảo
vệ hòn đá đó, mà Trung Quốc tàn sát 64 chiến sĩ hải quân khi họ đang lội
nước ngang lưng. Trong vụ giàn khoan HD-981 từ tháng 5/2014 đến
tháng 7,
Việt Nam đã đưa tàu kiểm ngư và tàu cảnh sát biển tới vùng biển nơi
HD-981 đang hoạt động trái phép để bảo vệ chủ quyền và yêu cầu Trung
Quốc rút giàn khoan. Ngư dân Việt Nam vẫn tiếp tục đánh cá ở gần đó,
mặc dù
bị các tàu Trung
Quốc bao vây nhưng họ vẫn giữ một khoảng cách an toàn, hầu tránh xung
đột võ trang, vừa để mưu sinh, vừa để bảo vệ chủ quyền với sự tự kiềm
chế, mặc dù Trung Quốc rất hung hãn, dùng võ lực, đâm tàu Việt Nam và
dùng súng nước tấn công tàu Việt Nam. Các lời phản đối và hành động bảo
vệ chủ quyền của Việt Nam đối với vùng biển Hoàng Sa trong vụ giàn khoan
HD-981 càng cho thấy chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa và vùng biển chung quanh luôn được duy trì, không hề bị xói
mòn.
Về các mỏm
đá nổi trên mặt nước khi thuỷ triều ở mức cao, mà Việt Nam đã quản lý
trong thời gian lâu từ các năm 1975-76 theo Luật Quốc tế Truyền Thống,
trước khi có Công Ước Luật Biển 1982, dù rằng một số ở trong Thềm Lục
Địa hay Vùng Đặc Quyền Kinh Tế của Phi Luật Tân, thì Việt Nam có thể xây
trên các mỏm đá , vốn là vùng đất nổi trên mặt nước trong trạng thái
thiên nhiên (chứ không chìm dưới mặt nước), và tình trạng pháp lý của
chúng không có gì thay đổi, và do đó, Việt Nam tiếp tục có chủ quyền
lãnh thổ đối với các đá này theo Luật Quốc Tế Truyền Thống—vì Phi Luật
Tân , nước cận duyên gần nhất, theo UNCLOS,chỉ có quyền chủ quyền vế tài
nguyên(sovereign rights) trong thềm lục địa và vùng kinh tế đặc quyền, ,
chứ không có chủ quyền
lãnh thổ (sovereignty over land territories) ở các vùng biển đó.
Nhưng các
thực thể chìm, hay chỉ nổi lên khi mức thuỷ triều xuống thấp, thì có
tình trạng pháp lý khác: Việt Nam, và cả Trung Quốc, không thể xây cất
các cấu trúc trên các thực thể đó ở trong Thềm Lục Địa 200 hải lý của
Phi Luật Tân, vì các thực thể đó là một phần của đáy biển trong Thềm Lục
Địa của Phi trong đó Phi có quyền chủ quyền về tài nguyên (nhưng Phi
cũng không có chủ quyền lãnh thổ).
Nhưng
liệu có cái biệt lệ nào cho nguyên tắc không có chủ quyền lãnh thổ của
các quốc gia đối với các đá
chìm, mà một vài quốc gia có thể viện ra với lý do biệt lệ chủ quyền đó
là quyền thủ đắc (acquired rights) trong quá khứ? Thí dụ: liệu Việt Nam
có thể lý luận hay không như sau: Các thực thể ngầm mà Việt Nam đã chiếm
ngụ từ các năm trước khi có UNCLOS,1982, và quản lý liên tục và xây cất
thêm cho chúng nổi trên mặt nước,
mà không chìm nữa, từ các năm xa xưa đó cho đến năm có UNCLOS 1982,
thì các thực thể đó
có thể coi là lãnh thổ thuộc chủ quyền
của Việt Nam, chiếu theo Luật Quốc tế
Cổ truyền, hay không? vì UNCLOS không thể áp dụng hồi tố cho các
quyền và tình trạng đã thủ đắc của Việt Nam? Các lãnh thổ nổi trên mặt
nước đó của Việt Nam, có trước 1982, phải chăng phải có lãnh hải 12 hải
lý?
Vấn đề sau
chót là Vùng Nhận Dạng Phòng Không ADIZ. Quốc gia nào không có chủ quyền
lãnh
thổ trong một vùng đất nào đó, dú là đá,
thì không có quyền pháp lý lập vùng ADIZ, Air Defense
Identification Zone, ở trên cái vùng đất đó, theo Luật Liên Hiệp Quốc.
Đó là lập luận mà các nước Đông Nam Á hay các quốc gia khác có thể
đưa ra chống lại lời yêu sách của
Trung Quốc đòi quyền lập
ADIZ trong vùng Trường Sa.
I V. KẾT LUẬN
Hậu quả
thực tế của Bản Án Trọng Tài có thể là Trung Quốc và các nước khác không
có làm gì để thay đội
nguyên trạng, như rút lui khỏi các mẩu đất đá họ đã chiếm ngụ hay chiếm
thêm các
thực thể khác, và cùng lắm là củng cố những gì họ đã chiếm bằng cách
củng cố các cấu trúc trên đó.
Trung quốc không còn nhắc đến
chủ quyền dựa trên Đường Chữ U, và đang cần một thời gian để lấy lại thể
diện , và hình như chỉ đặt hy vọng vào kế họach khác, là khi củng cố các
thực thể đá họ đã chiếm, thì sẽ biến chúng thành đảo có 12 hải lý lãnh
hải và có thể có 200 hải lý Vùng Đặc Quyền
Kinh Tế. Hy vọng này cũng không có căn bản theo UNCLOS, vì phải là đảo
trong trạng thái thiên nhiên nguyên thuỷ mới có vùng Thềm Lục Địa và Đặc
Quyền Kinh Tế 200 hải lý. Vì thế các nước khác cũng chẳng cần làm gì
quá, mà làm mất mặt dân chúng Trung Quốc mà họ đang bị lãnh đạo khích
động với chủ nghĩa quốc gia quá khích. Việc khuyến cáo chuẩn bị một vụ
kiện của Việt Nam để xác lập tính cách đá, không phải là đảo, của các
thực thể ở Hòang Sa và Trường Sa, là cốt giảm
căng thẳng, căng thẳng bắt nguồn từ
khuynh hướng tham lam quá mức, trái luật quốc tế,về Thềm Lục Địa
và Vùng Đặc Quyền Kinh Tế, và về các hệ luận về quyền khai thác tài
nguyên cá , dầu khí, và khóang sản cho mọi dân tộc quanh Biển Đông; và
do đó Việt Nam có thể cắt nghĩa cho cộng đồng quốc tế là Việt Nam muốn
đóng góp vào hòa bình trong khu vực
Biển Đông.
Phải công
nhận đã từ rất lâu, có lẽ từ 1988 khi chiếm Gac Ma, Trung quốc không
chiếm thêm thực thể đá đất nào mới. Về phía các quốc gia khác có quyền
lợi chống bá quyền Trung Quốc, thì trong hơn một năm nay, 2017-2018, Hoa
Kỳ đã thực hiện, cùng với một số
nước đồng minh như Anh, Úc,
các vụ hải hành xác nhận tự do hàng hải (Freedom of navigation
operations- FONOPS) đi sát vào các mỏm đá ở Trường Sa và Hòang Sa. Ngay
cả Pháp và Nhật cũng
biểu
lộ quyết tâm bảo vệ an ninh và quyền tự do hàng hải tại Biển Đông và sẵn
sàng can thiệp chung khi tình thế đòi hỏi. ( Theo tin Nikkei trước khi
lên đường sang Tokyo ngày 26/01/2018, Bộ trưởng Florence Parly của Pháp
cho rằng Pháp-Nhật cần biểu lộ quyết tâm bảo vệ an ninh và quyền
tự do hàng hải tại Biển Đông và sẵn sàng can thiệp chung khi tình thế
đòi hỏi. Lên án chiến lược của Trung Quốc đặt quốc tế trước « chuyện đã
rồi », nữ bộ trưởng Pháp cảnh cáo : Không phải cứ cấm cờ ở nơi nào đó,
thì nơi đó đổi chủ).
NHƯNG
ta vẫn thấy có vài vụ Trung quốc tiếp tực củng cố các cấu trúc
trên vài thực thể đá đã chiếm, mà không gặp sự phản ứng thực tế nào như
bộ truởng ngọai giao Tillerson và bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mathis đã dọa,
và Trung quốc dùng đòn chiến tranh tâm lý chống Việt
Nam như yêu cầu hãng dầu
REPSOL của Tây Ban Nha
ngưng dùng gìan khoan để
khai thác lô dầu 136/03
(ngưng vào giữa năm 2017) và lô
07/03 ( ngưng vào tháng 3/2018) trong Thềm Lục Địa của Việt Nam .
Muốn Trung quốc nể vì, cần tránh dùng các
hãng của nước nhỏ như Tây Ban Nha, mà cần bám chặt các hãng dầu của
Mỹ, Ấn, Nhật, Úc, vì đằng sau các hãng dầu khí đó
là có các cường quốc ngáo ộp đó, để gián chỉ –deter—Trung Quốc
(Làm sao Tàu giám vượt mặt hải quân Mỹ mà phá giàn khoan có Mỹ
đầu tư?).
Về việc
bảo
vệ dân chài Việt Nam, Hội
Nghề Cá cũng phản đối và yêu cầu hải giám giúp đỡ hành nghề cá. Bộ Ngoại
Giao Việt Nam hôm 22/03/2018 đã tuyên bố bác bỏ lệnh cấm đánh cá trên
Biển Đông mà Trung Quốc lại đơn phương ban hành, cho rằng quyết định đó
vi phạm luật pháp quốc tế. |