Đại dịch và trật tự chính trị
Francis Fukuyama
Ba yếu tố quan trọng trong việc đối phó hữu hiệu với đại dịch là
khả năng của nhà nước, lòng tin của xã hội và lãnh đạo (Francis
Fukuyama).
(Bản dịch bài “The
Pandemic and Political Order” của Francis Fukuyama, đăng trên tạp
chí Foreign Affairs số Jul/Aug 2020.
Francis Fukuyama là một học giả về khoa chính trị học, kinh tế
chính trị học và là một cây bút thường xuyên trên các tạp chí kinh tế và
chính trị. Hiện nay ông là Olivier Nomellini Senior Fellow tại viện
nghiên cứu Freeman Spogli Institute for International Studies, đại học
Stanford. Ông là tác giả cuốn sách “Identity:
The Demand for Dignity and the Politics of Resentment.
Cuộc khủng hoảng lớn nào cũng kèm theo những hệ quả lớn, thường là khó
thấy trước được. Cuộc Đại Khủng Hoảng thập niên 1930s đã kích thích chủ
nghĩa cô lập, chủ nghĩa dân tôc, chủ nghĩa phát xít và Thế Chiến 2 nhưng
đồng thời cũng dẫn đến chính sách Kinh Tế Mới, sự trỗi dậy của nước Mỹ
như một siêu cường thế giới và cuối cùng là việc phá bỏ chế độ thực dân
trên toàn thế giới. Cuộc tấn công 9/11 đã gây ra hai cuộc chiến mà nước
Mỹ đã can thiệp thất bại, sự trỗi dậy của Iran và những dạng Hồi Giáo
cực đoan. Cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008 làm nổi lên phong trào dân
túy chống lại những định chế cũ, làm thay đổi nhiều lãnh đạo trên thế
giới. Các sử gia sau này sẽ truy ra những hệ quả to lớn từ đại dịch gây
ra bởi con vi trùng corona chủng mới này. Nhưng với chúng ta, sự thách
đố là hình dung được những hệ quả này, ngay từ thời điểm này.
Lý do tại sao cho đến nay vài quốc gia đối phó với đại dịch hữu hiệu hơn
những quốc gia khác thì khá rõ và chúng ta cũng có lý do để tin là sự
đối phó hữu hiệu này sẽ tiếp tục như vậy. Đó không phải là vấn đề thể
chế chính trị. Vài thể chế dân chủ đối phó cơn dịch tốt trong khi các
thể chế dân chủ khác lại tệ hại, và ngược lại. Điều này cũng đúng với
các chế độ độc tài chuyên chế. Ba yếu tố quan trọng trong việc đối phó
hữu hiệu với đại dịch là khả năng của nhà nước, lòng tin của xã hội và
lãnh đạo. Quốc gia nào có cả ba yếu tố này: guồng máy nhà nước vận hành
tốt đẹp, một chính phủ mà người dân tin tưởng và lắng nghe , và lãnh đạo
quốc gia có năng lực thì sẽ đối phó đại dịch rất hữu hiệu, giới hạn được
thiệt hại phải chịu đựng. Những quốc gia nào có bộ máy nhà nước vận hành
tồi tệ, xã hội phân rã và lãnh đạo yếu kém thì đối phó cơn dịch cũng tồi
tệ, làm sinh mạng người dân và kinh tế của họ chịu thiệt hại nặng nề.
Càng hiểu nhiều về COVID-19, đại dịch gây ra bởi con vi-rút
corona chủng mới này, ta lại càng thấy rằng cuộc khủng hoảng này sẽ kéo
dài, tính bằng năm chứ không bằng quý. Con vi-rút này có vẻ làm chết
người ít hơn là như người ta sợ lúc ban đầu nhưng nó lại cực kỳ lây lan
và thường lây bệnh khi người bị nhiễm chưa có triệu chứng biểu lộ ra
ngoài. Ebola gây tử suất rất cao nhưng khó nhiễm bệnh, vì nạn nhân
thường chết mau chóng trước khi họ có thể lây bệnh cho người khác. Ngược
lại COVID-19 làm người ta coi thường nó lúc đầu thay vì chặn từ gốc,
khiến cho bệnh lây lan toàn cầu gây ra chết chóc nhiều như vậy. Sẽ không
có một thời điếm nào mà mọi quốc gia trên thế giới có thể tuyên bố họ
chién thắng được cơn dịch. Thay vào đó các nền kinh tế sẽ mở cửa chậm
chạp, dò dẫm từng bước một, và sẽ khựng lại nhiều lần bởi những đợt
nhiễm bệnh mới. Sự hy vọng về sự phục hồi kinh tế kiểu chữ V thì quá lạc
quan. Nhiều khả năng xẩy ra hơn là sự phục hồi hình chữ L với phần nằm
ngang kéo dài rồi mới cong lên hay một loạt những chữ W nối nhau. Kinh
tế thế giới sẽ không sớm trở lại thời tiền COVID-19.
Về khía cạnh kinh tế, một cuộc khủng hoảng kéo dài sẽ làm nhiều
thương mại vỡ nợ và hậu quả sẽ khốc liệt cho một số công nghiệp như
thương xá, chuỗi bán lẻ hay du lịch. Mức độ tập trung thị trường ở Mỹ
vốn đã tăng lên nhanh chóng vài thập niên gần đây, thì nay đại dịch sẽ
thúc đẩy khuynh hướng này nhanh hơn nữa. Chỉ có những đại công ty với
tiền đầy túi mới thoát qua được cơn bão. Những anh khổng lồ về kỹ thuật
sẽ được lợi nhất: tương tác bằng kỹ thuật số sẽ càng ngày càng quan
trọng.
Hệ quả về chính trị còn đáng kể hơn nữa. Chính quyền có thể cổ động,
tuyên dương những người dân làm những hành động anh hùng giúp đỡ người
khác trong một thời gian nào đó nhưng không phải là lúc nào cũng được
thế. Một đại dịch kéo dài, cộng với thất nghiệp trầm trọng và gánh nợ
nần lớn chưa từng có, sẽ tạo ra những áp lực, biến thành sự chống đối về
chính trị, chống đối ai thì còn chưa rõ.
Quyền lực thế giới sẽ tiếp tục dịch chuyển về phía đông, vì Đông
Á đã kiểm soát cơn dịch tốt hơn Âu Châu hay Mỹ.
Mặc dầu cơn dịch khởi đầu từ Trung Quốc và Bắc Kinh đã che dấu
cơn dịch và làm nó bành trường thay vì chận đứng, Trung Quốc có vẻ hưởng
lợi từ đại dịch, ít nhất là so với các nước khác. Như ta đã thấy, nhiều
chính phủ khác lúc đầu cũng phản ứng tồi tệ, rồi cũng cố gắng che giấu
nhưng lộ liễu hơn và gây ra những hậu quả chết người hơn cho công dân
của họ. Ít ra là Bắc Kinh có thế kiểm soát được tình hình, tiếp tục con
đường vực dậy được nền kinh tế để nó vận hành nhanh chóng và vững chắc
trở lại.
Ngược lại, nước Mỹ đã đối phó đại dịch vụng về và thấy uy tín
quốc gia sụt giảm trầm trọng. Nước Mỹ có tiềm năng quốc gia to lớn, đã
đối phó với các đại dịch trước cực kỳ hữu hiệu, thì nay với xã hội phân
rã cao độ và một lãnh tụ yếu kém, đã làm quốc gia không còn vận hành hữu
hiệu nữa. Một tổng thống chỉ khơi dậy chia rẽ thay vì cổ súy đoàn kết,
chính trị hóa việc phân phối vật phẩm cứu trợ, đấy trách nhiệm về phía
các thống đốc tiểu bang, khiến họ phải ra những quyết định quan trọng
nhưng đồng thới lại xúi dục người dân biểu tình chống lại thống đốc
trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và tấn công các định chế quốc tê
thay vì gìn giữ các định chế này. Cả thế giới xem TV, tròn xoe mắt, và
Trung Quốc không chậm trễ gì trong việc so sánh rõ hai cách đáp ứng đại
dịch này, của họ và của nước Mỹ.
Trong những năm sắp tới, đại dịch này có thể dẫn đến việc nước Mỹ
suy yếu hơn, tiếp tục bào mòn trật tự tự do khai phóng của thế giới, đưa
đến sự trỗi dậy của phát xít toàn cầu. Nhưng nó cũng có thể dẫn đến việc
nền dân chủ tự do khai phóng hồi sinh lại, một hệ thống mà những người
hồ nghi nó phải nhiều lần xét lại sự hồ nghi, sau những lần hồi sinh
ngoạn mục của hệ thống. Có thể nơi này của thế giới
sẽ có viễn cảnh này và nơi khác
viễn cảnh khác. Rất tiếc là trừ trường hợp những khuynh hướng hiện nay
thay đổi đáng kể, búc tranh tổng quát khá ảm đạm.
Viễn cảnh Phát Xít trỗi dậy
Cũng không khó để hình dung ra
những điều bi quan sẽ xẩy ra. Chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa cô lập, sự
kỳ thị người nước khác và sự tấn công vào trật tự tự do khai phóng của
thế giới đã gia tăng nhiều năm nay. Đại dịch này sẽ chỉ làm nó tăng
nhanh hơn. Chính quyền ở Hungary và Philippines đã dùng đại dịch này để
tự cho họ quyền lực đặc biệt vốn chỉ áp dụng lúc khẩn cấp, và làm chính
quyền tách rời hơn nữa khỏi nền dân chủ. Nhiều quốc gia khác, trong đó
có Trung Quốc, El Salvador và Uganda, đã thi hành những biện pháp tương
tự. Hàng rào ngăn cản con người đi lại xuất hiện khắp nơi, ngay cả ở
trung tâm Âu Châu. Thay vì hợp tác với nhau vì lợi ích chung, các quốc
gia lại có những chính sách vị kỷ, kèn cựa nhau và làm những đối thủ trở
thành con dê tế thần vê phương diện chính trị cho những thất bại của
chính họ.
Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc sẽ làm tăng mâu thuẫn quốc tế. Nhiều
lãnh tụ sẽ thấy việc kình địch với ngoại quốc là một cách hữu hiêu để
phân tán chú ý về chính trị trong nước. Họ cũng có thể lợi dụng sự yếu
đuối hay chia trí của đối thủ và dùng đại dịch này đế làm mất ổn định
môt vài mục tiêu đã nhắm trước hay tạo ra những việc đã rồi. Tuy nhiên,
nếu xét khuynh hướng của sức mạnh hạt nhân được cân bằng và những thách
đố chung với mọi siêu cường, bất ổn quốc tế sẽ ít xẩy ra hơn là bất ổn
trong mỗi nước.
Những quốc gia nghèo, với các thành phố chật ních người và hệ
thống y tế công cộng yếu kém sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất. Không những việc
giãn cách xã hội, ngay cả những vệ sinh đơn giản nhất như là việc rửa
tay cũng sẽ cực kỳ khó khăn cho những quốc gia mà trong đó rất nhiều
người còn chưa có nước sạch. Vì những nguyên nhân lâu đời, vì những xung
đột giữa các cộng đồng, vì thiếu chất keo kết dính xã hội hay đơn giản
hơn, vì sự lãnh đạo yếu kém, nhiều chính quyền làm cho tình hình tệ hơn
thay vì cải thiện nó. Thí
dụ Ấn Độ, khi đóng cửa một cách đột ngột mà không nghĩ kỹ đến hậu quả
cho hàng chục triệu người lao động nhập cư đang chen chúc sống trong
những thành phố lớn, họ lại càng làm tăng sự tác hại của đại dịch. Nhiều
người phải về thôn quê sống, lại làm lây lan nhiều hơn. Một khi chính
quyền Ấn Độ thay đổi biện pháp và bắt đầu hạn chế người dân đi lại, rất
nhiều người lại bị kẹt giữa những thành phố lớn, không việc làm, không
nơi ở và không có sự chăm sóc về y tế hay về các mặt khác.
Việc con người dịch chuyển vì thời tiết thay đổi vốn đã là một
cuộc khủng hoảng đang sôi sục trong khối các quốc gia đang phát triển.
Đại dịch này sẽ làm cơn khủng hoảng này trầm trọng hơn, có thế đưa một
số lớn dân chúng ở những quốc gia này đến mức sống với tiêu chuẩn tối
thiểu. Và đại dịch này đã dập tắt hy vọng của hàng trăm triệu người
trong những quốc gia nghèo đói vốn hưởng được thành quả tử hai thập niên
phát triển kinh tế liên tục. Khi sự phẫn uất của dân chúng tăng cao và
khi hy vọng của số đông bị dập tắt, ai cũng biết đó là điều kiện chín
muồi cho cách mạng nổ ra. Những người thất vọng sẽ tìm cách chạy ra khỏi
nước, các lãnh tụ mị dân sẽ khai thác thêm tình hình để nắm quyền, các
chính trị gia tham ô sẽ lợi dụng cơ hội vơ vét tất cả những gì có thể vơ
vét được. Nhiều chính phủ sẽ đàn áp hơn hay sẽ sụp đổ. Sẽ có một làn
sóng mới những người di dân từ khối các quốc gia đang phát triển đến các
nước giàu có. Chỉ có điều lần này họ sẽ bị chống đối hơn, ít được cảm
thông hơn vì người ta sợ rằng họ sẽ mang vào bệnh tật và bất ổn. Và
người ta có lý do để sợ như vậy.
Cuối cùng, càng nhìn xa hơn thì ta càng có thể thấy những con
“thiên nga đen” hơn. Những đại dịch trong quá khứ đã làm nẩy ra những
viễn tượng tận thế, những giáo phái cuồng tín và cả những tôn giáo mới
trong những lúc căng thẳng gây ra bởi những khó khăn kéo dài. Phát Xít,
mà ta có thể coi như một loại giáo phái cuồng tín, xuất phát từ những
bạo động và mất nơi cư trú gây ra bởi thế chiến thứ nhất và thời gian
sau đó. Thuyết âm mưu sẽ nở rộ trong những nơi như vùng Trung Đông, khi
con người bình thường cảm thấy bất lực hay mất niềm tin. Ngày nay, những
thuyết âm mưu cũng đã phát tán rộng rãi trong những quốc gia giầu có,
một phần vì môi trường truyền thông bị internet và mạng xã hội làm mất
vị thế cũ. Khi những tác họa của đại dịch kéo dài thì nó lại càng cung
cấp thêm chất liệu cho những tay lãnh tụ dân túy khai thác.
Viễn cảnh dân chủ phục sinh
Tuy nhiên, cũng giống như cuộc Đại Khủng Hoảng thập niên 1930s không chỉ
sinh ra Phát Xít mà còn cũng cố nên dân chủ tự do khai phóng, đại dịch
này cũng có thể nẩy những kết quả chính trị tích cực. Thường thì phải có
những lực bên ngoài rất mạnh mới bẻ gẫy được một hệ thống chính trị sơ
cứng, ngõ hầu tạo điều kiện cho những cải cách cấu trúc chính ra phải
làm từ lâu. Chuyện này có thể xẩy ra lần nữa sau đại dịch, ít ra là ở
một vài nơi trên thế giới.
Khi đối phó với đại dịch, thực tế cho thấy là tính chuyên nghiệp
của chuyên viên sẽ được đánh giá cao còn những yếu kém và chính trị mị
dân thì sẽ phô bày ra rõ hơn. Cuối cùng điều này sẽ làm việc chọn lựa
của người dân dễ dàng hơn, thưởng cho những chính trị gia và chính quyền
hữu hiệu và trừng phạt những kẻ yếu kém.
Jair Bolsonaro của Brazil chẳng hạn, vốn đã tấn công và làm suy
yếu những dịnh chế dân chủ trong những năm gần đây, đầu tiên tưởng có
thể coi nhẹ và lướt qua được trận đại dịch này, bây giờ đang đối phó
lạng quang với một đại họa y tế. Vladimir Putin của Nga đầu tiên cũng cố
ra vẻ coi thường đại dịch, sau đó lại bảo Nga đã kiểm soát được tình
hình và giờ phải đổi giọng
lần nữa khi COVID-19 lây
lan toàn nước Nga. Tính hợp pháp của triều đại Putin vốn đã lung lay
trước đại dịch nay lại càng lung lay hơn.
Đại dịch đã soi rọi lên các định chế khắp nơi, lộ rõ ra những
khiếm khuyết hay yếu kém. Mức cách biệt giữa người, hay quốc gia, giàu
có và nghèo đói lại càng tăng hơn khi tình hình kinh tế khựng lại lâu
dài. Nhưng cùng với vấn đề, cơn khủng hoảng cũng làm lộ ra khả năng của
chinh phủ đưa ra những giải pháp, dựa vào tài nguyên của tập thể trong
quá trình đối phó đại dịch. Cảm giác “tất cả phải ở một mình” khi kéo
dài lâu có thể thúc đẩy sự đoàn kết xã hội và về lâu về dài hướng đưa
đến việc phát triển các biện pháp bảo vệ xã hội. Cũng giống như những
đau khổ tổn hại trên toàn quốc do Thế chiên 1 và cuộc Đại Khủng Hoảng
gây ra, đã kích thích sự phát triển của hệ thống an sinh trong những năm
1920s và 1930s.
Điều này nếu xẩy ra thì ta có thể xếp xó những dạng cực đoan nhất của
chủ nghĩa tân tự do, lý tưởng về thị trường tự do do những kinh tế gia
của đại học Chicago như Gary Becker, Milton Friedman, and George Stigler
đề xuất ra. Trong những năm 1980s, học thuyết kinh tế của đại học
Chicago đã được dùng để biện minh, về khía cạnh trí thức, cho những
chính sách của TT Ronald Reagan và thủ Tướng Margaret thatcher, vốn là
những người coi những chính phủ lớn, ôm đồm là chướng ngại vật cho phát
triển kinh tế và tiến bộ nhân loại. Lúc đó có nhiều lý do chính đáng để
cắt giảm nhiều luật lệ chính phủ cũng như công sản. Những lập luận này
càng ngày cứng ngắc, đóng khuôn lại thành ra một thứ tôn giáo “tự do
tuyệt đối”, bao gồm trong đó sự thù nghịch với những hoạt động của nhà
nước và sinh ra giới trí thức bảo thủ, đặc biệt là ở Mỹ.
Nay ta đã thấy được vài trò quan trọng của nhà nước trong việc
làm chậm đại dịch lại, thật khó mà lý luân, như Reagan trong bài diễn
văn nhậm chức lần đầu tiên năm 1981, là “chính phủ không phải là giải
pháp cho vấn đề của chúng ta mà chính phủ chính là vấn đề”. Cũng như bây
giờ không ai có thể biện minh rằng lãnh cực tư nhân và từ thiện có thế
thay thế cho một guồng máy nhà nước hữu hiệu trong việc đối phó với tình
hình khẩn cấp của quốc gia. Tháng 04/2020, Jack Dorsay, CEO của Twiiter
loan báo anh ta sẽ đóng góp 1 tỉ cho quỹ cứu trợ COVID-19, một hành động
từ thiện phi thường. Nhưng cùng tháng đó, Quốc Hội Mỹ phải để ra 2300 tỉ
để cứu trợ những doanh nghiệp và cá nhân chịu ảnh hưởng bởi đại dịch. Tư
tưởng chống đôi nhà nước vẫn có thể thấy được ở những người biểu tình
chống lại việc “đóng cửa”, nhưng các thống kê thăm dò dân ý cho thấy đại
đa số dân Mỹ tin vào lời khuyên của các chuyên gia y tế chính phủ trong
việc đối phó với đại dịch này. Điều này có thế làm tăng sự ủng hộ của
người dân vào sự can thiệp của chính phủ khi đối phó với một vấn đề xã
hội trọng đại khác.
Và cũng có thể là đại dịch sẽ làm hồi sinh lại những nỗ lực hợp
tác quốc tế. Trong khi lãnh đạo cấp quốc gia có thể chỉ tay đổ tội nhau,
các khoa học gia và giới chức chuyên gia y tế
công cộng có thể thắt chặt sự
liên lạc và hành động cùng nhau. Nếu việc bãi bỏ sự hợp tác quốc tế dẫn
đến thảm họa và bị đánh giá như một thất bại, thời kỳ hậu đại dịch có
thế đưa một luồng gió mới vào việc khẳng định hợp tác đa quốc gia sẽ tốt
đẹp cho những ích lợi chung.
Đừng hy vọng nhiều quá
Đại dịch này cho đến nay cũng là một thử nghiệm chính trị toàn
cầu. Những quốc gia với chính phủ hợp pháp, có năng lực thì lướt qua đại
dịch tương đối dễ dàng và có thể tiến hành những cải tổ làm cho chính
quyền mạnh hơn, chịu được những thử thách hơn và trong tương lai điều
hành tốt đẹp hơn. Những
quốc gia mà khả năng nhà nước yếu kém hay lãnh đạo tồi tệ thì sẽ có vấn
đế, đưa đến việc kinh tế khựng lại, nếu không phải là nghèo đi hay bất
ổn thêm. Vấn đề là nhóm nước thứ hai nhiều hơn nhóm nước thứ nhất rất
nhiều.
Không may là sự thử nghiệm chính trị này căng đến nỗi ít có quốc
gia nào vượt qua được. Để đối phó với những giai đoạn đầu của đại dịch
một cách tốt đẹp, các quốc gia không những cần có một bộ máy nhà nước
hoạt động hữu hiệu và tài nguyên dồi dào nhưng cũng cần có đồng thuận xã
hội và những nhà lãnh đạo có khả năng kêu gợi được lòng tin của người
dân. Đáp ứng được điều này có thể kể đến Nam Hàn khi trao việc đối phó
với cơn đại dịch cho một guồng máy kỹ trị, quản lý y tế chuyên nghiệp
hay nước Đức của Angela Merkel. Nhưng nhóm nước thứ hai đông hơn nhiều,
với những chính phủ thất bại về mặt này hay mặt kia. Vì giai đoạn tiếp
theo của trận đại dịch cũng sẽ không dễ đối phó, những khuynh hướng này
sẽ tiếp tục, càng làm cho người ta khó mà lạc quan trên bình diện thế
giới được.
Một lý do nữa để bi quan là những viễn cảnh tốt đẹp đòi hỏi phải
có những trao đổi ý kiến về các chính sách công hợp lý và việc học hỏi
lẫn nhau. Tuy nhiên ngày nay mối liên hệ giữa giới chuyên gia kỹ trị và
các chính sách công không còn chặt chẽ như trong quá khứ, khi giới tinh
hoa có nhiều tiếng nói hơn. Cách mạng kỹ thuật số đã làm cho giới cầm
quyền phải dân chủ hơn, bình dân hơn, làm mờ nhạt đi tôn ti trật tự dựa
theo khả năng suy nghĩ và các tôn ti trật tự khác. Các quyết định chính
trị thường bị ảnh hưởng bởi những kẻ to miệng nhất. Đây không phải là
môi trường tốt cho việc cùng nhau tự đánh giá một cách hiệu qủa. Những
chính trị bất hợp lý có thê tồn tại lâu hơn bình thường.
Với vị trí siêu cường, biến số lớn nhất là nước Mỹ. Điều không
may nhất là khi đại dịch bắt đầu, quốc gia có một lãnh đạo, đứng đầu
quốc gia nhưng thiếu khả năng và gây chia rẽ nhất trong lịch sử cận đại.
Cách điều hành quốc gia của ông ta không thay đổi dù dưới bất cứ áp lực
nào. Vì ông ta gây chiến trong suốt nhiệm kỳ với hệ thống nhà nước do
chính ông ta lãnh đạo, ông ta không thể triển khai nó có hiệu quả khi
tình hình đòi hỏi. Sau khi nhận định rằng chống đối và hận thù sẽ giúp
ông ta nhiều về mặt chính trị hơn là đoàn kết quốc gia, ông ta đã dùng
đại dịch này để gây sự và gia tăng chia rẽ xã hội. Việc nước Mỹ đối phó
với đại dịch khá tệ hại có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân quan
trọng nhất là nước Mỹ có một lãnh đạo thất bại trong việc lãnh đạo.
Nếu Trump được bầu làm tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa, cơ hội
cho sự trỗi dậy của nền dân chủ hay của trật tự tư do khai phóng trên
thế giới coi như xếp lại. Tuy nhiên, dù kết quả bầu cử thế nào đi nữa,
sự chia rẽ sâu sắc của nước Mỹ vẫn còn đó. Tổ chức bầu cử trong đại dịch
sẽ khó khăn và sẽ tạo cơ hội cho phe thua không chấp nhận kết quả bầu
cử, thách đó tính hợp pháp của cuộc bầu cử. Ngay cả khi đảng Dân Chủ nắm
được cả Nhà Trằng và lưỡng viện Quốc Hội, họ cũng thừa hưởng một quốc
gia thương tật nặng nề. Muốn hành động gì cũng phải đương đầu với một
núi nợ và sự chống đối đến cùng của phe đốí lập còn lại. Các định chế
quốc gia và quốc tế sẽ bị yếu đi, co lại sau nhiều năm bị lạm dụng. Sẽ
mất nhiều năm để xây dựng lại những định chế này, nếu có thể xây dựng
được.
Giai đoạn nguy kịch nhất, bi thảm nhất của đại dịch đã qua, thế
giới đang bước vào một giai đoan khó khăn lâu dài. Cuối cùng thế giới
cũng sẽ bước qua giai đoạn này thôi, có nước sớm hơn có nước chậm hơn.
Những xung đột quân sự thế giới chắc không xẩy ra.
Trong quá khứ. chế độ dân chủ, chủ nghĩa tư bản và nước Mỹ đều
chứng tỏ có khả năng hồi sinh, biến cải, thay đổi lại theo tình hình
mới. Nhưng nếu thế, giờ đây một lần nữa người ta phải kéo được một con
thỏ ra khỏi nón.
Mặc Lý dịch
(13/06/2020)
Nguồn:
https://www.foreignaffairs.com/articles/world/2020-06-09/pandemic-and-political-order
Người dịch gửi cho viet-studies ngày 13-6-20
|