Góc Nhìn Khác Về
Tầng Lớp Trí Thức Việt Nam Hôm Nay
Kỳ cuối
Vì Sao Tiếng Nói
Phản Biện
Quách Hạo Nhiên
Thời
gian qua, chứng kiến sự tụt hậu của đất nước; hay những sự kiện liên
quan đến an ninh chủ quyền quốc gia, sự cố thảm họa môi trường, những
chính sách sai lầm của nhà cầm quyền trong việc thu hồi đất của người
dân gây nên những thảm kịch đớn đau điển hình là vụ Đồng Tâm ở Hà Nội;
thông qua các kênh khác nhau các nhân sĩ trí thức nước nhà hoặc là với
tư cách cá nhân hoặc tập hợp lại thành những hội nhóm gửi kiến nghị,
“tâm thư” đến nhà cầm quyền hoặc cá nhân lãnh đạo cấp cao nào đó.
Trước hết, phải nói rằng cá nhân tôi luôn tôn trọng những ý kiến được
gửi gắm qua những đơn thư và kiến nghị của đội ngũ nhân sĩ trí thức nước
nhà. Bởi đây trước hết là quyền tự do ngôn luận, quyền bày tỏ chính kiến
của họ với tư cách là công dân trong “nhà nước pháp quyền XHCN”.
Dẫu vậy, ở phương diện khác, trong cảm nhận của riêng tôi, dường như
những đơn thư, kiến nghị này rất ít có tác dụng với nhà cầm quyền. Trong
một vài vấn đề cụ thể, tôi nghĩ rằng, nhà cầm quyền chắc chắn có tiếp
thu nhưng có lẽ vì sỉ diện nên họ không hồi âm mà chỉ âm thầm điều
chỉnh, thay đổi. Nhưng với những vấn đề lớn như “cải cách thể chế chính
trị”, vấn đề thực hiện và tôn trọng “nhân quyền”, hay những sự vụ nghiêm
trọng như vụ Đồng Tâm…nhà cầm quyền không những không thèm nghe mà có
khi còn làm khó dễ những người kiến nghị.
Vì
sao như vậy? Tôi thử lý giải nguyên nhân vấn đề này qua một số đặc điểm
và biểu hiện dưới đây.
1. Tính chính danh,
sự cực đoan, “đông mà không tinh” của tầng lớp trí thức
Ở phần trước, chúng tôi đã nói một xã hội muốn phát triển theo hướng văn
minh đương nhiên rất cần có tiếng nói phản biện của thành phần trí thức.
Dẫu vậy, người trí thức trước khi lên tiếng phản biện vấn đề gì đó nhất
là những vấn đề liên quan đến đường lối, chính sách của nhà cầm quyền
phải luôn tự vấn bản thân mình. Điều này càng quan trọng hơn với một
quốc gia độc đảng, chuyên chế và toàn trị như Việt Nam.
Có thể nói, bản chất và tâm lý chung của các nhà cầm quyền độc tài trên
thế giới là vừa kiêu ngạo vừa sợ hãi. Kiêu ngạo khi tự cho mình là là
“tài tình sáng suốt”, là “đỉnh cao”, là số một, là chân lý cuối cùng,…
Cũng chính vì quá kiêu ngạo nên mặt khác họ luôn cảm thấy không an tâm
và sợ hãi khi có ai đó phản biện, chỉ ra sự tệ hại, giả dối của mình -
một kiểu “tự kỷ ám thị”. Chính bản chất và tâm lý này nên những người
trí thức ở xã hội độc đảng, chuyên chế phải thường xuyên đối mặt với
những tình huống khó khăn thậm chí bi kịch hơn tầng lớp trí thức ở các
quốc gia đa nguyên đa đảng.
Những người trí thức ở các quốc gia đa nguyên, đa đảng khi tham gia phản
biện xã hội, phản biện nhà cầm quyền hầu như không bị các đảng phái, phe
nhóm đối lập điều tra, truy nguyên lý lịch tổ tông ba đời và gây ảnh
hưởng đến bạn bè, người thân. Ngược lại, ở các quốc gia độc tài, người
trí thức rất dễ bị nhà cầm quyền chụp mũ chính trị, thậm chí thủ tiêu
“thà giết lầm hơn bỏ sót” nếu họ cảm thấy quyền lực của mình bị đe dọa.
Thế nên, sự cẩn trọng, tính xác đáng, nhất là không cực đoan trong khi
phản biện nhà cầm quyền trước hết là cách để những người trí thức tự bảo
vệ bản thân mình. Quan trọng hơn nữa phải làm sao “thuyết phục”, “dỗ
dành” nhà cầm quyền để tránh cho họ cái tâm lý bị “mất mặt” (với dân
chúng và với bạn bè quốc tế) vì những sai lầm mà họ gây ra. Đồng thời
không có cảm thấy bất an, sợ hãi vì bị đe dọa lật đổ hay tước đoạt quyền
lực.
Khách quan mà nói, không một chính khách, không một nhà cầm quyền nào,
thuộc thể chế chính trị nào đang ở ngôi cao quyền lực mà không sợ bị kẻ
khác lật đổ. Trong khi đó, bản chất của hoạt động phản biện xã hội nói
chung là sự trao đổi, đối thoại, thảo luận, tranh luận để tìm giải pháp
tốt nhất cho vấn đề nào đó trên tinh thần thỏa thuận bất bạo động.
Rất có thể khi rà soát và điều tra về nhân thân, lý lịch của những trí
thức gửi thư kiến nghị, “Đảng ta” đã phát hiện ra, bên cạnh số ít những
nhân sĩ trí thức chân chính là hàng loạt những “trí thức”, các “nhà dân
chủ tự phong” trên mạng xã hội? Chính điều này đã làm cho “Đảng ta”
không an tâm về tính chính danh và thiện chí thật sự của những người gửi
kiến nghị. Vì trên thực tế, nhận thức của các “trí thức”, các “nhà dân
chủ tự phong” về các vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền không những hời
hợt mà còn rất cực đoan. Thậm chí, trong mắt nhà cầm quyền, đây là
“những phần tử cơ hội, cấu kết với thế lực phản động” nào đó bên ngoài
với âm mưu bạo loạn lật đổ họ.
Nếu “Đảng ta” với thói quen “tô hồng”, luôn thổi phòng những thành tựu
và che dấu sự thật về những sai lầm và yếu kém của mình thì các “trí
thức”, các “nhà dân chủ tự phong” lại cố tình hạ thấp, phủ nhận bằng
cách cố tình bôi đen. Nên xét về bản chất cả hai đều giả trá và “xuyên
tạc sự thật” như nhau. Vì vậy, nếu quyền lực mà chuyển giao cho những
người này cũng không lấy gì đảm bảo một tươi sáng hơn cho dân tộc và đất
nước. Trong hàng ngũ của nhà cầm quyền, có thể không nhiều nhưng chắc
chắn vẫn có những trí thức với tư tưởng cấp tiến nên không khó để họ
nhận ra vấn đề này.
Đến đây, có thể thấy, tiếng nói phản biện của tầng lớp trí thức quan
trọng nhất là ở tính chính danh, ở sự nghiêm túc và chuyên nghiệp trong
cách nghĩ, cách làm.
Nhìn rộng ra, có thể nói những kiến nghị liên quan đến vấn đề “cải cách
thể chế”, các quyền tự do, dân chủ, nhân quyền của tầng lớp trí thức
thời gian qua về lý thuyết có thể không sai, dẫu vậy các điều kiện để
thực thi trong thực tế dường như vẫn chưa thật sự chín muồi. Cụ thể là
tư duy, nhận thức, ý thức của dân chúng liên quan đến những vấn đề này
nhìn chung vẫn chưa được chuẩn bị, trang bị một cách căn cơ và toàn
diện.
Và đây, suy cho cùng cũng chính là trách nhiệm của tầng lớp trí thức
trong vai trò những người làm công tác giáo dục, các nhà nghiên cứu về
văn hóa, lịch sử, chính trị, pháp luật…
2. Sự đa nhân cách,
xu thời, nước đôi của một bộ phận trí thức
Trí thức phải có tư duy độc lập, phải có chính kiến để “dám đương đầu
với cường quyền”, v.v… là quan điểm không sai về phương diện lý thuyết.
Nhưng nói là một chuyện còn thực hành những điều ấy trong thực tế cuộc
sống là một chuyện khác.
Quan sát những gì đang diễn ra, rất tiếc tôi buộc phải nói rằng Việt Nam
hôm nay thật sự rất ít những trí thức có tư duy độc lập và chính kiến.
Thay vào đó, nhìn vào cách hành xử, ứng xử của không ít người nhất là
những người rất khó để tin họ đang thuộc “phe nhân dân” hay “phe chính
quyền”, “phe nước mắt, cần lao” hay “phe đại gia, tư bản đỏ”; phe bảo
thủ hay cấp tiến vì “mâm” nào họ cũng có mặt.
Về chuyện này, tôi thấy cần nhắc lại quan điểm của mình trong bài viết
trước đây. Sự băng hoại về đạo đức văn hóa ở xã hội Việt Nam hôm nay có
nguyên nhân rất lớn từ suy nghĩ và lối sống muôn mặt, giả tạo, lá mặt lá
trái, gió bề nào che bề đó của một bộ phận những người có chữ trong tư
cách nhà văn, nhà giáo, nhà báo…Và đây cũng chính là nguyên nhân làm cho
nhà cầm quyền nghi ngờ, không coi trọng, không lắng nghe những kiến
nghị, góp ý của tầng lớp trí thức nước nhà thời gian qua.
Sinh thời, triết gia người Pháp
Jean-Paul Sartre là
người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản. Tuy vậy, Jean-Paul Sartre vẫn xứng đáng
là một trí thức đúng nghĩa, nói được làm được.
Năm 1964, Jean-Paul Sartre
đã từ chối giải
Nobel Văn học của Viện hàn lâm Khoa học Thụy Điển. Trong một lá
thư gửi đến những người xét trao giải năm đó, J. P. Sartre đã giải thích
sở dĩ ông từ chối sự khen ngợi và tôn vinh này vì ông sợ bị lệ thuộc vào
ánh hào quang của giải thưởng và tổ chức. Như thế sẽ làm ông đánh mất tư
duy độc lập, khiến ông trở nên gò bó trong sáng tác và nghiên cứu. Trên
thực tế, ông cũng từng từ chối nhận Huân chương Bắc đẩu bội tinh do Nhà
nước Pháp trao tặng năm 1945.
Trong cái nhìn so sánh, xem ra những người có chữ ở Việt Nam hôm nay rất
ít người có cách hành xử, ứng xử như
Jean-Paul Sartre. Gần
như không một giải thưởng văn chương lớn nhỏ nào ở xứ này không có kiện
tụng, tranh cãi. Trí thức, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhà báo gì mà
ngoài miệng thì bảo không quan tâm và coi thường các giải thưởng,
các danh xưng, danh hiệu của nhà nước trao tặng nhưng mặt khác vẫn âm
thầm làm hồ sơ hoặc đi đêm vận động hành lang để mong được giải. Đến khi
không được rồi thì lại tiếp tục công kích và thưa kiện.
Là trí thức
trước hết phải trung thực cả trong suy nghĩ lẫn lời nói, hành động.
Không ít người hôm nay, khi đánh giá và luận về Tố Hữu đều tỏ thái độ dè
bĩu, miệt thị hết lời. Nhưng công bằng và khách quan mà nói, Tố Hữu, xét
trong bối cảnh văn hóa, xã hội ở miền Bắc Việt Nam trước đây là người
không phải không đáng trọng, đáng nể. Tố Hữu sinh ra và lớn lên trong
bầu khí quyển cách mạng ấy, nhận thức của ông trong khuôn khổ như thế và
ông đã chung thủy, cả đời sống chết với lý tưởng mà ông đã lựa chọn và
phụng sự. Hậu thế hôm nay dĩ nhiên có quyền phán xét những sai lầm của
ông nhưng đó là chuyện của hậu thế dù sao ông cũng chẳng còn để mà bận
tâm.
Thế
nhưng, ở phương diện nào đó, tôi rằng Tố Hữu vẫn không nguy hiểm và đáng
sợ bằng những kẻ ngay từ đầu tuy biết rõ ông, hiểu rõ thơ ông thật ra
cũng chẳng phải đỉnh cao gì nhưng vẫn hết lời tung hô, “khấn khứa” để
mong tìm một “chỗ đứng”, một thành tựu cho riêng mình. Nhưng khi ông bị
thất sủng hoặc không còn nữa thì ngay lập tức “bẻ kèo”, quay sang công
kích.
Nói khác đi, là một trí thức không thể khi cần thì anh vuốt ve, bợ đỡ
các quan chức lãnh đạo trong bộ máy chính quyền để được giao cho các đề
án, dự án cấp nhà nước, cấp quốc gia nhưng khi xong việc hoặc vừa nhận
sổ hưu là ngay lập tức lên mạng xã hội mạt sát, công kích, đổ hết mọi
sai lầm và tội lỗi cho “Đảng ta” như một cách chứng minh bản thân minh
trong sạch và là người có tư tưởng cấp tiến.
Nên nhớ nhà cầm quyền cộng sản ở Việt Nam vốn là “bậc thầy” trong các
chiêu trò “dân vận”, “đánh du kích”, “đánh trong lòng địch” đánh ra.
Bằng kinh nghiệm “đánh Pháp đuổi Mĩ”, “giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước” trước đây cộng với tất cả công cụ và quyền lực hiện có, không
khó để họ nhận ra trong danh sách những cái tên viết tâm thư, kiến nghị
đâu là những trí thức thực thụ, đâu là trí thức bất mãn, “trở cờ”, “hai
ba mang”, đâu là trí thức được “phong hàm” trên mạng xã hội…
Ngoài ra, như đã nói, các quan chức lãnh đạo trong bộ máy công quyền
đương nhiên cũng là trí thức – trí thức “của Đảng”, “do Đảng và “vì
Đảng”, “còn Đảng còn mình”. Nên dĩ nhiên không phải họ ngu, không biết
gì. Trên thực tế, với những trí thức nước đôi, ba phải họ nhìn thấy hết,
biết hết. Nhưng tạm thời họ cứ để đó và theo dõi, tùy đối tượng và tình
hình cụ thể, cần thiết họ mới “ra tay”. Hoặc là bằng đội ngũ tuyên giáo,
“dư luận viên” trên mạng tung ra để mắng chửi lại hoặc bằng những biện
pháp mạnh hơn nếu thấy nguy hiểm.
Đến đây thiển nghĩ, các nhân sĩ, trí thức ở Việt Nam hôm nay hẳn đã biết
vì sao tiếng nói phản biện của giới mình lâu nay ít được nhà cầm quyền
lắng nghe. Nhà cầm quyền vốn độc tài và bảo thủ nhưng chính sự đa nhân
cách, thái độ ứng xử, hành xử kiểu nước đôi, ba phải của không ít người
có chữ hôm nay đã làm cho họ càng thêm nghi ngờ, cảnh giác và coi thường
hơn.
3. Thay lời kết
Mỗi khi nghĩ về tầng lớp trí thức trong xã hội Việt Nam hôm nay, không
hiểu sao trong đầu tôi lại nhớ đến bài viết
“Thời vắng những nhà văn hóa
lớn?” của GS Trần Hữu Dũng cách đây đã 10 năm trên Thời báo Kinh tế
Sài Gòn dịp Tết Tân Mão, năm 2011 [1]. Gần đây nhất là bài viết mà nhan
đề chỉ có hai từ “Chừng Mực”
của Giáo sư Cao Huy Thuần. [2].
Sở dĩ đã hơn 10 năm nhưng tôi vẫn nhớ bài viết của GS Trần Hữu Dũng là
vì theo tôi, cách nhìn vấn đề của ông không những rất sâu sắc, độc đáo
mà vẫn còn nguyên tính thời sự. Tôi thích cách ông đã cố ý phân biệt
giữa hai khái niệm “nhà văn hóa lớn” và nhà “trí thức”. Ông nói:
“Thế
nào là một nhà văn hóa lớn? Tất nhiên, xã hội nào cũng có những trí
thức, những người tham gia (có thể rất tích cực) vào hoạt động văn hóa
trong lĩnh vực này hoặc lĩnh vực nọ… Song, những nhà văn hóa lớn có một
vai trò vượt trội những trí thức khác, và không phải bất cứ xã hội nào,
lúc nào cũng có những nhà văn hóa như thế.
Đó là những người mà sự
uyên thâm và nhất là tính kiên trì nghiên cứu (nhiều khi lặng lẽ), năng
suất làm việc phi thường (hàng mấy chục quyển sách, hàng trăm bài báo,
chẳng hạn) hầu như là huyền thoại trong dân gian. Chính tư tưởng của họ
“định nghĩa” tính thời đại của một nền văn hóa. Nhà “văn hóa lớn”, nói
cách khác, là người có những suy nghĩ vừa sâu vừa rộng, đưa ra những
khám phá, lập luận, có tính tổng hợp, liên ngành (ví dụ như lịch sử và
văn học, triết học), không bị giới hạn trong một ngành chuyên môn nào.”
Với bài “Chừng mực” của GS
Cao Huy Thuần, không hiểu sao ngay khi đọc những câu mở đầu tôi lại thấy
tự xấu hổ với chính mình. Xấu hổ thực sự vì
thái độ
chừng mực của một trí thức
uyên thâm như ông (với riêng tôi GS Cao Huy Thuần cùng với nhà nghiên
cứu Bùi Văn Nam Sơn, là một nhà
văn hóa lớn hiếm hoi của Việt Nam hôm nay).
GS Cao Huy Thuần nói hơn 21 năm qua, bản thân ông khi bàn về các vấn đề
tự do dân chủ ở Việt Nam chưa bao giờ ông động đến mấy chữ
“tam quyền phân lập”. Vì sao
như vậy? Không phải ông sợ cũng “chẳng phải vì nó là ta-bu”, mà vì ông
nghĩ trong bối cảnh văn hóa, lịch sử, con người ở xã hội Việt Nam hôm
nay “hãy còn quá sớm để đi vào
chi tiết cụ thể khi điều kiện chưa hội đủ, đầu óc chưa sẵn sàng để bước…
ngay cả cái bước đầu tiên”.
Phải chăng “Thời vắng những nhà
văn hóa lớn” và “Chừng mực”
là cách đặt vấn đề qua cho thấy
một thái độ và sự tự vấn lương
tâm, tự vấn chính mình rất sâu sắc và cần thiết của người trí
thức? Tự vấn để không ảo tưởng, không đổ lỗi, không thể thoái thác trách
nhiệm của bản thân trước thực trạng văn hóa xã hội mà chính mình đôi khi
vừa là kẻ dự phần tham gia kiến tạo nên.
Giống như cách đây 10 năm,
khi lý giải nguyên nhân
tại sao xã hội Việt Nam lại thiếu “vắng những nhà văn hóa” lớn, GS Trần
Hữu Dũng bảo rằng “phần ít là lỗi
của xã hội, mà phần lớn là nhược điểm của chính cộng đồng trí thức (là
vườn ươm những nhà văn hóa lớn)” ở Việt Nam chúng ta.
CT, 6/10/2021
Q.H.N
----
[1]: Trần Hữu Dũng – “Thời vắng
những nhà văn hóa lớn”.
https://thesaigontimes.vn/thoi-vang-nhung-nha-van-hoa-lon/
[2]: Cao Huy Thuần – “Chừng mực”.
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai38/201938_CaoHuyThuan.pdf
|