Chúng tôi là đoàn quân bại trận Thomas Polgar Bản dịch "We Were a Defeated Army" (Blog 27-1-2013) Bản dịch của Châu Quang đã đăng 3 kỳ trên Đàn Chim Việt (6, 8, 11/6/2018), gộp lại đây cho dễ đọc
Từ Buenos Aires đến Sài Gòn
Lý do tôi đến Sài Gòn là vì người được chỉ định làm trưởng nhiệm sở CIA
kế nhiệm cho Ted Shackley, đã ở Sài Gòn hơn ba năm, là anh chàng Joe
Smith.
Vào thời điểm đó, Smith đang là trưởng nhiệm sở ở Tokyo, một trong những
vị trí danh giá nhất của CIA, sau khi đã làm phó vùng đặc trách Viễn
Đông. Trưởng vùng đặc trách Viễn Đông bấy giờ do Bill Colby nắm. (Colby
cũng từng có nhiệm kỳ tại Việt Nam và sau này làm Giám Đốc CIA).
Smith là một lựa chọn rất hợp lý. Giấy tờ chọn lựa này đã được ký tên,
đóng dấu và trao tay. Smith sẽ tiếp nối công việc của Shakley.
Bất ngờ, cha của Smith qua đời. Tang gia bối rối, phải có người lo tang
lễ với đủ thứ công việc lỉnh kỉnh. Không có ai khác để gánh vác ngoài
Smith. Vì vậy, Smith xin nghỉ hưu để lo chuyện gia đình. Chuyện kế nhiệm
cho Shackley, dù đã được lập kế hoạch trong hai năm, coi như vứt đi.
Đáng lý ra, Smith là một lựa chọn rất hợp lý nếu nói về kinh nghiệm ở
châu Á, kinh nghiệm tại Viễn Đông.
Thật tình, nếu nói một cách chính xác thì tôi cũng không phải là một
bóng mờ. Tại thời điểm đó tôi đã quen giám đốc CIA Richard Helms khoảng
25 năm, tôi làm dưới quyền ông ở Berlin, tôi là trưởng nhiệm sở tại Đức,
một chỗ ưng ý dưới cặp mắt của cả cựu Giám đốc Alan Dulles lẫn đương kim
Giám đốc Helms. Tôi ăn lương cấp GS-17 (của hàng ngũ công chức liên
bang), một cấp khá cao.
Thực ra, có rất nhiều điểm tương đồng giữa loại hoạt động mà tôi đã gặp
khi làm trưởng ban sưu tra khu vực Nam Mỹ và tình huống mà chúng ta đang
đối mặt ở Việt Nam. Và có lẽ quan trọng nhất, tôi là phụ tá đặc biệt
trong bốn năm cho một anh trung tướng có tên là Lucien Truscott, là
người phụ trách nhiều công việc nhưng việc chính là điều phối công tác
tình báo. Trong tư cách đó, tôi đã có rất nhiều kinh nghiệm làm việc với
giới nhà binh Hoa Kỳ. Công việc này nhiêu khê hơn câu chuyện không tặc.
(Trước đó, Polgar nổi tiếng qua chuyện giải quyết vụ cướp máy bay ở
Chilê bằng cách đích thân bước lên máy bay điều đình với bọn không tặc).
Tôi đang làm trưởng nhiệm sở ở Buenos Aires thì nghe tin mình đã được
chọn làm trưởng nhiệm sở ở Sài Gòn.
Tôi nói tiếng Tây Ban Nha. Tôi nói tiếng Đức. Tôi nói tiếng Pháp (ngoài
tiếng Hungary). Chẳng có thứ tiếng châu Á nào. Đó là một bất lợi lớn
nhưng đó là tình trạng chung của CIA, bởi vì tôi nghĩ rằng trên bậc
lương cấp GS-12, tương đương với cấp thiếu tá quân đội, CIA bấy giờ
không ai biết tiếng Việt.
Những vụn vặt đầu tiên
Ngay khi tôi đến Sài Gòn, tôi đã cố gắng tiếp xúc với những người Việt
ngoài những người Việt mà tôi phải gặp trong công việc trách nhiệm hằng
ngày. Tôi đã cố gắng gặp những người như người đứng đầu luật sư đoàn,
người đứng đầu hãng hàng không, người đứng đầu một công ty dược phẩm,
bác sĩ, nha sĩ… để tôi có thể cảm nhận một chút về xã hội miền Nam. Đó
là một công việc khó khăn. Đôi khi tôi phải làm việc 11, 12, 14 tiếng
một ngày.
Sau này nhìn lại chắc là ngu ngốc, nhưng lúc đó tôi hoàn toàn tin tưởng
rằng chúng ta đã thực hiện những gì chúng ta cam kết ở Việt Nam. Tôi
nghĩ rằng chừng nào Nixon còn làm tổng thống, Bắc Việt sẽ cư xử một cách
chừng mực, cộng trừ đi một chút.
Tôi không bao giờ mong đợi sẽ có ngừng bắn hoàn toàn như chúng ta đã gặp
ở châu Âu ngày 8 tháng 5 năm 1945 (sau Thế Chiến 2). Tôi chưa bao giờ
mong đợi như vậy. Chuyện đó cũng chẳng bao giờ xảy ra. Nhưng quả thực
chúng ta đã có một thời gian dài, cụ thể là trong suốt năm 1973 và nửa
đầu năm 1974, một thời kỳ mà chúng ta thường gọi là “ít máu lửa hơn”.
Nói cách khác, chúng ta đã có một tình huống không hẳn là ngưng bắn,
nhưng không có hoạt động quân sự lớn; và mức độ bạo lực, phá hoại, ám
sát, phục kích vân vân, nằm trong vòng mà chúng ta gọi là “giới hạn chấp
nhận được”. Đó là một mức độ bạo lực mà cả hai bên có thể chịu đựng vô
thời hạn, không tạo bất kỳ thay đổi tình hình chính trị nào.
Tôi nghĩ rằng nếu miền Bắc hành xử theo đúng nghĩa vụ của họ ghi trong
Hiệp định Paris thì sẽ không có vấn đề gì. Ngay cả sự hiện diện của quân
đội Bắc Việt ở miền Nam cũng không phải là vấn đề. Quân đội mà họ được
phép để lại tại miền Nam vừa trải qua cuộc tổng tấn công vào dịp lễ Phục
sinh mùa xuân năm 1972 (VNCH gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa) và khi bạn nhìn thẳng
vào vấn đề, bạn sẽ thấy họ chẳng tạo được thắng lợi nào. Tóm lại, họ có
mặt ở đó, nhưng chẳng đi tới đâu. Ý tôi muốn nói là họ có một ít rừng,
họ có một ít núi, nhưng tại thời điểm đó chính phủ Nam Việt Nam kiểm
soát ít nhất 95% dân số, chính phủ này kiểm soát tất cả các khu vực sản
xuất kinh tế của đất nước. Vì thế cho nên chuyện có một số binh sĩ Bắc
Việt sống trên vùng cao nguyên chung với hổ và rắn cũng không làm ai bận
tâm. Ý tôi muốn nói chắc chắn là họ không có bất cứ một tí mơ tưởng nào
để lập một thủ đô tạm thời.
Vấn đề lúc bấy giờ là Việt Nam chỉ đơn giản là một phần của một vấn đề
toàn cầu mà Hoa Kỳ đang đối phó một cách liên tục. Việt Nam là một trò
ảo thuật mà Nixon muốn sử dụng trong mối quan hệ giữa ông ta với người
Nga và quan hệ giữa ông ta với Trung Quốc và quan hệ giữa ông ta với cử
tri Mỹ.
Đối với người Việt Nam, tất nhiên, vấn đề Việt Nam 100 phần trăm là sự
tồn tại của họ. Họ không thể nghĩ về bất cứ chuyện gì khác. Đây cũng
chính là vấn đề chúng ta gặp phải với người Cuba ngày nay. Chúng ta nghĩ
về Cuba có thể năm phút mỗi tháng, còn người Cuba nghĩ về mối quan hệ
của họ với Hoa Kỳ vào mọi lúc. Vì vậy, tôi không nghĩ rằng người Mỹ và
người Việt Nam có cách tiếp cận về kết thúc chiến tranh theo cùng quan
điểm, ngay cả gần giống quan điểm cũng chẳng có.
Nixon và Thiệu
Trọng tâm của Hiệp định Paris là cam kết của chúng ta rằng những tổn
thất mà người miền Nam gặp phải sau khi ngừng bắn sẽ được thay thế trên
cơ sở một đổi một. Chúng ta cũng có một lực lượng không quân lớn ở Thái
Lan với mục đích rõ ràng là sẽ hành động như một lực lượng trả đũa, nếu
cần.
Thật vậy, tôi đã có mặt ở San Clemente (Tòa Bạch Ốc miền Tây của Nixon ở
California) lúc Tổng thống Nixon nói với Tổng thống Thiệu vào tháng 4
năm 1973 rằng nếu Bắc Việt vi phạm trọng tâm của Hiệp định Paris, sự trả
đũa của chúng ta sẽ là ngay lập tức và tàn bạo. Tôi không có lý do gì để
nghi ngờ điều đó. Và người Bắc Việt cũng vậy.
Khi chúng tôi ở San Clemente năm 1973, nhân dịp Tổng thống Thiệu được
mời đến thăm Nixon, phía Hoa Kỳ có Chánh Văn Phòng của tổng thống (tương
đương với Bộ trưởng Phủ tổng thống của VNCH hoặc Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ của CSVN) và một vài người khác. Ngoài ra còn có Đại sứ Bunker
mang theo theo hai người, một trong hai người này là tôi. Đây là lần đầu
tiên tôi được giới thiệu với Erlichman (Cố Vấn Đối Nội của Tổng thống),
Haldeman (Chánh Văn Phòng), Ziegler (Phát Ngôn Viên) nói chung là cái
đám bậu xậu dễ chịu đó. Tôi không hề ngờ rằng tất cả cái đám này sẽ bị
sa thải trong một hai năm sau đó, và cuối cùng Nixon cũng từ chức. Tôi
không hiểu tại sao. Ý tôi muốn nói là họ đang ở trong đỉnh cao của sự
nghiệp.
Thế rồi sau đó, bước sang tuần đầu tiên của tháng Tư, tôi không hiểu tại
sao mọi thứ trở nên tồi tệ giống như đã xảy ra. Nixon vừa được tái đắc
cử với đa số phiếu lớn lao đây mà. Có hôm Kissinger nói với tôi khi
chúng tôi ăn sáng riêng với nhau, ông ta gọi Haldeman là “một tên tội
phạm”. Nhưng vì Kissinger hay lăng mạ người khác mà chẳng ai làm gì
được, nhất là khi lăng mạ người nào mà ông ta biết rõ. Kissinger có thể
gọi ai đó là một tên tội phạm chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt, chẳng hạn
như người đó làm xáo trộn thứ tự chỗ ngồi trong một bữa ăn tối, vì thế,
tôi không để ý những chuyện như vậy.
Trước khi đi Việt Nam vào năm 1972, tôi đến gặp Bộ trưởng Quốc phòng và
nói, “Thưa bộ trưởng, ông biết tôi đến gặp ông vì tôi đang ở một thời
điểm rất quan trọng trong sự nghiệp của tôi. Tôi mới chạm tuổi 50, tôi
đủ điều kiện để nghỉ hưu, tôi có ba đứa con phải lo cho xong đại học.
Tôi không thể đưa gia đình đến Việt Nam. Ông thấy tình hình ở đó sẽ diễn
biến ra sao? ” “Ồ,” bộ trưởng nói, “anh sẽ không gặp vấn đề gì cả.” Ông
nói tiếp: “Việt Nam sẽ giống như Đức. Chúng ta sẽ để lại ở đó một lực
lượng trong 40 năm.”
Lúc đó là tháng Giêng năm 1972. Chắc chắn, chúng ta sẽ giảm số quân ở
đó, nhưng quân đội Mỹ chắc chắn vào thời điểm đó hoạt động với giả định
rằng sẽ để lại một lực lượng từ 60 đến 100 nghìn người. Giống như Hàn
Quốc hay giống như Đức.
Và trên thực tế Việt Nam là nơi duy nhất mà quân đội Mỹ rút ra sau khi
vào. Ở Hàn Quốc, chúng ta ở lại. Ở Đức, chúng ta ở lại.
Chiến tranh và truyền thông
Chưa bao giờ công chúng Mỹ hiểu được bản chất của cuộc chiến ở Việt Nam.
Bản chất đó chắc chắn không bao giờ được các phương tiện truyền thông Mỹ
làm rõ.
Ở Việt Nam tôi thấy có sự khác biệt rất rõ ràng của từng phóng viên báo
chí. Và tôi thấy những gì họ định làm.
Bob Shaplen là một người bạn tốt của tôi. Và những gì anh cố gắng làm
bên Việt Nam thì ở bên Mỹ đã bị các biên tập viên của anh đảo ngược. Tôi
có dịp xem một số bản nháp đã được những nhà báo từ Sài Gòn gửi đi và
rồi tôi đã nhận thấy sự khác biệt giữa những gì họ đã viết và những gì
đã được in ra. Riêng Shaplen, theo tôi, đã cố gắng tìm sự cân bằng. Có
lần anh ấy nói với tôi trong khi vẫn còn làm cho tờ The New Yorker, rằng
trong suốt một năm tờ báo không hề in một bài nào của anh. Các biên tập
viên giải thích với anh rằng các bài của anh có lợi cho miền Nam Việt
Nam nên không thể in. Đó là khoảng 1973-1974. Tôi biết anh ta và tờ The
New Yorker sau đó đã chia tay.
Một số nhà báo khác có trải nghiệm khá cay đắng hơn. Điều tương tự cũng
xảy ra với một phóng viên của tạp chí Time, anh này cảm thấy rằng một số
khía cạnh của tình hình miền Nam Việt Nam không được in ra ở Mỹ. Có lần
tờ Time chỉ thị cho người của họ viết một câu chuyện về vấn đề đào ngũ
của quân đội miền Nam Việt Nam. Chắc chắn là quân đội miền Nam Việt Nam
có vấn đề đào ngũ. Phóng viên đến gặp tôi để được giúp đỡ. Tôi nói,
“Vâng, tôi sẽ cung cấp cho bạn các sự kiện. Nhưng tôi còn làm hơn thế
nữa. Tôi cũng sẽ cung cấp cho bạn những sự kiện mà chúng tôi biết về vấn
đề đào ngũ trong quân đội Bắc Việt”. Anh ta nói, “Ồ, thật tuyệt vời.”
Vậy mà, khi câu chuyện xuất hiện, Time chỉ nói về phần đào ngũ của quân
đội miền Nam Việt Nam.
Phía bên truyền hình thậm chí còn tệ hơn theo cái nghĩa là bạn kể cho họ
cả nửa giờ nhưng họ chỉ sử dụng trong một phút rưỡi.
Vì vậy, trong số những nhà báo ở Việt Nam, có người tốt và có người xấu.
Tuy nhiên, khi nói đến người không trung thực thì phải kể Frances
Fitzgerald. Tôi quen cha cô ấy rất thân. Cha cô trước đây là sếp của tôi
nên cô ấy và tôi có gặp nhau vài lần. Cô ấy đáng chú ý nếu nói về mặt
phụ nữ. Nhưng về mặt nhà báo, cô là một người khác, nếu tin tức nào
không phù hợp, cô sẽ không đăng.
Tản mạn về chiến tranh và con
người
Ý kiến cá nhân của tôi đã chuyển biến trong thời gian tôi can dự ở Việt
Nam, đó là chúng ta phải đặt mình vào vị trí của một bác sĩ đối mặt với
một bệnh nhân có nhiều chỗ ngứa và nhiều vết thương trên cơ thể, và nếu
bạn chỉ điều trị hết chỗ ngứa này đến chỗ ngứa khác, từng vết thương này
sang vết thương khác, bạn sẽ không giải quyết được vấn đề nguyên nhân
nào đã gây ra. Và thực tế là vấn đề ở miền Nam Việt Nam là bộ máy chiến
tranh nằm ở Hà Nội, nhưng chúng ta chưa bao giờ giải quyết vấn đề bộ máy
chiến tranh ở Hà Nội.
Để tôi kể cho bạn một chuyện. Vào ngày 3 hoặc 4 tây tháng 5 năm 1972,
lực lượng Nam Việt Nam chiếm Quảng Trị, vốn là thị xã duy nhất lọt vào
tay miền Bắc trong cuộc tổng tấn công Phục Sinh năm 1972.
Quân miền Nam đã tái chiếm và ngày hôm sau tôi dự buổi tiếp tân tại Đại
sứ quán Nhật Bản mừng sinh nhật Nhật Hoàng. Một trong những vị khách mời
là người trước đây là Trưởng đoàn Ba Lan trong ICC (Ủy ban Kiểm soát
Đình chiến Việt Nam theo Hiệp định Genève 1954) — xin đừng nhầm với ICCS
(Ủy ban Quốc tế về Kiểm soát và Giám sát Đình chiến Việt Nam theo Hiệp
định Paris 1973) sau này. Anh chàng Ba Lan này hóa ra là một người hoạt
động tình báo rất giàu kinh nghiệm và hiểu biết nhiều về tình hình thế
giới. Anh cũng từng là giám đốc của hãng hàng không Ba Lan.
Dịp này, tôi nói, “Anh nghĩ thế nào về Quảng Trị?” Anh ta trả lời, “Thực
tình, tin này ấn tượng nhưng không ăn thua gì.” Tôi nói, “Sao anh lại
nói vậy?” Anh trả lời, “Nó không ăn thua gì vì miền Nam Việt Nam sẽ thua
trận tại Washington.” Anh ta nói câu đó vào tháng 5 năm 1972.
Thật dễ để biết ý định của Bắc Việt vì Bắc Việt không giữ bí mật ý định
của họ. Họ tiếp tục cho cán bộ của mình học tập đến tận chi tiết đáng
kinh ngạc về những gì họ định làm. Và nó hơi giống Hitler với cuốn Mein
Kampf (tự thuật của Hitler nói về tư tưởng chính trị và kế hoạch tương
lai cho nước Đức). Họ cứ tiếp tục nói gì họ sẽ làm nhưng chúng ta vẫn
tiếp tục không tin. Và đơn giản là chính sách quốc gia của chúng ta
không đáp ứng với tin tức tình báo mà chúng ta thu thập.
Lấy ví dụ, chúng tôi bắt đầu nhận được báo cáo của Hà Nội vào mùa thu
năm 1974 nói rằng giờ thì Nixon không còn làm tổng thống nữa, cuộc chơi
đã đổi khác, cho nên cần phải làm vài trắc nghiệm trong lĩnh vực quân
sự.
Tôi xem tin này rất quan trọng. Bắt đầu từ tháng 10 năm 1974, tôi còn
nhớ, khi chúng tôi nhận được kế hoạch cho năm 1975 của họ, tôi đã lái xe
đến Biên Hòa để nói chuyện với trưởng nhóm cấp cơ sở của tôi trong khu
vực bắt được tài liệu đặc biệt này. Chúng tôi đi đến kết luận rằng ngôn
từ trong tài liệu này rất giống với chỉ thị 90 của COSVN (Trung ương cục
miền Nam, Cục R), là loại chỉ thị đã từng xuất hiện một vài tháng, trước
khi có cuộc tổng tấn công năm 1972.
Một ngày nọ, tôi có dịp hỏi Kissinger những gì ông nghĩ về ngành tình
báo của chúng ta. Không nói riêng Việt Nam, mà nói chung. Ông ta vẫn
nhận được hàng núi thông tin tình báo trên toàn thế giới của CIA vào
thời điểm đó. Ông nghĩ gì về giá trị của nó? Ông ta suy nghĩ một lúc rồi
nói, “À, khi nó hỗ trợ chính sách của tôi, nó rất hữu ích.” Tôi nghĩ
bụng, trọng tâm của vấn đề chính là đây đây. Đó là chính sách của Mỹ
không được xây dựng để đáp lại những gì mà thông tin tình báo cho thấy.
Chúng ta xây dựng chính sách trước, rồi sau đó chúng ta cố gắng tìm ra
thông tin tình báo để hỗ trợ chính sách.
Ba cơ quan chính thu thập thông tin tình báo tại Việt Nam là Tình báo
của Tùy viên Quốc phòng (DAO-DIA), Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) và
CIA. Trong thực tế có rất ít mâu thuẫn giữa ba nơi. Không có những
chuyện trái cẳng ngỗng giữa những tin được thu thập. Chưa bao giờ xảy ra
tình huống mà DAO-DIA nói điều gì đó hoàn toàn khác với mọi người. Chúng
tôi phối hợp rất chặt chẽ với (Đại tá) Bill LeGro, giám đốc tình báo cho
DAO trong suốt thời gian sau Hiệp định Paris. Chẳng có vấn đề nào cả.
Vấn đề là chính sách của Mỹ dựa trên giả thuyết rằng Chiến tranh Việt
Nam đã kết thúc. Các lực lượng quân sự của Mỹ đã bị loại và cho dù có
bất cứ chuyện gì xảy ra, Tổng thống Ford cũng không dám mạo hiểm đánh
mất cơ hội đắc cử tổng thống của ông bằng cách đưa lực lượng Mỹ trở lại
Việt Nam. (Nhưng cuối cùng Ford cũng thất bại trước Jimmy Carter.)
Ngay từ năm 1974, chúng ta đã không cung cấp đồ tiếp liệu kịp thời cho
Nam Việt Nam. Chúng ta đã không làm đúng với nghĩa vụ của mình. Bấy giờ
tôi đã báo cáo rằng bất cứ khi nào người miền Nam mất niềm tin vào sự
ủng hộ của Mỹ, họ sẽ sụp đổ. Tôi còn nhấn mạnh rằng niềm tin – hay là
tinh thần – quan trọng hơn là mức viện trợ tiếp liệu thực sự.
Người Việt Nam có thể nhận ra một vài điều xảy ra lúc đó. Ý tôi là một
cú đấm khủng khiếp đối với Việt Nam, mà tôi nghĩ hầu hết mọi người sẽ
không nghĩ đến, đó là cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1973 khi quá
nhiều những món trước đây định giao cho Việt Nam lại được chuyển cho
Israel. Và chuyện như vậy đã làm hỏng toàn bộ quy trình lập kế hoạch của
Bộ Quốc phòng.
Năm điều đã xảy ra vào năm 1973 mà Việt Nam chẳng liên quan gì nhưng đã
gây ảnh hưởng rất nặng nề. Đầu tiên là Chiến tranh Ả rập-Israel đã lái
sự chú ý và các nguồn cung cấp quân cụ quan trọng của Bộ Quốc phòng sang
hướng khác ngoài Việt Nam. Lệnh cấm vận dầu hỏa sau đó và giá dầu thô
tăng cao đã gây ra tác động mạnh nhất cho nền kinh tế Nam Việt Nam. Áp
lực mới nổi lên của nước ngoài dẫn đến phản ứng tâm lý mạnh mẽ của người
Mỹ chống lại chuyện chính phủ tiếp tục thực hiện những cam kết tốn kém ở
nước ngoài. Vụ quân đội Chile đảo chính lật đổ Tổng thống Salvador
Allende đã làm phe tự do và phe cánh tả bực bội thêm, sự thất vọng của
họ được trút lên đầu miền Nam Việt Nam. Quốc hội ngày càng phẫn nộ với
những tiết lộ liên quan đến Watergate cho nên đã trừng phạt Nixon bất kỳ
chỗ nào có thể, trong đó có các lĩnh vực liên quan đến Việt Nam.
Tôi nghĩ ông Thiệu biết rất rõ rằng nếu không có Mỹ, ông ta không thể
sống sót. Tôi quen rất thân Hoàng Đức Nhã, cháu ông. Nhã đặc biệt ở chỗ
là người duy nhất trong đám cận thần của tổng thống học ở Hoa Kỳ về. Và
Nhã hiểu chuyện đó rõ hơn nữa.
Là người đã trải qua bốn năm đại học ở Mỹ, anh ta hiểu rõ tính chất trồi
sụt bất thường của tình hình chính trị Mỹ, những chuyện thăng trầm do
những áp lực thuần túy trong nội bộ nước Mỹ gây ra, các áp lực này không
liên quan gì tới yếu tố nước ngoài nhưng lại tác động đến quan hệ đối
ngoại. Vì vậy, Nhã biết nhiều hơn những người khác đang nắm quyền lực ở
Việt Nam về cách vận hành của Quốc hội Mỹ. Xét cho cùng, làm thế nào mà
một người như Thiệu hiểu rõ cách vận hành của Quốc hội Mỹ khi ông làm
việc với quốc hội Việt Nam, một quốc hội luôn luôn biết vâng lời?
Khi Phước Long mất vào đầu năm 1975, điều đó không quan trọng về mặt
quân sự, nhưng rất quan trọng về mặt biểu tượng. Đó là biểu tượng của
việc Mỹ từ chối thực hiện “sự trả đũa ồ ạt và tàn bạo” mà Nixon đã hứa
với Thiệu. Miền Bắc đang trắc nghiệm để thăm dò tình hình và tình hình
thì ngày càng trở nên thuận lợi hơn, cho nên họ tiếp tục ngày càng lấn
sâu hơn
Các nhà lập pháp
Sau đó là phái đoàn Quốc hội đến. Tôi nghĩ cách hành xử của (hai dân
biểu) Fraser và Abzug trong phái đoàn không thể chấp nhận được. Abzug
bước vào phòng họp sau khi đến và hỏi, “Ai trong các bạn là Polgar?” Sau
khi tôi tự xác nhận, bà nói, “À, tôi đã được cảnh báo là phải cẩn thận
khi gặp ông.”
Bấy giờ có một sinh viên miền Nam đang ngồi tù, cuộc tranh đấu của anh
ấy gây tí tiếng vang ở Hoa Kỳ. Bà Abzug đòi phỏng vấn anh ta, dù trước
đó bà đã hô hoán rằng anh ta đã chết, chính quyền miền Nam đã giết anh
ta.
Tôi trả lời: “Không, người miền Nam Việt Nam không làm chuyện đó. Họ có
thể tìm ra bất cứ ai đang ngồi tù.” Bà nói: “Nếu thế thì tìm người này.”
Chúng tôi đã tìm ra anh ta đang ở tù mãi tận Tuy Hòa thuộc Quân đoàn 3.
(Polgar nhầm, Tuy Hòa thuộc QĐ 2, có lẽ do gõ nhầm khi chuyển văn nói
thành văn viết?) Chỗ đó hơi xa, không thể đi bằng xe mà phải dùng trực
thăng. Bà nói thời gian duy nhất còn lại mà bà có thể gặp anh sinh viên
là sáng Chủ nhật, một bất tiện cho mọi người, nhưng cũng không sao.
Chúng tôi thu xếp trực thăng, thu xếp thủ tục ra vào nhà tù. Cho tới khi
mọi thứ xong xuôi đâu vào đấy, bà ta lại bảo, “À này, tôi không còn quan
tâm đến chuyện này nữa”. Rút cục, bà chẳng bao giờ đi gặp anh ta.
Dân biểu Millicent Fenwick cũng có mặt trong phái đoàn và mặc dù không
có cảm tình với chiến tranh Việt Nam, bà vẫn giả vờ gật gù lẳng nghe các
buổi thuyết trình, nhưng Abzug thì quá quắt, Frazer cũng vậy.
Lấy ví dụ, khi Tổng thống Thiệu mời phái đoàn dùng cơm tối, hai người đó
không xuất hiện. Họ chẳng thông báo hủy hoặc cho biết bằng cách này cách
khác, nhất định không ló mặt. Họ đã có mặt tại buổi tiếp đón của thủ
tướng, diễn ra trước bữa cơm tối của tổng thống. Đêm đầu tiên họ tới Sài
Gòn, Đại sứ mời cơm tối cả đoàn. Mọi người đều tới ngoài Abzug. Bữa đó
tôi rất thất vọng vì tôi đã thu xếp để ngồi cạnh bà!
Ban Mê Thuộc và kế tiếp
Theo tôi, không ai nghĩ rằng cuộc tấn công Ban Mê Thuộc sẽ xảy ra vào
ngày 5 tháng 3, nhưng người nào có đầu óc tỉnh táo cũng nghĩ Bắc Việt sẽ
mở một cuộc tấn công lớn ở Cao nguyên (bây giờ gọi là Tây nguyên).
Chúng tôi có trong tay sơ đồ trên giấy tờ của cuộc tấn công, mô tả cách
họ cắt những đường lộ, chuyện đó đã xảy ra, cách họ di chuyển những đơn
vị cấp sư đoàn, chuyện đó đã xảy ra, nhưng cuối cùng thì Washington
không tin. Lý do Washington không tin là bởi vì — mà thôi, tôi không
tiện nói ra những nguồn và phương pháp mà tôi không được phép tiết lộ —
nhưng đại khái nói chung là tình báo ở Washington không chấp nhận những
ước tính xuất phát từ Việt Nam do cả hai bộ phận DAO và CIA thu thập,
rằng sẽ có một cuộc tấn công lớn vào năm 1975. Họ nhất định không tin.
Có nhiều người cho chúng tôi biết chuyện gì đang xảy ra tại Cao nguyên.
Tất cả đều đồng ý sẽ có tấn công lớn. Chúng tôi có nhiều nguồn tin nói
rằng cuộc tấn công sẽ khởi sự ở Cao nguyên. Nhưng Washington vẫn không
tin.
Phía Nam Việt Nam cũng không tự mình nghĩ ra một chiến lược nào khác,
ngoài chuyện đưa một trung đoàn ra chỗ này, một trung đoàn ra chỗ nọ để
bảo vệ. Còn trung đoàn được tăng cường cho Ban Mê Thuộc thì không đủ sức
để đối phó với tình hình. Quá xui cho họ.
Các lực lượng này thì tốt cho nhiệm vụ duy trì an ninh cho địa phương và
là một lực lượng trừ bị tốt khi ta ở thế tiến công. Nhưng nếu nói một
cách khá chính xác thì những lực lượng này không được huấn luyện hoặc
trang bị để chống lại các đơn vị chính quy có xe bọc thép yểm trợ.
Sau khi Ban Mê Thuộc thất thủ, Thiệu họp với tướng Phạm Văn Phú ở Cam
Ranh và ra lệnh rút quân ở Cao nguyên. Tôi nhớ cuộc họp diễn ra vào ngày
thứ Sáu.
Phú cho thi hành lệnh vào thứ Bảy. Tôi nhận được tin này vào sáng thứ
Bảy. Tôi đi tìm Charles Timmes (Thiếu tướng, một trong những phụ tá cao
cấp của Polgar) đang ở JGS – Bộ Tổng tham mưu VNCH, và nói với ông, “Tôi
chẳng biết cái quái gì đang xảy ra.”
Tôi yêu cầu một phụ tá cao cấp khác đi gặp tướng Đặng Văn Quang, cố vấn
an ninh quốc gia của Thiệu để hỏi xem chuyện gì đang xảy ra ở Quân đoàn
2. Quang trả lời, “Ông biết đó, tình hình không tốt. Có vẻ như chúng tôi
không thể mở lại các đường giao thông, chúng tôi lo ngại trước tình
hình, chúng tôi phải chuyển quân loanh quanh, nhưng chẳng có chuyện gì
xảy ra ở Quân đoàn 2.”
Dường như Quang không biết gì về chuyện Phú đang lui quân.
Timmes không tìm ra tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng, và nói
chung, không khí hôm thứ Bảy đó giống như mọi thứ Bảy khác. Nhưng Timmes
có gặp tướng Trần Đình Thọ, trưởng phòng hành quân (Phòng 3) để hỏi về
tình hình tại Quân đoàn 2. Tướng Thọ nói, “Không có gì xảy ra ngoài
những chuyện các ông đã biết”.
Bộ Tổng tham mưu dường như cũng chẳng biết Phú đang lui quân. Tôi tìm
người của tôi ở Pleiku. Một người đang lang thang đâu không biết, một
người đang khám răng. Tôi bèn gọi cho Moncrieff Spear, Tổng lãnh sự ở
Quân đoàn 2, và nói, “Tốt hơn hết là anh nên đưa nhân viên của anh ra
khỏi Pleiku.” Ông ta trả lời, “Anh điên rồi.” Ông ta đang ngồi ở Nha
Trang. Tôi nói, “Không, tôi có lý do để tin rằng chuyện đó xảy ra.” Ông
ta nói, “Bộ anh ra lệnh cho tôi di tản khỏi Plieiku hả?” Tôi trả lời,
“Anh biết là tôi không có quyền đó, nhưng tôi có thể kết luận rằng di
tản là một hành động khôn ngoan.”
Điểm tôi muốn nêu ra ở đây là những gì mà tướng Phú đã làm váo sáng hôm
đó, cho dù trước đây ông ta có những công trạng gì đi nữa, là một hành
động hoàn toàn thiếu phối hợp.
Thậm chí tướng Phú cũng không nói cho Tổng Lãnh Sự biết, một chuyện mà
lẽ ra ông ấy có nghĩa vụ phải làm, bởi vì Tổng Lãnh Sự là đại diện chính
của Mỹ tại Quân đoàn 2.
Tướng Quang cũng không biết. Ý tôi là nếu sáng đó có chuyện gì quan
trọng xảy ra thì Quang cũng tỏ ra bận rộn, nhưng không, ông ấy vẫn tỏ ra
bình thường như một sáng thứ Bảy bình yên. Còn tướng Thọ, trưởng phòng
hành quân cũng không biết.
Theo suy luận của tôi, Phú đã khởi động một chuỗi hành động do hiểu lầm
ý định của Tổng thống Thiệu, và Phú không biết tí gì rằng thực hiện một
cuộc rút lui như vậy trong thực tế rất là khó khăn biết chừng nào. Sự
thực là không hề có cái gọi là di tản tốt đẹp. Mỗi lần di tản trước sau
gì cũng trở thành một thảm họa lớn lao.
Thế rồi Bắc Việt nắm bắt được cuộc di tản của Phú. Xe tăng miền Bắc xoay
xở đến được một con đường ven quốc lộ ở Phú Bổn và chờ sẵn đoàn quân rút
lui. Thế là cuộc tàn sát xảy ra.
Trước khi có cuộc họp ở Cam Ranh, tôi đã chính thức thông báo cho
Washington biết rằng cuộc chiến đã chấm dứt. Tôi còn nhớ đã nói chuyện
này với một trong những người tôi hay tiếp xúc, tôi xin miễn nêu tên,
một người mà tôi vẫn tin cậy. Ông ta nói với tôi miền Nam không thể chịu
đựng trước sự kiện mất Ban Mê Thuộc và kế tiếp sẽ mất Cao nguyên, mà ông
nghĩ là hậu quả không tránh khỏi của chuyện mất Ban Mê Thuộc. Ông ta
thuộc hàng tướng lãnh.
Tại thời điểm đó, không có chuyện gì xảy ra tại Quân đoàn 1.
Thế rồi tai họa đổ xuống. Thiệu quyết định rút cả Thủy quân lục chiến
lẫn Nhảy dù khỏi Quân đoàn 1. Quyết định này phá hoại bất kỳ kế hoạch
kháng cự nào mà tướng Ngô Quang Trưởng có được. Và rồi sư đoàn Thủy quân
lục chiến thua trận và không còn dùng được nữa bởi vì lúc đầu họ nhận
lệnh rút nhưng sau đó lại có lệnh quay đầu lại, trở lại chỗ cũ, một động
tác quân sự bất khả thi. Trong thực tế, sư đoàn Thủy quân lục chiến mất
đi một số quân cụ một phần vì không thể nào thu hồi quân cụ giữa dòng
người tỵ nạn đang chảy siết.
Dĩ nhiên, đến nước này thì Thiệu chơi vơi trên đại dương và đi tìm ống
thở. Nhưng cho dù ông ấy có làm gì đi chăng nữa cũng chẳng tạo khác
biệt. Trò chơi đã chấm dứt.
Tôi tin chắc rằng ngay khi mà người Việt Nam có cảm tưởng chúng ta sắp
bỏ chạy, mọi thứ sẽ sụp đổ. Tôi hoàn toàn đồng ý với Đại sứ Martin ở
điểm đó.
Martin rời Việt Nam cùng với phái đoàn Quốc hội vừa đến Việt Nam vì họ
có sẵn máy bay, ông ấy có thể quá giang miễn phí. Ông tin rằng mình có
thể vận động với một số dân biểu, muốn trở về Mỹ để điều trần trước Quốc
hội.
Theo tôi biết thì trong thời gian Martin ở Washington, người ta phát
hiện ông mắc một loại bệnh cần phải mổ, do đó, chuyến về Việt Nam bị dời
lại. Khi biết người ta không muốn làm ồn ào về chuyện ông phải mổ, ông
trở về quê nhà ở North Carolina. Ngay cả Bộ Ngoại giao cũng không tìm ra
ông, hơn nữa, ông thuộc loại người thích giữ bí mật. Martin trở lại Việt
Nam vào cuối tháng 3, trước khi mất Đà Nẵng và tai nạn máy bay C5A.
Trẻ mồ côi và máy bay rơi
Khi người ta gửi các trẻ mồ côi ra khỏi Việt Nam trên chiếc C5A thì đó
là một đề nghị thuần túy đánh động tâm lý quần chúng.
Bác sĩ Phan Quang Đán, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng y tế cảm thấy cần
phải làm một cái gì đó cho đám trẻ mồ côi. Đại sứ Martin và vài cố vấn
cảm thấy nếu đưa số trẻ này đến Mỹ theo số lượng lớn sẽ đánh động dư
luận quần chúng, một câu chuyện đầy ắp tình người.
Cùng lúc đó, văn phòng tùy viên quốc phòng DAO có nhiều nữ nhân viên
trong tư thế sẵn sàng di tản, nhưng do thủ tục hành chính, họ chưa khởi
hành được vì chính phủ Mỹ chưa phát lệnh di tản chính thức.
Ai phải chi cho tiền máy bay đưa họ ra khỏi Việt Nam? Chính phủ Mỹ đúng
không? Nếu vậy thì tôi nghĩ ta có thể cho các nữ nhân viên này đi chiếc
máy bay quân sự đang trống bụng sau khi bốc hàng hóa xuống, và chỉ đinh
họ là những người tháp tùng các trẻ mồ côi, luôn tiện giải quyết luôn
chuyện tiền bạc phải kết toán như thế nào.
Có nhiều người vì nhiều lý do khác nhau đã lạm dụng số chỗ ngồi trên
chiếc máy bay to lớn này. Vợ tôi cũng ra khỏi Việt Nam với tư cách tháp
tùng trẻ mồ côi, nhưng bà ấy đi với Cathay Pacific, một hãng hàng không
dân sự, cùng ngày với chiếc C5A rơi.
Lúc bấy giờ CIA chúng tôi có hai bác sĩ, khi máy bay rơi, họ phụ đưa các
trẻ vào bệnh viện Seventh Day Adventist ở Sài Gòn (bệnh viện do một giáo
phái Tin Lành điều hành). Một trong hai bác sĩ của tôi đầu óc còn tỉnh
táo, có mang theo máy ảnh, chụp được rất nhiều ảnh trông rất tang
thương.
Tôi cho đại sứ xem ảnh, ông ta suy nghĩ thật lâu để xem có nên công bố
số ảnh này hay không. Cuối cùng, ông kết luận rằng những hình ảnh khủng
khiếp này, tất cả đều rõ ràng, màu sắc sinh động cho thấy những cơ thể
méo mó của phụ nữ và trẻ con, thay vì khơi động lòng thương xót của quần
chúng, sẽ tạo ra kết quả ngược lại, làm quần chúng mất tinh thần. Đó
chính xác là những gì đã xảy ra tại DAO bấy giờ. Các ảnh này không được
phổ biến.
Đằng sau hậu trường
Vài ngày trước khi Thiệu từ chức, một sĩ quan Hungary cao cấp trong Ủy
ban ICCS gặp tôi và nói, “Này này, anh phải thực tế, anh phải biết là
các anh đã thua rồi.” Tôi trả lời, “OK, tôi thú nhận chúng tôi đã thua.”
Rồi ông nói, “Thua trận bắt buộc dẫn đến hậu quả chính trị.” Tôi nói,
“Tôi đồng ý với anh.” Ông nói, “Hậu quả chính trị hiển nhiên sẽ là cay
đắng, nhưng cái phe mà tôi đại diện cũng không muốn…” — ông ta bỏ lửng
phe mà ông đại diện là phe nào — “làm nhục Hoa Kỳ một cách không cần
thiết. Có thể làm cái gì đó để không thay đổi kết quả chiến tranh, vì
chiến tranh đã chấm dứt, mà là để tạo một kết thúc lẽ ra không nên dẫn
đến…” — một lần nữa ông nhắc lại — “làm nhục Hoa Kỳ một cách không cần
thiết.”
Tôi mới hỏi: “Anh có ý kiến gì không?” “Thật ra thì,” ông nói, “anh biết
đoàn (Hungary) chúng tôi ở Tân Sân Nhất hay nói chuyện với các đồng
nghiệp Bắc Việt. Chúng tôi cũng có người ở Hà Nội. Chúng tôi đoán có thể
làm một cái gì đó dựa theo những đường nét sau đây. Thiệu phải từ chức.
Hoa Kỳ phải hứa không can thiệp công chuyện của Nam Việt Nam ngoài
chuyện duy trì một đại sứ quán bình thường. Phía Nam Việt Nam thì phải
có một chính quyền gồm những người mà Bắc Việt có thể chấp nhận. Đó là
những nét chính.”
Tôi nói, “Vâng, thế thì cám ơn anh. Dĩ nhiên tôi sẽ báo cáo những gì
chúng ta vừa trao đổi. Tôi sẽ bàn với đại sứ để sau đó chuyển về
Washington, và rồi sẽ nói lại với anh sau. Trong khi chờ đợi câu trả lời
từ Washington, anh làm ơn nói chuyện lại với các bạn anh để tìm hiểu một
số người nào mà họ xem là có thể chấp nhận được trong chính phủ hộ tôi
được không?”
Vài ngày sau đó, Thiệu từ chức. Tôi trở lại gặp ông bạn Hungary và nói,
“Thấy chưa, tôi đã thực hiện điểm đầu tiên của anh. Chúng tôi vẫn chưa
có câu trả lời dứt khoát (từ Washington). Anh có đề nghị nào về những
cái tên chưa?” Ông trả lời, “À, có chứ, nhưng tôi không rành tiếng Việt
lắm, cho nên tôi đã ghi ra.” Ông móc cuốn sổ tay ra và đọc cho tôi một
số tên, tất cả đều quen thuộc với tôi.
Xong tôi nói, “Tốt lắm, tất nhiên tôi sẽ tiếp tục báo cáo rồi sẽ cho anh
biết sau.” Nhưng ông ta nói, “Các đồng nghiệp của tôi muốn nói thêm như
thế này nữa, họ nói với tôi rằng khi họ nói các anh phải quyết định
nhanh nhanh thì điều đó có nghĩa là trong vòng vài ngày, không phải vài
tuần.”
Tôi xin dừng lại ở đây để nói thêm rằng ông đại sứ rất siêu lòng về giải
pháp này. Ông nghĩ rằng đây là chuyện mà chúng ta có thể làm được. Nhưng
chúng tôi gặp phải phản ứng rất tiêu cực của Kissinger. Kissinger chẳng
muốn điều đình gì cả.
Thế rồi chúng tôi gặp lại nhau ngày 26 hoặc 27 gì đó. Lần này, ông nói,
“Thôi, tôi nghĩ bây giờ đã quá trễ.” Nói cách khác, khoảnh khắc mà họ
xem là thuận lợi để có một thỏa hiệp nào đó đã vuột khỏi tầm tay.
Lý do tôi kể ra chuyện này là vì tôi muốn nói những lời mạnh mẽ nhất có
thể được, rằng chúng ta chưa hề có một thỏa hiệp nào và chúng ta chưa hề
làm những gì mà phía bên kia muốn chúng ta làm, còn chuyện Thiệu từ chức
là hoàn toàn vì những lý do khác, nhưng tôi cứ làm bộ với họ rằng chúng
ta có can dự vào chuyện này.
Họ muốn tránh làm nhục Hoa Kỳ một cách không cần thiết, nhưng cuộc thu
xếp không thành theo cái nghĩa là người Hungary không còn cảm thấy họ có
thể đóng góp một cái gì đó để mang lại giải pháp.
Thiệu từ chức
Ngày Thiệu từ chức là thứ Hai, 21 tháng Tư. Ông đại sứ không nói với
Thiệu về chuyện từ chức, nhưng tính đến ngày 19 tháng Tư, khi đại sứ nói
chuyện với tổng thống, rõ ràng là Thiệu đã mất tin tưởng với tất cả mọi
người, và cũng rõ ràng là mọi người đều thấy Thiệu là trở ngại cho bất
kỳ một thu xếp nào, bất kỳ một ngưng bắn dễ chịu nào, nói tóm lại là nếu
còn Thiệu thì chẳng làm được bất kỳ chuyện gì.
Một hôm, ông đại sứ gọi tôi vào văn phòng, cho biết ông vừa đi gặp Tổng
thống Hương và Hương cho biết không thoải mái khi Thiệu vẫn còn ở Việt
Nam. Hương nghĩ rằng sự có mặt của Thiệu làm loãng đi quyền lực của
Hương và Hương coi như bị tê liệt, bao lâu mà Thiệu vẫn còn đó. Hương
khẩn thiết quay sang Đại sứ Martin bởi vì chỉ có Hoa Kỳ mới ở vào vị trí
có thể làm gì đó để giải quyết chuyện này. Hương còn nói đưa Thiệu ra
khỏi Việt Nam cần phải làm trong vòng tuyệt đối bí mật.
Thật vậy, Đại sứ Martin, một khi nghe đến tuyệt đối bí mật, nếu suy luận
một cách hợp lý, thì ông bèn nghĩ ngay đến CIA. Ông kể câu chuyện của
Hương và hỏi tôi: “Liệu anh có làm được không?”
Tôi trả lời, “Vâng, tôi làm được, thưa Đại sứ, nhưng với một số điều
kiện. Ông cứ để yên mình tôi làm. Ông giao nhiệm vụ cho tôi thì cứ để
tôi làm, đừng làm theo kiểu một nhóm, ông chịu không?” Hôm đó phải là
ngày 24.
Mọi chuyện xảy ra dồn dập sau ngày đó. Tôi biết chỗ để tìm ra chiếc máy
bay thích hợp. Tôi sử dụng Tướng Timmes làm đầu mối liên lạc chính (với
chỗ có máy bay).
Bấy giờ Thiệu đang ở căn biệt thự bên trong bộ Tổng tham mưu. Các tướng
lãnh Việt Nam đều có biệt thư trong khu vực gần Tân Sơn Nhất này.
Chúng tôi đồng ý với một kế hoạch hành động. Có một vài chuyện cần phải
lo lắng. Lo lắng về công luận. Lo lắng phe quân đội bất tuân kỷ luật có
thể xen vào, một số sĩ quan trung cấp muốn lấy tiếng trong lịch sử (như
đã từng xảy ra đảo chánh và dội bom). Lo lắng về các trạm kiểm soát của
cảnh sát trên đường vào Tân Sơn Nhất, các trạm này đã có sẵn, chẳng liên
quan gì đến chuyện Thiệu ra đi.
Vì thế, chúng tôi phải bịa ra một câu chuyện, giả vờ đi dự một buổi liên
hoan ở Bộ Tổng tham mưu. Chúng tôi dùng các xe màu đen bốn cửa thông
thường của Mỹ, trong đó có xe đại sứ, xe tôi, xe phụ tá của tôi, vừa đủ
để chở từ 10 đến 12 người, cọng thêm các tài xế, cọng thêm Timmes, cọng
thêm tôi, cọng thêm hành lý.
Chúng tôi dặn mỗi người chỉ được mang một kiện hành lý và hẹn gặp nhau
tại biệt thự của Thủ tướng, là tướng Khiêm. Lý do chọn nhà của Khiêm thứ
nhất nhà này rộng nhất, thứ hai ít gây chú ý hơn nhà của Thiệu.
Chúng tôi cũng đồng ý sẽ bay tới Đài Loan, nơi Thiệu có ông anh làm đại
sứ, ông này sẽ thu xếp với nhà chức trách Đài Loan để cho mọi người nhập
cảnh. Hơn nữa, Thủ tướng Khiêm trước đây đã từng làm đại sứ ở đó nên ông
cũng có những quen biết riêng.
Khi chọn Đài Loan làm điểm đến, tôi cũng chịu ảnh hưởng bởi khả năng của
chiếc DC-6. Đài Loan là điểm xa nhất mà loại máy bay này đến được mà
không cần tiếp nhiên liệu.
Về phía tài xế thì tôi chọn những người mà tôi nghĩ là hay nhất, đáng
tin cậy nhất, và có tinh thần cao nhất. Dĩ nhiên, tôi không muốn dùng
tài xế người Việt trong trường hợp này.
Một trong những tài xế là Frank Snepp (ngạch Phân tích gia CIA, sau 75
viết cuôn Decent Interval, cũng thuật lại những ngày cuối cùng mất miền
Nam.) Timmes ngồi ghế hành khách vì cấp bậc anh ta không cho phép anh
lái xe và ngạch trật của tôi cũng vậy.
Tiếp theo là tìm một cấp đại tá cảnh sát Việt Nam được biệt phái từ quân
đội sang, tôi muốn có “một người nào có quyền ra lệnh” để lỡ gặp những
người canh gác có thắc mắc, hỏi han làm khó.
Thật ra tôi nghĩ chắc chẳng có ai làm khó khi thấy bốn chiếc xe Mỹ do
bốn người Mỹ lái, họ sẽ nhận ra xe của đại sứ Mỹ đi họp.
Chắc chắn sẽ không có vấn đề gì nhưng tôi vẫn muốn có ông đại tá quân
đội biệt phái sang cảnh sát để phòng hờ trường hợp có quá đông người
trên các xe.
Chúng tôi không rõ Thiệu sẽ mang theo người nào. Chúng tôi biết đích
thân Thiệu sẽ đi, Khiêm cũng vậy, nhưng không biết số người còn lại gồm
những ai.
Do đó, chúng tôi mang theo một số giấy tờ đã ký sẵn nhưng tên thì để
trống, để Timmes sẽ điền vào bằng tay. Chúng tôi sẽ đưa những giấy tờ
này cho trưởng phi cơ và dặn, “Khi nào bạn đến Đài Loan, chúng tôi sẽ
thông báo cho giới chức quân sự Mỹ, bạn phải xin nói chuyện với giới
chức quân sự Mỹ cao cấp nhất ở đó, và trao cho người đó bao thư này,
trong đó có tất cả giấy tờ về hành khách.”
Cùng khi ấy, một chiếc xe khác đưa ông đại sứ đến thẳng máy bay vì ông
muốn từ giã Thiệu. Trước đó, tôi nói với ông, “Tôi không muốn ông đi
cùng xe với tôi loanh quanh khắp thành phố, như vậy sẽ tạo thêm rủi ro.”
Chúng tôi đổi xe với nhau, ông ấy dùng xe tôi, tôi dùng xe ông.
Mọi việc diễn ra đúng y bon như đồng hồ Thụy Sĩ, giống như mọi chuyện
thường xảy ra khi chúng tôi làm một mình. Chúng tôi đưa mọi người đến
máy bay an toàn, đưa họ cùng hành lý lên máy bay, và máy bay cất cánh.
Tôi đi cùng xe với Thủ tướng. Nếu tôi không lầm, tướng Timmes đi với
Thiệu. Không khí rất êm ả, không nghe tiếng khóc. Bà con họ đã đi hết
rồi.
Thật ra tôi ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên bởi vì trong số tất cả những
người thân cận với Thiệu, người duy nhất mà ông muốn mang theo lên máy
bay là cựu Thủ tướng Khiêm. Cái này hơi buồn cười bởi vì trong những năm
trước đó, các quán cà phê ở Sài Gòn đồn rằng có sự kèn cựa giữa Thiệu và
Khiêm, người này sẽ đẩy người kia đi, đại loại như vậy. Thật vậy, tôi
không hề muốn kể công bởi vì thực sự tôi có quan hệ tốt với Thủ tướng,
tôi luôn luôn đánh giá ông là người trung thành với Thiệu.
Đêm hôm đó có tất cả 14 người đi trên phi cơ, toàn là đàn ông.
Bữa đó tôi lo lo, lỡ có chuyện gì không vui xảy ra nếu có người biết
được Thiệu có mặt trong đoàn xe. Nhưng tôi lại nghĩ thế nào dân Việt Nam
cũng phân biệt được giữa một đoàn xe trông có vẻ quan trọng của tòa đại
sứ Mỹ khác với cách di chuyển thường lệ của Thiệu trong thành phố bằng
chiếc Mercedes cũ.
Lúc đó trời tối và tôi nghĩ khó có chuyện xen vào công việc của bốn
chiếc xe Mỹ. Chiếc dẫn đầu là chiếc Chevrolet Caprice bọc thép của đại
sứ, trong xe có tôi, có ông đại tá cảnh sát bên cạnh. Vấn đề lớn nhất
của tôi là rủi cảnh sát chận lại hỏi giấy tờ và chiếu đèn sáng vào bên
trong thì họ sẽ nhận ra Thiệu và Khiêm.
Nhưng trong thực tế, khi bốn chiếc xe trông có vẻ quan trọng tiến gần
sát trạm kiểm soát của cảnh sát, mọi người đứng nghiêm và chào tay; và
đó là điều tôi mong đợi.
Thực ra, kinh nghiêm về thứ tâm lý này tôi đã học được sau lần đưa một
nhân vật quan trọng đào thoát khỏi Đông Berlin trên một chiếc xe loại
lớn như vậy, chúng tôi tính toán rằng khi lính gác Soviet thấy một chiếc
xe loại này, họ sẽ chào tay. Và họ chào thật.
Số vàng để lại
Đêm hôm đó, Thiệu không mang theo một tí vàng nào. Chuyện đó (người ta
nói Thiệu mang vàng đi) là chuyện ba láp. Đương nhiên là ông không mang.
Không một ai có đầu óc tỉnh táo mà lại bỏ vàng trong va li kêu leng keng
như vậy, trời ạ. Tôi quen một người Việt mang vàng đi và tôi biết số
vàng này được nén chặt và bọc lại trong lớp quần áo có giây thun hoặc
băng keo cột lại. Chẳng ai muốn thứ này kêu lục cục trong túi hành lý.
Sự thực là kho dự trữ vàng của miền Nam nằm yên tại chỗ và vẫn còn đó
khi đạo quân miền Bắc vào. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam quản lý số vàng
đó, được định giá từ 18 đến 20 triệu đô la. Cái giá đó là tính theo giá
một ounce vàng là 35 đô la. Nhưng khi Nixon đánh tụt giá đồng đô la vào
năm 1971 thì 75 đô la mới mua được một ounce. Như vậy ta có thể nói số
vàng dự trữ tại thời điểm tháng Tư 75 là gấp ba hoặc bốn lần con số nói
khi trước.
Thời kỳ đó, uy tín về giao dịch tài chính quốc tế của Nam Việt Nam hầu
như là con số không, (rất khó vay mượn ai) giữa lúc Quốc hội Mỹ rề rà
trong chuyện viện trợ, nếu không muốn nói là bác bỏ cho xong.
Như thường lệ, mỗi khi cần có ý kiến táo bạo, thì Đại sứ Martin có ngay.
Ông đề nghị Nam Việt Nam gửi số vàng này cho cơ quan Dự Trữ Liên bang
Hoa Kỳ (FED-tương đương Ngân hàng Trung ương Mỹ) dùng đó làm thế chấp để
mua chịu vũ khí. Thiệu chấp nhận ý kiến này.
Khi đó, hãng máy bay chở hàng Basel Air, công ty con của hãng hàng không
Thụy Sĩ Swiss Air, tình cờ có một máy bay ở Sài Gòn. Chính phủ Việt Nam
nói với Basel Air, “Chúng tôi định gửi số vàng này sang cơ quan Dự Trữ
Liên bang Hoa Kỳ, các bạn có thể chở theo kiểu hàng hóa thương mại thông
thường được không?” Phía Thụy Sĩ suy nghĩ một hai ngày rồi nói không. Lý
do là bảo hiểm, họ nói họ không có cách chi mua được bảo hiểm để có thể
chở 70 triệu đô la vàng ra khỏi Sài Gòn.
Chính phủ Việt Nam bèn quay sang Không quân Mỹ. Câu chuyện được mang ra
bàn ở Hội đồng An ninh Quốc gia. Không quân Mỹ dễ dàng chở một tấn rưỡi
vàng này đi chỗ khác, nhưng không thể mua bảo hiểm khi chở trên một máy
bay quân sự, chấm hết.
Cục than nóng này mới chuyền sang tay các luật gia của Bộ Ngoại giao.
Suốt thời gian đó, số vàng nằm yên tại Ngân hàng Quốc gia ở Sài Gòn. Làm
sao mua bảo hiểm cho chuyến hàng nếu dùng máy bay quân sự? Đề tài này
giúp các vị luật gia của Bộ Ngoại giao có việc làm trong suốt mấy ngày.
Trong khi đó, Thiệu từ chức, miền Nam có nhóm lãnh đạo mới. Ông Hương
hôm trước nói gửi đi, hôm sau lại nói không gửi. Cuối cùng ông nghe theo
Bộ trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Hảo, bạn của Denny Ellerman (tiến sĩ, tùy
viên kinh tế tại tòa đại sứ). Hảo kết luận rằng cách hay nhất là để số
vàng lại bởi vì tình hình bây giờ khác với tình hình lúc Martin đề nghị;
hơn nữa, nếu có nhận thêm được viện trợ quân sự của Mỹ nhờ số vàng này
thì số viện trợ đó cũng không đến kịp lúc để giúp giải quyết vấn đề, và
uy tín của miền Nam sẽ khá hơn nếu giữ số vàng lại trong nước.
Rút cục số vàng vẫn nằm lại Sài Gòn, Thiệu không mang đi chút nào và
trong hành lý ông ta cũng không có vàng. (Các nhà sử học sau này có
nhiệm vụ “làm rõ” xem số vàng đó cuối cùng rơi vào tay ai, đã được chia
chác như thế nào giữa những người trong “bên thắng cuộc”).
Đêm giã từ
Trời tối đen như mực khi chúng tôi ra đến thân máy bay. Chiếc phi cơ chỉ
bật những đèn nhỏ. Các chiếc xe của chúng tôi cũng bật đèn nhỏ để tiến
đến phi cơ chứ không bật đèn lớn. Đó là một chiếc cánh quạt DC-6, loại
cánh quạt cuối cùng của Mỹ. Máy bay đã từng được sử dụng cho những dịp
vui chơi, tôi đã từng đi trên đó cho nên tôi biết nó hiện hữu.
Khi Đại sứ Ellsworth Bunker (trước Martin, báo chí Việt Nam đặt cho biệt
danh Ông Già Tủ Lạnh) làm đám cưới với bà Carol Lace, đại sứ ở Nepal,
thì Bunker lúc đó ở lớp tuổi 70; trong một dịp gặp Tổng thống Johnson,
Bunker than, “Thưa tổng thống, tôi sắp gặp một vấn đề. Tôi không muốn bỏ
chức đại sứ ở Sài Gòn, còn Carol thuộc ngạch FSO (ngoại giao chuyên
nghiệp) được bổ nhiệm làm đại sứ, một chuyện rất hiếm cho phụ nữ, Carol
không muốn bỏ qua cơ hội này. Tổng thống có kế gì giúp chúng tôi không?”
Tổng thống Johnson trả lời, “Lạy Chúa tôi, nếu một người ở độ tuổi ông
vẫn còn muốn gần gủi thường xuyên với một bà vợ mới thì tôi sẽ tìm cho
ông một chiếc máy bay.” Thế là Johnson moi ở đâu ra chiếc máy bay này và
giao cho Bunker, và Bunker dùng nó để bay đi Katmandu.
Có lần ông bảo tôi đi theo. Máy bay rất đẹp, bên trong trang trí đầy đủ,
nhưng bay rất chậm, cánh quạt mà. Chiếc đó là của Không quân và khi hai
vợ chồng đại sứ không còn ở Nepal nữa, máy bay đưa về đậu tại Thái Lan
để các quan lớn Không quân dùng.
Tôi nhớ đến nó và bảo, “Đúng là chiếc mà chúng ta sẽ dùng vì nếu dùng
máy bay phản lực sẽ tạo nhiều hỗn loạn.”
Buổi tiếp tân quan trọng cuối cùng mà tôi đến dự là cái đêm hôm đó. Nó
được tổ chức tại tư thất của đại sứ Ba Lan, nhân tiện để ra mắt tân
trưởng phòng Chính trị của đại sứ quán Ba Lan cho giới ngoại giao có mặt
ở Sài Gòn. Mọi người đều đến, tất cả đại sứ còn ở lại Sài Gòn đều có
mặt.
Người trưởng phòng mới nhận nhiệm sở nói rằng ông ta nóng lòng muốn gặp
tôi, dĩ nhiên là tình hình bây giờ đã khác trước. Ông ta muốn biết quan
điểm của tôi về tình hình, chúng tôi hẹn nhau ăn trưa một tuần nữa, tức
là ngày 1 tháng 5. Ông ta nói trước tiên ông phải giải quyết vài chuyện
và một tuần nữa sẽ ăn trưa với tôi. Câu chuyện dừng lại ở đó, dù tôi vẫn
hoàn toàn mong đợi đến ngày 1 tháng 5 có dịp gặp người bạn đồng nghiệp
Ba Lan, ngoài những chuyện khác.
Đại sứ Martin không thích đi dự mấy cái màn tiếp tân này, nhưng tối hôm
đó, trước tình trạng thành phố lên cơn sốt và nhiều chuyện khác, ông
nói, “Tôi cũng sẽ đi dự buổi tiếp tân, nhưng chúng ta sẽ đi riêng,” do
đó, chúng tôi đổi xe với nhau ở phi trường.
Trước khi dự tiếp tân, tôi ghé văn phòng để gửi một công điện (về
Washington) — tôi viết ra trước và đọc qua máy vô tuyến, sau khi nói mật
mã mà tôi và nhân viên của tôi ở đầu kia đã thỏa thuận. Đại khái đó là
cái ngày mà tôi tiễn Thiệu ra khỏi Việt Nam.
Ngày ra đi
Vào cái ngày tôi rời Sài Gòn, tôi rất chán đời đến độ gần như muốn ngã
quỵ.
Màn cuối của vở kịch mở ra vào thứ Hai. Dương Văn Minh lên nhậm chức đêm
hôm đó, và ngay khi ông dứt bài diễn văn nhậm chức, Sài Gòn đổ trận mưa
to. Nước mưa tuôn xối xả. Hơi sớm vì chúng tôi chưa bước vào mùa mưa.
Thế rồi xảy ra vụ máy bay cải tiến (máy bay A-37 trước đây dùng để huấn
luyện, sau được thêm vài bộ phận để biến thành máy bay tác chiến.) Như
các bạn biết đấy, đó là những máy bay Mỹ có gắn thêm hai bình xăng phụ
50 ga-lông, lái bởi các phi công do Bắc Việt không chế, họ bỏ bom xuống
Tân Sơn Nhất (nhóm Nguyễn Thành Trung.) Lúc đó, chúng tôi vẫn còn ở
trong văn phòng, dù khi ấy vào khoảng 7 giờ. Chúng tôi vẫn còn ở văn
phòng vì thứ nhất, giờ đó ở Sài Gòn chẳng có nhiều chuyện phải làm, thứ
hai vì giờ giấc 12 tiếng khác nhau giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, buổi tối ở
Sài Gòn là buổi sáng ở Washington. Do đó, chúng tôi muốn gửi tối đa các
thông tin cho Washington trước khi bên đó người ta bắt đầu làm việc.
Trở lại chuyện chúng tôi đang ở văn phòng thì nghe tiếng nổ, tôi bèn
chui xuống gầm bàn, tôi còn nhớ rõ cái bàn mà tôi chui xuống là ở trong
phòng của trưởng ban báo cáo. Nhân viên trong ban có nhiệm vụ soạn các
báo cáo tình báo trước khi chuyển đi bằng máy điện báo. Chúng tôi rất
hãnh diện về các báo cáo này bởi vì mặc dù trong tình hình dầu sôi lửa
bỏng, chúng tôi vẫn biên tập, chỉnh sửa báo cáo rất chính xác theo tiếng
Anh, giống như dân làm báo giỏi.
Nhìn xung quanh, tôi thấy nhiều báo cáo viên cũng chui xuống gầm bàn như
tôi, và một hình ảnh mà tôi không bao giờ quên, đó là có một nữ báo cáo
viên xinh xắn, dù ở dưới gầm bàn, cũng cố với tay lấy chiếc máy đánh chữ
xuồng để gõ tiếp, nội dung như sau, “Nơi nhận: Washington. Nơi gửi: Sài
Gòn. Báo cáo tình hình lúc 19 giờ địa phương. Nhiều tiếng nổ không rõ
xuất xứ rung chuyển khu trung tâm thành phố. Mặc dù vẫn còn nổ chung
quanh chúng tôi, không ai biết chuyện gì xảy ra.”
Chẳng mấy lúc, mọi chuyện đã rõ, chúng tôi xem đó là cách trả lời của
Bắc Việt cho bài diễn văn nhậm chức của Minh.
Ông ta nói sẽ tiếp tục chiến đấu và nói toàn những chuyện ngu xuẩn mà
trước đó một tháng ông không hề nói. Theo tôi, đây là cách minh họa thực
tế của Peter Principle (Nguyên lý Peter, nguyên lý này cho rằng một
người có thể xuất chúng trong một ngành nghề nào đó, có thể leo tên tột
đình, nhưng nếu cứ tưởng người đó giỏi, đưa sang làm ngành nghề khác
cũng xuất sắc thì người đó làm hỏng bét. Ý muốn nói Minh tốt về quân sự
nhưng dốt về chính trị.) Người leo lên đỉnh cao của sự bất tài.
Dù có vụ bỏ bom, mọi chuyện ở Sài Gòn vẫn chạy tốt vào thời điểm đó. Quả
là một nghịch lý theo cái nghĩa từ suốt tuần qua, mọi việc đều chạy đều.
Điện lực tốt, điện thoại tốt, nguồn cung cấp thực phẩm cũng OK, có lẽ
ngoại trừ thiếu một chút xà-lách.
Tối đó tôi đi ngủ trễ nhưng độ bốn rưỡi lại thức giấc bởi những tiếng nổ
nữa. Nghe như tiếng đạn đại bác đang tới. Tôi gọi cho nhân viên trực của
tôi ở tòa đại sứ. Ta cần phân biệt nhân viên trực tại đó. Có nhân viên
trực của tòa đại sứ ngoài lính gác của Thủy quân lục chiến, và có nhân
viên trực của CIA. Theo truyền thống, nhất là tại Sài Gòn, CIA chúng tôi
có hai nhân viên trực lúc nào cũng phải có mặt ở tòa đại sứ. Không chỉ
khi nào cần mới có mặt, mà luôn luôn ở bên trong tòa nhà.
Tôi nghĩ hợp lý nhất là gọi người trực của tôi. Tôi hỏi, “Cho tôi biết
những gì anh biết.” Anh trả lời không biết gì nhiều vào lúc này, chỉ
biết là có pháo kích vào Tân Sơn Nhất. Một Thủy quân lục chiến đã lên
trên sân thượng và từ đó báo cáo thấy nhiều đốm cháy, anh ta đã hỏi bạn
đồng ngũ ở DAO (nằm gần Tân Sơn Nhất) nhưng trời vẫn còn tối, họ chẳng
biết gì dứt khoát. Nhưng điểm đầu tiên được biết là có thiệt hại đáng kể
và có hai Thủy quân lục chiến chết.
Tôi nói, “Thôi được, tôi thấy có vẻ khá nặng đấy. Cũng may là có anh
trực ở đây.” Hóa ra anh ta trưởng ban tài vụ của tôi. Tôi bèn ra lệnh,
“Hãy làm sẵn các bao thư khởi hành.”
Bao thư khởi hành là những phong bì trong đó có để sẵn những dặn dò hoặc
một số điện thoại của tòa đại sứ hay cơ quan khác của Mỹ ở Đông Á. Mỗi
bao thư còn có nhét 1.500 đô la Mỹ và một số loại tiền nước khác mà
chúng tôi có trong tay. Mục đích phát cho nhân viên các bao thư này để
khi họ ra được bên ngoài và bị mất liên lạc, họ cũng có thể tự xoay sở
đến được nơi nào đó an toàn.
“Anh bắt đầu chuẩn bị bao thư là vừa,” tôi nói, và cho anh biết tôi sẽ
tới tòa đại sứ.
Tôi là người đầu tiên tới nơi. Bấy giờ Thủy quân lục chiến đã có thêm
thông tin từ DAO. Dựa vào đó, tôi nghĩ cần huy động mọi người. Tôi gọi
ông đại sứ và nói, “Tôi rất có lỗi đã gọi ông vào lúc sáng sớm như thế
này — có lẽ ông chỉ mới ngủ được hơn ba tiếng — tôi rất có lỗi đã gọi
ông nhưng tôi nghĩ ông phải đến.” Ông trả lời sẽ đến.
Tòa đại sứ có thủ tục là nếu ai gọi cho mình thì mình phải gọi tiếp cho
bốn người khác và cứ thế mà tiếp tục. Chúng tôi cho áp dụng thủ tục này.
Đại sứ trông rất hốc hác sáng sớm hôm đó. Hốc hác theo nghĩa đen hẳn
hòi. Ông ta bị viêm phế quản khá nặng, và đến khi đưa ông ra được chiến
hạm, bác sĩ cho biết ông bị viêm phổi. Giọng ông khàn khàn, nói năng rất
khó. Ông có thể thì thầm, nhưng cũng khó nghe. Nhưng ông tỉnh táo 100
phần trăm, có điều là nói không được.
Khi Kissinger gọi, ông khó làm Kissinger hiểu được, nhất là đường dây
điện thoại cũng không tốt, vì thế ông cứ thì thầm để tôi lập lại cho
Kissinger. Nhưng ông cũng không nghe rõ những gì Kissinger nói.
Ngày hôm đó bắt đầu như vậy, và tình trạng này kéo dài suốt ngày.
Thế rồi ông đại sứ đòi ra Tân Sân Nhứt, bởi vì cái tính của ông là như
vậy. Dù ông có vài ông tướng Không quân ở đó, nhưng khi họ báo cáo với
ông là máy bay có thể đáp, ông vẫn không tin. Ông muốn thấy tận mắt.
Trời đã sáng tỏ, các phi công của Hạm đội 7 đã sẵn sàng, các trực thăng
đã bơm đầy xăng, mọi thứ đã lên dàn phóng.
Rồi buổi sáng hôm đó, khoảng 8 giờ 30 hoặc sớm hơn một chút, chúng tôi
nhận lệnh sẽ không di tản. Lệnh bảo chỉ giảm số nhân viên tòa đại sứ, sẽ
giữ lại tòa đại sứ ở Sài Gòn với số nhân viên là 180 người, trong đó có
50 người của CIA, nhưng nhóm 50 người đó phải phụ trách công tác thông
tin liên lạc cho tòa đại sứ. Còn các trưởng phòng khác trong tòa đại sứ
— từ kinh tế, có 8 người, chính trị, có 16 người, y tế, tài chính, hành
chính — sẽ nhận lệnh từ Washington, có thể là lệnh của Kissinger, thông
qua đại sứ.
Tôi chưa hề nhìn thấy lệnh này trên giấy tờ mà chỉ qua lời của Đại sứ
vào buổi sáng hôm ấy.
50 người của CIA phải lo vấn đề thông tin liên lạc của tòa đại sứ. Tôi
trở về văn phòng, triệu tập các phụ tá cao cấp.
Vào lúc này, nhân viên CIA của tôi có tại hàng khoảng trên 200 một chút.
Tôi nói, “Các bạn, chúng ta giảm xuống còn 50 người nhưng phải phụ trách
công chuyện thông tin liên lạc cho tòa đại sứ nhiều hơn trước. Bây giờ
thử tính xem 50 người đó là ai. Người đầu tiên là tôi.”
Chuyện này không đơn giản vì không giống như bên Hải quân, nhân viên CIA
không thể đổi vai cho nhau. Mỗi người có một chuyên ngành riêng. Người
thì báo cáo, người thì hoạt động bên ngoài, người thì phân tích, tôi
cũng cần người biết nhiều ngôn ngữ.
Cần phải giữ những người nói được tiếng Việt. Cần phải giữ vài người
biết tiếng Ba Lan để giao thiệp với họ trong ủy ban ICCS. Không có vấn
đề với tiếng Hungary vì không có ai ngoài tôi ra biết tiếng này. Tôi mất
vài tiếng đồng hồ vòng quanh giải quyết chuyện này.
Tôi cũng phải xem người nào sắp mãn nhiệm kỳ, bởi vì nếu ngày mãn nhiệm
là đầu tháng 5 thì không lý do gì giữ họ lại. Hoặc ngay khi họ có chương
trình trở về Mỹ vào tháng 7, tôi cũng không giữ. Tôi cũng xét đến hoàn
cảnh gia đình của họ, vì biết đâu chúng tôi sẽ rơi vào tình huống xấu,
giống như hồi 1954 ở Hà Nội, chúng tôi có lãnh sự quán ở đó, nhưng mất
liên lạc với họ, dù họ không bị giữ làm con tin. Họ coi như bị giam lỏng
bên trong lãnh sự quán nhưng chẳng có ai bận tâm giải cứu họ.
Lệnh tòa đại sứ ở lại cũng được chuyển cho hạm đội đang ở ngoài khơi. Tư
lệnh bấy giờ là Đô đốc Noel Geyler. Ông ta đâu phải là dân chính trị
chuyên nghiệp, vì thế, ông nói, “Thôi thì bây giờ tòa đại sứ ở lại,
chúng ta có thể cho phi công đi ngủ trở lại.” Xăng được hút ra khỏi máy
bay vì đó là quy định của tàu khi có máy bay đậu. Thế là máy bay được
đem bỏ trở lại dưới hầm tàu.
Bấy giờ là 9 giờ sáng hoặc trễ hơn một tí. Cuối cùng có lệnh lúc 11 giờ
30 là tất cả chúng tôi phải di tản.
Tôi không rõ lệnh này đến ông đô đốc lúc mấy giờ, nhưng Đại sứ Martin
nhận được lúc 11 giờ 30. Brent Scowcroft (cố vấn An ninh Quốc gia) chắc
đã thông báo cho Bộ Quốc phòng, nhưng giờ đó bên Mỹ là buổi tối, có lẽ
người nhận thông báo không có mặt để thi hành.
Tôi không biết khi nào thì ông đô đốc nhận được lệnh, nhưng sau đó, khi
tôi gặp ông trên tàu, tôi hỏi, “Chuyện gì xảy ra vậy?” Ông trả lời,
“Chẳng có chuyện gì. Ngay khi nhận lệnh di tản, tôi đã ra lệnh bơm xăng
các máy bay, tôi dựng đầu các phi công dậy, nhưng rồi lại có lệnh phải
đưa một lực lượng Thủy quân lục chiến đến giữ an ninh cho cuộc di tản.
Anh biết đấy, số binh sĩ này đâu có đủ trên chiếc tàu có trực thăng,
chúng tôi phải đi thu góp Thủy quân lục chiến từ các chiến hạm xung
quanh, tập trung họ lại trên chiếc tàu có trực thăng. Tất cả như vậy
phải mất thời gian.”
Giờ đây, nếu có ai hỏi tôi có ngạc nhiên về những gì xảy ra hay không,
tôi sẽ trả lời tôi chẳng có gì ngạc nhiên. Tôi vẫn luôn nghi ngờ về năng
lực của quân đội Mỹ có thể phản ứng thật mau lẹ trong trường hợp có
chuyện khẩn cấp xảy ra. Quân đội Mỹ có lối tổ chức rất quan liêu. Lẽ ra
trước đó 24 tiếng, khi biết tình hình Sài Gòn đang xảy ra như vậy, người
ta phải thu xếp để các Thủy quân lục chiến ở gần các trực thăng, thay vì
phân tán đi các tàu khác nằm trên biển mênh mông.
Náo loạn, bát nháo
Thế rồi một chuyện có thể không tiên liệu trước đã xảy ra. Một khi tin
tức được loan truyền khắp Sài Gòn rằng người Mỹ sẽ ra đi, người ta đùng
đùng đổ về những con đường chung quanh tòa đại sứ, giao thông tắc nghẽn
trong khu vực. Ở những khu vực khác còn đi được, chung quanh tòa đại sứ
thì không hề. Do đó, kế hoạch dùng từng đoàn xe buýt xuất phát từ tòa
đại sứ chở người di tản ra DAO coi như rất khó thực hiện, bởi vì chỉ cần
hé cổng vửa đủ cho xe buýt lọt ra, cả tòa đại sứ sẽ bị tràn ngập.
Trước buổi sáng hôm ấy nhiều ngày, chúng tôi đã bắt đầu hủy hồ sơ, tài
liệu, hủy một cách có hệ thống.
CIA chúng tôi có quy luật hay, đó là bất cứ tài liệu gì có ở thực địa
cũng phải có một bản sao nằm ở Mỹ. Mỗi khi có nhiệm sở CIA nào mất một
tài liệu gì đó, thì chỉ là chuyện nhỏ. Do đó, chúng tôi có thể hủy tất
cả. Thật vậy, trong những giờ còn lại mà chúng tôi ở đó, chúng tôi đã rà
soát tất cả các tài liệu để có thể hủy một cách có phương pháp, những
tài liệu nào mà có thể gợi ý rằng người Việt này nọ đã từng giao thiệp
gần gũi với chúng tôi. Tôi có một anh bạn vẽ bức tranh tặng tôi và có ký
tên trên đó, những loại như vậy cũng chắc chắn bị hủy. Người Việt Nam có
thói quen tặng những tấm lắc kỷ niệm khi chúng tôi đến thăm họ. Những
tấm ấy cũng dứt khoát phải hủy.
Về cây me trong sân tòa đại sứ hay được nhiều người nói đến, trong tất
cả các buổi họp tại tòa đại sứ mà tôi có dự, tôi chẳng bao giờ nghe bàn
về chuyện chặt hạ nó. Nhưng tôi vẫn giữ nhiều cảm xúc về nó bởi vì nhờ
có nó mới đánh giá được đẳng cấp trong tòa đại sứ.
Xung quanh tàng cây me có một khoảng trống để đậu xe. Nếu xe anh đậu
ngoài bóng mát của cây, xe anh bên trong sẽ nóng như lò lửa. Xe của đại
sứ được đậu trong bóng mát, nếu xe anh cũng đậu trong bóng mát thì chứng
tỏ anh cũng thuộc cấp cao.
Đương nhiên tôi vẫn nhớ đến cây me đó vì nó có một chức năng giá trị.
Nhưng nếu nói một cách nghiêm chỉnh, có liên quan đến di tản, tôi chưa
hề nghe ai nói gì về cây me đó. Nhưng cũng dĩ nhiên là nếu cần đáp một
chiếc trực thăng xuống bãi đậu xe của tòa đại sứ, chặt hạ một cái cây
cản đường cũng hợp lý thôi, khỏi cần mang ra bàn cãi. (Câu chuyện cây me
cũng được nhắc tới trong một bộ phim tài liệu về những ngày cuối cùng
của Mỹ tại miền Nam Việt Nam.)
Một khi ông đại sứ đã rời khỏi Việt Nam, vào sáng hôm sau, tôi không có
lý do gì để ở lại đó, và nhân viên của tôi cũng không thể ra đi nếu tôi
còn ở lại. Người phó của tôi nhất định không đi, bao lâu mà tôi còn đó.
Rút cục tôi quyết định gửi người đi theo thứ tự không cần thiết ở một
mức độ nào đó.
Khi tôi nói không cần thiết không có nghĩa là tôi hạ thấp giá trị người
đó mà vì công việc của người đó đã chấm dứt so với công việc của người
khác. Thực ra, tại thời điểm đó, tôi có thể gửi hầu hết các báo cáo viên
về Mỹ vì họ chẳng còn gì để báo cáo. Tôi cũng có thể gửi những người
chịu trách nhiệm tại các Quân đoàn 1, 2 và 3. Họ chẳng còn gì để chịu
trách nhiệm. Nhưng tôi có thể giữ những người trách nhiệm ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long (Quân đoàn 4) vì tôi chưa nắm vững tình hình ở đó.
Tôi có thể gửi nhân viên hành chính. Tôi không cần nhân viên phòng nhân
sự nữa. Đó là cách tôi giải quyết xem ai đi và khi nào đi. Mọi chuyện
diễn ra trôi chảy. Chúng tôi chả bao giờ lo xảy ra chuyện tòa đại sứ bị
đánh chiếm, hoàn toàn không.
Có lẽ vấn đề lớn cuối cùng mà tôi và nhân viên tôi lo lắng là làm thế
nào đưa một số người Việt vào bên trong tòa đại sứ.
Bấy giờ, tòa đại sứ bị bao vây, theo nghĩa đen, bởi cả chục ngàn người,
đông đến độ muốn tiến gần đến cổng cũng đã là khó. Nhưng chúng tôi vẫn
còn một số người bên ngoài mà chúng tôi hết sức muốn đưa vào bên trong
để di tản, ví dụ trưởng phòng thông tin tình báo, tư lệnh phó cảnh sát,
trong thực tế là một vị trí cảnh sát lo về chính trị. Chúng tôi còn phải
lo cho vợ và các con của một trung tướng tâm lý chiến, chúng tôi có Bộ
trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn, chúng tôi có trưởng ban nghi lễ và gia
đình, tất cả còn bên ngoài tòa đại sứ. Làm thế nào giúp họ di tản bây
giờ?
Tôi liên lạc được với họ. Tướng Đôn xoay sở leo lên được một trực thăng
đáp xuống sân thượng một khu chung cư mà lẽ ra không được đáp, đây cũng
là một câu chuyện riêng biệt. Lúc bấy giờ tôi hỏi xem có ai tình nguyện
đi sau cùng hay không, có hai anh chàng khá lực lưỡng và quyết chí đưa
tay lên, và nhờ họ ra đứng gần hàng rào mà chúng tôi cũng nhấc bổng lên
được vào bên trong một số người mà chúng tôi muốn đưa đi.
Thấy có vài sĩ quan quân đội trong đám đông, chúng tôi đặt điều kiện với
họ nếu giúp tìm ra được trong đám đông những người mà chúng tôi muốn đưa
đi thì chúng tôi sẽ đưa họ đi theo, và họ đã làm được.
Suốt ngày hôm đó chúng tôi cũng điều đình với
một số nhân viên cảnh sát. Nếu họ trà trộn bà con họ vào nhóm chúng tôi
và đưa được cả đám lên xe buýt hoặc lên máy bay thì họ và bà con của họ
cũng được đi luôn. Các cuộc thu xếp có vẻ rất thành công. Dàn xếp với
cảnh sát thì thân thiện hơn vì chúng tôi quen và tin họ, và họ cũng tin
chúng tôi. Có điều hơi buồn cười là cái hôm cuối cùng đó, các đoàn xe
của chúng tôi được hộ tống bởi một số xe mô-tô của phủ tổng thống, và họ
đã hộ tống được nhiều người đến các địa điểm tập họp khác nhau.
Trong sân của tòa đại sứ, chúng tôi cho các xe hơi đậu quay mũi xe vào
giữa sân, để máy nổ và bật đèn lên hết cho đến khi hết xăng hoặc hết
bình điện.
Rồi chúng tôi có lệnh phải ra đi, cuối cùng người ta nói với ông đại sứ,
“Ông phải có mặt trên chiếc này.” Lúc đầu thì người ta nói máy bay sẽ
đáp xuống bãi đậu xe, chúng tôi bèn chạy xuống tầng dưới. Sau đó họ nói
kế hoạch đã thay đổi và cho biết, “Không, máy bay sẽ đáp trên nóc.”
Tôi không thuộc thành phần có liên hệ gia đình với người Việt. Tôi không
có nhiều cảm xúc với đất nước này giống như một số đồng nghiệp của tôi,
họ yêu Việt Nam thực sự. Nhưng sau cùng, nhìn thấy cái kết, tôi nghĩ
chúng ta đã làm một việc tệ hại cho người dân ở đó, lẽ ra họ đã có cuộc
sống khá hơn nếu ngay từ đầu chúng ta đừng bao giờ đến đó.
Trời khá tối khi chúng tôi lên đường. Hướng Tân Sân Nhứt tôi thấy có vài
đám cháy, nhưng nói chung, thành phố có hình ảnh ban đêm quen thuộc bình
thường. Đèn đường vẫn sáng, đèn giao thông vẫn chạy. Quả là kỳ quái, có
vẻ bất thường với một đất nước đang sống những ngày cuối cùng. Tôi không
muốn nói chỉ có một đêm, mà tất cả những đêm trong mấy tuần cuối cùng
tại Sài Gòn. Có vẻ như không đúng với thực tế bởi vì mọi thứ đều có vẻ
bình thường. Không giống cuộc vây hãm dài ngày ở Warsaw (quân đội Ba Lan
chống quân xâm lăng Đức Quốc Xã từ 1 tháng 9 đến 1 tháng 10 năm 1939 mới
đầu hàng.) Chỉ mới một ngày trước khi thành phố sụp đổ, ta vẫn có thể đi
ăn nhà hàng, thưởng thức món ăn ngon và rượu vang ngon.
Không ai bắn theo máy bay chúng tôi trên đường ra. Đó là một câu chuyện
khác. Người Bắc Việt là dân khôn ngoan. Không giống như người Hồi giáo
Shia, người Bắc Việt là dân khôn ngoan. Họ không bao giờ muốn gây ra
chuyện gì có thể tạo một cái cớ để người Mỹ can thiệp trở lại. Nếu họ
giết đại sứ thì có thể là đi quá đà, ngay cả Quốc hội cũng sẽ nổi giận.
Cách tiếp đón chúng tôi trên chiến hạm Blue Ridge cho thấy cách hành xử
tồi tệ nhất của dân nhà binh. Tôi nghĩ người duy nhất không bị soát
người là ông đại sứ. Họ soát người và đồ đạc chúng tôi mang theo. Vào
thời bình, ngạch trật của tôi cao hơn viên đô đốc chỉ huy chiếc tàu này.
Dù vậy, chẳng có ai phản đối. Chúng tôi mệt mỏi. Chúng tôi khá dễ bảo.
Chúng tôi là đoàn quân bại trận.
Người dịch: Châu Quang |