FB Trương Nhân Tuấn Hiện tượng thái tử đỏ: Đâu là tính chính danh của quyền lực? Quyền lực trong xã hội
con người, từ cổ đại đến nay, đều đặt nền tảng trên quan niệm “chính
danh – légitime”. Không có chính danh thì nói không ai nghe.
Quyền lực (power – pouvoir) ở đây được hiểu như là “quyền lực chính
trị”. Tức là “thẩm quyền” áp đặt Những nguyên tắc luật lệ mà mọi người
trong xã hội (thuộc một vùng lãnh thổ nhứt định) phải tuân thủ.
Tính “chính danh” trong chính trị hiện đại có thể được hiểu như là việc
“hợp pháp” hay “hợp hiến”.
(Légitime – nguyên thủy bắt nguồn từ Latin “legitimus”, có nghĩa là “xác
định bằng luật”, “phù hợp với luật lệ”).
Thí dụ về tính “chính danh” của “con thú đầu đàn” trong xã hội loài thú
và người “thủ lĩnh” xã hội sơ khai.
Trong một đàn chim hay một bầy sư tử… luôn có một con đầu đàn. Tất cả
những con thú trong bầy đều phục tùng quyết định của con thú đầu đàn.
Tính “chính danh” của con thú đầu đàn là sức mạnh, là sự khôn ngoan và
kinh nghiệm.
Con sư tử đầu đàn là con thú có sức mạnh vượt trội. Nó có khả năng thiết
lập trật tự trong đàn cũng như khả năng bảo vệ an ninh cho cả bầy trước
sự tấn công của các con thú khác.
Con chim đầu đàn là con chim khôn ngoan và có kinh nghiệm nhứt trong
đàn. Con chim này có khả năng dẫn dắt cả đàn đến vùng nắng ấm, có nhiều
mồi ngon, cả bầy được sống trường tồn và sung túc.
Xã hội loài người cũng tương tự như vậy.
Lúc còn sơ khai, con người đã biết sống tụ tập thành bầy đàn, sử dụng
sức mạnh và trí khôn tập thể để chống chõi với thiên nhiên để “sinh
tồn”. Trong nhóm luôn có một người đứng đầu mạnh nhứt, hay tinh khôn
nhứt, dẫn dắt cả nhóm. Văn minh hơn một chút, con người biết “tổ chức”,
bộ lạc được thành lập. Trong bộ lạc có một người ‘thủ lĩnh” để coi ngó
mọi sinh hoạt trong bộ lạc. Tất cả thành viên trong bộ lạc đều tuân thủ
mệnh lệnh của người thủ lĩnh.
Quan niệm về “quyền lực” được khai sinh. Người thủ lĩnh, con chim đầu
đàn, con thú đầu bầy… là đại diện (thể hiện) cho “quyền lực” trong (xã
hội) bầy đàn đó.
Tính “chính danh” của “quyền lực” trong các xã hội này là “sức mạnh”,
“kinh nghiệm” và sự “tinh khôn”.
Con người ngày càng văn minh hơn, quan niệm về “vương quốc”, sau đó là
“quốc gia” được thành hình. Một “quốc gia” thông thường bao gồm một nhóm
dân tộc có cùng “nguồn gốc” như ngôn ngữ, màu da, huyết thống… có cùng
một “lịch sử” và chia sẻ một “văn hóa” chung. Cốt lõi cho sự “trường
tồn” của quốc gia là phương cách (mô hinh) “tổ chức quốc gia” mà trong
đó cách thức “tuyển chọn” người thủ lĩnh (người lãnh đạo) nắm “quyền lực
quốc gia” là yếu tố quan trọng hơn hết.
Dưới thời “phong kiến” đế quyền, ông vua (hoàng đế) là vị “chủ tể”. Lãnh
thổ là của vua. Tất cả dân chúng trong vương quốc cũng thuộc về ông vua,
gọi là “thần dân”. Các quan trong triều đều do vua “sắc phong”. Mọi
“quyền lực” trong quốc gia đều thuộc về vị “chủ tể” là ông vua. Ông vua
thể hiện cho lãnh thổ, vừa dại diện cho thần dân… Nói theo ngôn ngữ hiện
đại, ông Vua vì vậy nắm “chủ quyền” của quốc gia.
Tính “chính danh” của ông vua, quan điểm Đông phương ông vua có “mạng
trời”, “thế thiên hành đạo”.
Ông vua chết đi, con của ông vua, gọi là thái tử, được “nối ngôi”. Ông
con lên nối ông cha trở thành “vua”. Sự liên tục quốc gia vì vậy được
thể hiện mà không ai dị nghị.
Dĩ nhiên cho tới khi “mệnh trời đã hết”.
Theo quan điểm Đông phương, “mệnh trời đã hết” được báo hiệu bằng thiên
tai như bão lụt, hán hán, bệnh dịch… liên tục nhiều năm, gây nạn đói
kém… Giặc giã nổi lên chống lại ông vua. Kẻ nào thắng, lật đổ ông vua,
vỗ ngực xưng hoàng đế thế thiên hành đạo. (Dĩ nhiên không quên nhổ cỏ
tận gốc bằng cách tru di tam tộc giòng họ vua trước để tránh việc quang
phục). Cứ như vậy mà quốc gia tiếp nối.
Cho tới thời cận đại. Người dân trong quốc gia không chịu đựng được
những thói xa hoa phung phí của giới hoàng gia cũng như những áp bức đến
từ thành phần quan lại. Sự nghèo khổ cùng cực khiến họ nổi dậy làm “cách
mạng” lật đổ chế độ vương quyền. Hệ quả là “ngai vàng phải trả lại cho
nhân dân”.
Từ đó quan niệm “mọi quyền lực trong quốc gia” thuộc về “nhân dân” được
thành hình. Nhân dân là “chủ tể”. “Chủ quyền” của quốc gia thuộc về nhân
dân. Chế độ “cộng hòa” được ra đời.
Người “thủ lĩnh” không còn là người có “thiên mệnh”, hay là người “có
sức mạnh”. Quyền lực trong quốc gia được phân bổ cho những người “lãnh
đạo”, bằng các thể thức “dân chủ” là “bầu cử”.
Quyền lực của (những) người lãnh đạo được giới hạn trong một khoản thời
gian, gọi là “nhiệm kỳ”.
Tính “chính danh” của người lãnh đạo là sự “thắng cử”. Người nào được
nhiều “phiếu bầu”, người đó “thắng cử”.
Trở lại tình trạng VN hiện thời, các “thái tử đỏ” được “đảng” trao phó
“quyền lực”.
Nhìn lại những sự kiện con ông này, cháu ông kia… quyền lực quốc gia
được ban phát một cách tùy tiện trong hàng ngũ con ông cháu cha. Quyền
hành của các ông hoàng đỏ này bị thách thức. Một chế độ nhìn nhận là
“dân chủ”, “cộng hòa”… thì dứt khoát không thể có việc kế thừa quyền
lực.
Nguyên tắc của mọi chế độ dân chủ (dân chủ tự do hay dân chủ tập trung)
là việc phân bổ quyền hành trong bộ máy nhà nước phải đến từ nhân dân,
thể hiện qua các cuộc bầu cử.
Tính chính danh của “quyền lực” được bảo đảm bằng sự trung thực của kết
quả các cuộc bầu cử.
Quyền lực của các thái tử đỏ này vì vậy không có chính danh.
Nhân dân nào đã bầu cho các ông thái tử đỏ ?
Có một “thái tử đỏ” nhân dịp nhận chức, lên tiếng cho rằng quyền lực của
cậu ta là do “đảng” giao phó.
Tức là tính chính danh về quyền lực của cậu ta được đảng bảo kê.
Vấn đề là đảng có “quyền” làm việc này hay không ?
Câu trả lời nên dành cho các đảng viên của đảng CSVN. Họ có “bầu” cho
các thái tử này hay không ?
Nhưng trên phương diện pháp lý, việc này có nhiều điều vướng mắc. Những
vướng mắc này không những đặt lại tính “chính danh” quyền lực của các
thái tử đỏ mà còn đặt lại tính chính danh (quyền lãnh đạo đất nước và xã
hội) của đảng CSVN.
Hệ thống chính trị VN hiện nay “cơ bản” đặt trên nền tảng “dân chủ”.
Theo nguyên tắc dân chủ (kể cả dân chủ tập trung), không có một chức vụ
hay cơ chế (quyền lực) nào thuộc bộ máy nhà nước mà không thông qua (sự
bầu cử) của người dân, hoặc sự bổ nhiệm của một cơ quan quyền lực chính
đáng.
Sự bổ nhiệm các thái tử đỏ do đó là không hợp hiến.
Trước đây, những người cộng sản bảo vệ tính chính danh của đảng CSVN với
lý do đảng “đã lãnh đạo dân tộc giành lại độc lập”.
Điều này không đúng trong thời điểm hiện tại (và dĩ nhiên, tương lai).
Tạm cho rằng đảng CSVN đã “lãnh đạo dân tộc giành lại độc lập” là một sự
thật lịch sử, không có điều gì cần tranh biện. Thì những người cộng sản
hôm nay cũng không thể vịn vào lý do này để tiếp tục giành quyền lãnh
đạo.
Những thế hệ “khai quốc công thần” chống Pháp, chống Mỹ, tức những người
có tư cách, có chính danh để lãnh đạo, đã lần lượt khuất núi. Những
người “có công”, tức những người có tham gia vào cuộc chiến, đã không
còn bao nhiêu người. Ngay cả thế hệ lãnh đạo hiện thời cũng không có mấy
người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến “chống Mỹ”.
Nếu dựa vào “công lao”, thì trong đảng hiện nay không ai có công lao
(giành lại độc lập) để đặt nền tảng làm “chính danh”. Không ai có tư
cách để lãnh đạo đất nước hết cả.
Tính chính danh không có “kế thừa”. Nếu nhìn nhận sự kế thừa thì lý ra
con cháu của những bà mẹ anh hùng, những liệt sĩ, những thương phế binh…
phải làm lãnh đạo mới đúng.
Con cháu của con chim đầu đàn, của con sư tử đầu bầy, chỉ đơn thuần là
một thành tố trong bầy, chớ không có kế thừa để lên nắm đầu đàn. Muốn
trở thành con thú đầu đàn, con chim đầu bầy, những con thú này phải
khẳng định sức mạnh, hay chứng minh trí khôn và kinh nghiệm. Đó là
“chính danh” trong thế giới loài thú.
Việc bổ nhiệm các thái tử đỏ, những người xem ra tài năng chỉ ở mức (tối
đa là) trung bình, đã khiến chế độ “cộng hòa xã hội chủ nghĩa” trở thành
chế độ “quân chủ xã hội chủ nghĩa”.
Có người biện hộ cho tính chính danh của đảng CSVN với lý lẽ đảng này
được dân bầu lên :
“Đầu năm 1946, Đảng Cộng sản đã tổ chức bầu cử Quốc hội và ra Hiến
pháp. Hệ thống chính trị Việt Nam có bầu cử và những người của Đảng ra
ứng cử vào các chức vụ.” (Vũ Minh Giang, nguyên thành viên Hội Đồng lý
luận của đảng, nói trên BBC về tính chính danh của đảng).
Điều này không đúng sự thật. Thứ nhứt, thời điểm tổ chức bầu cử quốc hội
(1946) đảng CS đã giải tán. Thứ hai, số dân biểu đắc cử vào quốc hội gồm
một số lớn nhân sự không thuộc đảng CSVN.
Nhưng cũng giả sử rằng thời điểm đó đảng CS không giải tán và số người
trong quốc hội 100% là đảng viên đảng CSVN. Thì tính chính danh của đảng
cầm quyền chỉ có hiệu lực trong nhiệm kỳ bầu cử đó mà thôi. Không lẽ
nhiệm kỳ đó kéo dài (đến nay đã gần) 70 năm?
Lý lẽ khác cũng thường thấy người cộng sản nhắc để biện hộ cho tính
“chính danh” của họ là đại diện “giai cấp vô sản”.
Bất kỳ đảng cộng sản nào cũng cho rằng họ có “chính danh” để lãnh đạo
đất nước, vì họ đại diện cho số đông (nhân dân vô sản) trong xã hội. Nhà
nước họ lập nên là “nhà nước vô sản”, sử dụng sự “chuyên chính vô sản”,
tức sự “độc tài” cho tầng lớp vô sản, nhằm triệt tiêu giai cấp bóc lột
đem lại sự “công bằng” trong xã hội.
Quyền lực này chỉ chính đáng khi đảng này còn phục vụ cho giai cấp mà họ
đại diện, tức giai cấp vô sản, công nhân, nông dân… nói chung là tầng
lớp lao động nghèo.
Khi đảng này phục vụ cho một giai cấp khác, như tầng lớp tư bản nước
ngoài, tầng lớp tư bản đỏ… thì nó đã phản bội lại giai cấp mà họ đại
diện. Tính chính đáng để lãnh đạo của nó bị mất đi.
Ngày hôm nay, dựa vào “giai cấp vô sản” để biện hộ cho tính chính danh
trở thành một sự ngụy biện trắng trợn.
Đảng CSVN bay giờ không hề đại diện cho quyền lợi của “giai cấp vô sản”,
tức giai cấp công nhân, nông dân, những người lao động nghèo… trong xã
hội. Bản thân của họ đã trở thành những trọc phú bóc lột. Bản thân họ là
những quan tham. Nhân sự của hệ thống quyền lực quốc gia đã trở thành
những con sâu mọt đục phá tài sản quốc gia, nhũng nhiễu dân lành.
Đảng CSVN bây giờ là đại diện cho tầng lớp tư bản hoang dã, tầng lớp đầu
cơ trục lợi cũng như đại diện cho quyền lợi của tầng lớp tư bản nước
ngoài. Đảng viên cộng sản trở thành những tên cai thầu coi ngó người dân
VN như là những công nhân lao động cho tập đoàn nước ngoài.
Chính danh ở đây là chính danh làm cai thầu, chính danh đưa dân tộc vào
vòng làm thuê vác mướn.
Trương Nhân Tuấn |