CHUYỆN ĐỜI TỰ KỂ

Hồi ký 

Nguyễn Minh Đào

*

Lời phi lộ

     Tôi sinh ra từ thời mồ ma thực dân – phong kiến, đến tuổi thiếu niên tham gia kháng chiến chống Pháp. Ngày thống nhất đất nước 30 tháng 4 năm 1975 tôi là sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, sau này có thời gian là thành viên Ban lãnh đạo tỉnh nhà. Tôi ghi lòng tạc dạ công ơn trời biển cha mẹ sinh thành dưởng dục tôi nên người. Tôi đời đời nhớ ơn Bác Hồ kính yêu và các anh hùng – liệt sĩ để đất nước có ngày hôm nay làm thay đổi số phận đời tôi.

      Với những gì trải nghiệm trong đời mình, tôi viết trong tập hồi ký có tên “Chuyện đời tự kể” này. Tôi trích sao nội dung chính đăng trang Facebook này chia này cùng người thân và bạn bè thân mến.

      Tập Hồi ký có IX chương:

      Chương I        Thời niên thiếu

      Chương II       Cương quyết ra đi

      Chương III     Sứ mạng thầm lặng

      Chương IV     Trong lửa đỏ

      Chương V       Chiến tranh biên giới Tây Nam

      Chương VI     Trên đồi Ô Tà Sóc

      Chương VII    Ban Chánh trị Tỉnh đội                                   

      Chương VIII  Trên con đường mới

       Chương IX     Đoạn cuối đường hoạn lộ

 

&

 

Chương I

THỜI NIÊN THIẾU

     Quê tôi xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang; thời Pháp thuộc là làng Nhơn Hưng, tổng Qui Đức, quận Tịnh Biên, tỉnh Châu Đốc. Tôi có người anh Cả một cha khác mẹ và tám chị em cùng cha mẹ, tôi là con trai thứ Tư sau hai chị gái. Trước chiến tranh gia đình tôi thuộc tầng lớp trung lưu, trong nhà có kẻ ăn người ở. Tôi được ba má rất mực thương yêu cưng chiều, đến tuổi đi học rước thầy giáo về nhà dạy vỡ lòng, khi 7 – 8 tuổi mới đưa đến trường học, cùng đi học với ông cậu lớn hơn tôi một tuổi tên Đặng Văn Mật, sau này làm cách mạng lấy bí danh Đặng Chí Kiên.

     Năm 1944 chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, phát xít Nhật vào chiếm đóng nước ta. Tôi nghe người lớn nói chuyện “quốc sự”, trong đó có những chuyện nói về Cộng sản, về lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc… xem chừng rất bí hiểm                                               

     Thưở ấy, làng Nhơn Hưng ông ngoại tôi từng làm chánh lục bộ, có tiếng là người giỏi chữ Hán, lảo thông kinh sử giàu lòng nhân ái. Ông bà ngoại có 13 người con, các cậu tôi rất thông minh, các bà con gái của ngoại, má tôi là người thông minh hơn hẳn các dì. Má không một ngày tới trường, vì nặng lễ giáo phong kiến bà ngoại không cho đi học. Sau này tôi hỏi “Vậy sao má biết đọc chử?”. Má tôi cho biết, ban đêm lén ngoại dùng cây nhan đốt cháy dò nhìn từng mặt chử ghi nhớ trong truyện Kiều, thơ Lục Vân Tiên đã thuộc lòng. Tôi chưa nghe ai nói cách học như vậy mà biết đọc chử quốc ngử như má tôi, nhiều thi phú điển tích kinh điển má tôi thuộc làu thường kể cho con cháu nghe.

     Mùa Thu năm 1945 chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, Cách mạng tháng Tám thành công, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập ở Ba Đình – Hà Nội. Những ngày tháng cách mạng sôi sục này làng quê tôi như ngày hội lớn. Mọi người hồ hởi đứng lên cướp chánh quyền, xây dựng và bảo vệ chánh quyền cách mạng còn non trẻ. Những cuộc mít tinh, biểu tình sôi nổi của đồng bào diễn ra liên miên, cùng các hoạt động Thanh niên tiền phong, Thanh niên cứu quốc như tập quân sự, tập võ, đánh trận giả… rất hào hứng, khuấy động không khí rực lửa cách mạng khắp xóm làng!  Khi ấy, cậu cháu tôi gia nhập Đội thiếu nhi cứu quốc tụ tập ca hát, tập quân sự, đánh trận giả… Chưa bao giờ bọn trẻ chúng tôi được vui như thế!    

     Những ngày tháng được sống trong độc lập tự do thật ngắn ngủi! Giặc Pháp trở lại xăm lược nước ta lần thứ hai, ngày 23 tháng 9 năm 1945 tiếng súng kháng chiến của quân dân Nam Bộ nổ khắp nơi. Chánh quyền cách mạng ra lệnh mỗi nhà phải có tầm vong vạt nhọn, dây trói, mõ tre sẳn sàng đánh Tây nhảy dù, hay có sự biến gì đánh mõ báo động và khi nghe tiếng mõ phải hưởng ứng đánh theo. Không biết chuyện gì, vài ba đêm khắp làng quê tôi tiếng mõ, tiếng trống… vang dội giữa đêm khuya kéo dài cả giờ đồng hồ. Vài lần đầu ai cũng sợ, không thấy chuyện gì vẫn phải hưởng ứng đánh theo để biểu thị tinh thần đoàn kết đánh Tây.

     Giặc Pháp sắp đánh tới nơi, gặp lúc nạn đói kém, dịch bệnh kẻ xấu loan truyền những điều nhảm nhí nào là “quỹ vương hiện hình giữa ban ngày”, nào là “sẽ tối trời tối đất bảy ngày đêm”, nào là “sắp đến ngày tận thế”… khiến dân tình xôn xao lo lắng! Nhiều nhà nấu cơm phơi khô, dự trử gạo muối, nước uống… phòng khi có biến.

     Tiếng súng đánh nhau ở Châu Đốc vọng về làng quê tôi, người ta tụ năm tụ ba bàn tán lo âu, không biết những tháng ngày tới tình hình sẽ ra sao! Rồi gót giày quân xâm lược giẩm tới Núi Sam, Nhà Bàn và khắp vùng Bảy Núi… Đi đến đâu chúng thẳng tay cướp bóc bắn giết, đốt phá, hãm hiếp phụ nữ gieo kinh hoàng đến đó! Lực lượng vũ trang cách mạng còn non trẻ không đủ sức ngăn bước tiến của giặc, rút về vùng rừng núi bảo toàn lực lượng. Sau đó bí mật trở lại đánh du kích, võ trang tuyên truyền, gầy dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân...

     Một buổi chiều, nghe ba má và chị Hai tôi nói chuyện nhỏ to với nhau, được tin cậu Sáu tôi – ông Đặng Hữu Hào, bí danh Nhậm vừa hy sinh ở Núi Sam khi giặc Pháp ở Châu Đốc bất ngờ vào càn quét, cậu được người cận vệ chống xuồng chạy ra đồng lúa đang mùa nước nổi, địch phát hiện bắn theo cậu trúng đạn hy sinh! Sau này theo lời kể người hoạt động cách mạng cùng thời cậu Sáu tôi cho biết, cậu hy sinh ngày 19 tháng 7 năm 1946 đang là Phó bí thư Quận ủy Châu Phú giữa tuổi 31. Cậu Sáu tôi làm cách mạng thuộc lớp người “tiền khởi nghĩa”, sống độc thân. Cậu là người con đầu tiên của ngoại tôi ngã xuống trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc!

     Khi ấy giặc Pháp chỉ chiếm đóng các thị xã, thị trấn và đường giao thông huyết mạch, đại bộ phận nông thôn và vùng núi quân ta làm chủ, hay ở trong thế “cày răng lược” với địch. Ở các làng Nhơn Hưng, Thới Sơn, Xuân Tô quận Tịnh Biên có bộ đội anh Trần Thắng đứng chân hoạt động đánh trả một số trận càn quét của địch giành thắng lợi, đồng bào vui mừng hả dạ! Nhất là trận phục kích chặn đánh trên đường đi càn quét về của tên cò Lửa, đội Xường ở đồn Nhà Bàn tại chòm mả đường Nhà Bàn đi Cây Mít diệt một số tên trong đó có tên đội Xường, thu một số súng, tên Cò Lửa chạy thụt mạng về Nhà Bàn. Bọn giặc ở Châu Đốc huy động tiểu đoàn lính Lê Dương vào truy kích bộ đội ta, chúng đốt phá chà xát mấy ngày… Làng quê tôi ngập chìm trong khói lửa, đồng bào tản cư lánh nạn khắp nơi.

     Cuộc sống gia đình tôi rất túng quẫn! Mùa nước năm ấy ba tôi hàng ngày chống xuồng lên đồng trên hướng giồng Bà Ca đất Campuchia đặt lờ bắt cá sặt bán sống qua ngày. Hôm nọ, sau khi ba tôi đi khoảng 7 – 8 giờ sáng nghe tiếng súng nổ rộ trên đồng hướng ba đi, cả nhà và cô bác trong xóm biết có chuyện chẳng lành rất lo lắng nhìn lên đồng trông ngóng…! Tiếng súng dứt đã lâu không thấy ba về, ai cũng đoán ba bị Tây bắn chết hay bị bắt. Má tôi nhờ bà con chống xuồng đi tìm. Thời gian nặng nề trôi qua, cả nhà đứng ngồi không yên, chị em tôi khóc, má cũng khóc! Đến tối bà con tìm ba về chở chiếc xuồng của ba bị Tây bắn bể, nhưng tìm không thấy ba đâu, hy vọng ba còn sống bị Tây bắt. Má tôi vào Tịnh Biên gặp ông Bảy Lễ là thương gia bạn của ba có quen biết quan chức ở Campuchia nhờ ông lên đó dọ tin, được biết ba tôi bị Tây bắt. Má tôi vay mượn tiền làm chi phí nhờ ông Bảy Lễ lo lãnh ba tôi về.

     Giặc Pháp ra sức càn quét đánh phá vẫn không bình định được quê tôi, làng xóm xơ xác tiêu điều vườn không nhà trống! Gia đình tôi tản cư về rạch Thâm Rôn xã Hòa Lạc huyện Phú Tân ngày nay, cùng với gia đình ngoại. Riêng chị Hai Nguyễn Thị Phò, bí danh Nguyễn Thị Hồng Phương là cán bộ cách mạng ở lại quê nhà hoạt động.

     Về ở Hòa Lạc, ba má đưa chị em tôi đến trường học. Đó là ngôi trường làng duy nhất có hai phòng học bằng gổ, sàn cao, lợp ngói xi măn do ông giáo già tên Vệ dạy. Ông là người hiền từ, nhưng có bệnh nghiện rượu nên thường dạy học bê trễ. Chị em tôi học không bao lâu cũng nghỉ! Đây là ngôi trường học phổ thông cuối cùng tôi học trước khi thoát ly gia đình tham gia kháng chiến chưa hết bậc tiểu học!                                                              

     Đầu năm 1947 làng Hòa Lạc mắc dịch bệnh đậu mùa có một số người chết, gia đình tôi không thoát khỏi dịch bệnh quái ác đó! Người đầu tiên nhiễm bệnh là chị Ba tôi, sau đó lần lượt hết người này đến người khác đều nhiễm bệnh nặng nhẹ khác nhau. Ba tôi rước thầy thuốc chữa trị khỏi cả. Điều kỳ lạ là chị Hai tôi đang hoạt động cách mạng ở quê nhà cũng bị nhiễm bệnh cùng thời điểm với gia đình, cậu Hai tôi chở chị bằng xuồng ra rạch Thâm Rôn cho ba má tôi chữa trị nhưng trị không kết quả, chị tôi vĩnh biệt cõi đời ở tuổi 18!

     Chị Hai tôi mất là nỗi đau thương lớn đối với gia đình tôi! Chôn cất chị xong, ba tôi dỡ bỏ căn nhà cũ dời về cất lại phía trên đó vài chục thước. Những tháng ngày đó gia đình tôi sống dằn vặt trong đau buồn! Ba tôi chiều chiều lấy rượu giải sầu, khi uống say ngủ vùi, thỉnh thoảng thấy ba trở mình kêu trời, gọi tên chị Hai tôi khóc!    

     Cuộc sống gia đình tôi ở đây ngày càng túng quẫn! Ba đưa cả nhà vào sống trong ngọn cùng rạch Thâm Rôn có nhiều tôm cá, đất rộng người thưa dể kiếm sống. Ba tôi làm rạch, làm đìa, chất chà bắt cá; có lúc nuôi tằm, trồng rẫy… làm việc gì ba tôi cũng thạo, gia đình nhờ đó đở thiếu thốn. Vùng này đất đai mầu mở, lúa gạo không thiếu, tôm cá dư thừa, nhưng phần đông dân rất nghèo, vì làm được đồng tiền không dễ, có tiền cũng không có gì mua. Vải mặc, xà bông, dầu thắp sáng… rất khan hiếm dù cách chợ Châu Đốc không xa. Nhà nào cũng có chấy rận, đi đâu cũng thấy người ăn mặc rách rưới; thậm chí mặc quần áo bằng bố gai, hay đệm bàng, khi giở chà hay tát đìa bắt cá tôi thấy có những người đàn ông cởi truồng tồng ngồng, dù nơi đó có đàn bà con gái cũng mặc! Có lần ba tôi đi bán kén tằm mua về một số vải may quần áo cho cả nhà mỗi người một bộ, má và chị Ba “sang” nhất được may vải sen đầm đen, phần tôi được má cắt may một bộ quần áo tay ngắn bằng vải sọc ca-rô.

    Thời kỳ đầu cách mạng, quan điểm đường lối chánh sách của Đảng và Bác Hồ chưa quán triệt đến mọi cá nhân và tổ chức, nên bộc phát những hành vi manh động. Hồi đó, quê tôi có ông Tư Hỷ người cùng xóm gia đình ngoại theo vai vế tôi gọi bằng cậu. Ông theo cách mạng từ những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, chỉ huy một đơn vị Quốc vệ đội (như Công an vũ trang ngày nay) chừng một trung đội. Người ta gọi ông là “bà cố Hỷ” vì ông rất táo tợn trong hoạt động “trừ gian diệt ác” giết người không gớm tay! Người dân xem ông như “hung thần”, khi bất hòa họ chưỡi nhau “bà cố Hỷ bắt mày!”.

     Khi gia đình tôi tản cư từ làng Hòa Lạc trở về quê ở tạm xóm Bến Lúa, hầu hết dân ở đây và xóm Bà Bài theo đạo Hòa Hảo tản cư hết ra vùng ven Châu Đốc, đêm nọ trời vừa sụp tối nghe mấy loạt súng nổ đầu trong xóm đạn bay vèo vèo, cả nhà nằm dưới đất tránh đạn nghe ngóng không biết chuyện gì! Một chập sau có tiếng nhiều người nói chuyện ồn ào kéo tới, thì ra đơn vị Quốc vệ đội của “bà cố Hỷ”. Họ tiếp tục kéo ra xóm Bà Bài, lâu lâu nghe tiếng súng của họ vọng lại, độ một giờ sau thấy ánh lửa cháy rực từ xóm Bà Bài lần vào, thì ra họ đốt nhà dân! Hồi ấy, trên kinh Vĩnh Tế thường thấy có ghe người Chăm ở Châu Phong hồi đó gọi Chà Và đi mua bán gạo và đệm bàng, bị ông Tư Hỷ bắt mấy ghe gần 10 người có cả đàn bà và trẻ con, gán họ tội “làm do thám cho Tây”! Họ bị trói, bịt mắt dẫn lên đồng xóm Bến Lúa gần biên giới giết sạch, hàng hóa tịch thu, ghe bị đốt. Đêm sau có ghe chưa chìm trôi lờ đờ theo con nước lớn ròng, lửa cháy bập bùng như hồn ma người chết hiện về kêu khóc oán than! Năm 1949 hay 1950 gì đó tôi nghe nói ông Tư Hỷ làm tướng cướp bị cách mạng trừng trị!

     Về ở xóm Bến Lúa gia đình tôi trắng tay, má tôi làm bánh nấu xôi bán dạo sống qua ngày! Ba tôi là người năng nổ, ở đâu ba cũng tìm cách làm ăn cho vợ con đở vất vả thiếu thốn. Ba thấy ở đầu trong xóm Bến Lúa có con rạch Xẻo Tre nhiều cá, ba xin phép chánh quyền làm rạch. Ba dẫn tôi vào vườn nhà chặt tre làm đăng và vay mượn tiền của bà con mua sắm các thứ khác, khi nước xuống ba tôi xây rọ bắt cá. Năm ấy ba tôi trúng mùa cá, bán cá trả hết nợ còn dư một số tiền, gia đình thoát cảnh nghèo túng. Ba tôi giao dàn đăng và nhượng quyền làm rạch cho chú Chín – em ba tôi. Sau này tôi hỏi “Sao ba không làm rạch nữa?” Ba nói: “Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”, nghề này giết hại nhiều sanh linh, dù là tôm cá cũng tội lắm con ơi!”

*

Chương II

CƯƠNG QUYẾT RA ĐI

Lúc gia đình tôi tản cư làng Hòa Lạc về quê ở tạm xóm Bến Lúa tôi vẫn thường vào nhà ngoại, thấy cán bộ, bộ đội tới lui hoạt động tôi rất phấn chấn, cảm thấy ngày nước nhà độc lập không còn xa. Dưới mắt tôi các cô chú, anh chị cán bộ, bộ đội sao mà hùng dũng thân thương quá, tôi ước ao mình được như vậy! Một buổi trưa mấy chị em tôi  chơi quanh quẩn dưới bóng mát hàng cây trước nhà, nghe tiếng đồng ca: “Mùa Thu rồi ngày hai ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến…”. Tôi chạy ra bờ kinh thấy một chiếc ghe trần căng buồm hướng Cây Mít đi ra, trên ghe có mấy anh bộ đội mặc quân phục đầu đội mũ ca-lô tay ôm súng vừa ca vừa gỏ nhịp. Đây là lần đầu tôi nghe bài ca Nam Bộ kháng chiến:“Nóp với giáo mang ngang vai, nhưng thân trai nào kém oai hùng…”. Chiếc ghe từ từ đi ngang nhà, tiếng ca trầm bổng như thúc giục tôi ra đi kháng chiến.

     Công việc chuẩn bị làm rạch đang tiến hành, tôi xin ba má cho tôi đi kháng chiến, ba má nói: “Con còn nhỏ, ráng một hai năm  ba má cho con đi”. Tôi năn nĩ: “Ba má cho con đi bây giờ, mai mốt độc lập còn đi đâu nữa…! Thấy tôi quyết chí ba má bằng lòng cho tôi đi kháng chiến, tôi mừng vô cùng!

     Sau mấy ngày chuẩn bị, tôi được cậu Mười đưa vào công tác ở Văn phòng Quận ủy Tri Tôn, khi ấy cuối năm 1947 tôi hơn 11 tuổi. Đến nay, tôi vẫn nhớ những tháng ngày đầu tiên đời mình chập chững dấn thân vào con đường cách mạng. Cậu Mười đưa tôi đến trạm giao liên quận đóng ở xã Vinh Gia ở một ngày đêm, tôi được ăn những bữa cơm đầu tiên của cách mạng, mỗi mâm cơm sáu người dọn dưới đất, ăn đũa hai đầu, không húp bằng muổng, ăn xong chén đũa của ai tự xách xuống kinh rữa, ai ăn sau rữa tô dĩa đựng thức ăn. Đó là cách ăn uống theo “đời sống mới”, cụm từ này về sau tôi nghe người ta thường nói tới.

      Ngày hôm sau, theo đường giao liên cậu Mười tiếp tục dẫn tôi đến Văn phòng Quận ủy Tri Tôn đóng trên bờ kinh Giồng Cát (cầu Cây Me Tri Tôn đi kinh Tám Ngàn). Đây là vùng đất hoang sơ phèn nặng rừng tràm bạt ngàn, ban đêm muỗi như vãi trấu. Các cơ quan của quận trú đóng trên bờ kinh trong các chòi trại xây cất khá khang trang bằng cây tràm, lợp đưng. Trong cơ quan tôi là người nhỏ tuổi nhất, hồi đó các chú các anh gọi bọn nhóc như tôi là “xây lố cố”. Công việc hàng ngày của tôi là quét nhà, nấu cơm nước, kiếm cũi, đi thơ… Nhiều lần tôi bơi xuồng đưa các chú đi họp ở tỉnh, từ Giồng Cát xuống Lình Quỳnh nơi cơ quan tỉnh trú đóng đường xa dằng dặc, tôi bơi lái chú lãnh đạo bơi mũi, đêm khuya vắng vẻ buồn ngủ cũng ráng bơi, tôi lại sợ “ma” lâu lâu ngoái nhìn phía sau xem có “ma” ngồi sau lưng không!

     Tháng ngày trôi qua, những gian khó thiếu thốn trong cuộc sống tôi quen dần. Năm 1948 tôi được đi học khóa huấn luyện “Cây Đuốc Sống” đào tạo cán bộ thiếu nhi của Tỉnh đoàn Thanh niên cứu quốc, đóng gần cầu Lình Quỳnh trên lộ đá kinh Ngay Rạch Giá – Hà Tiên.

     Năm 1949 Tỉnh đoàn thanh niên cứu quốc tổ chức đội Thanh niên xung phong do nhạc sĩ Hiếu Nam làm đội trưởng, tôi được kết tập vào đội cùng mấy bạn nhỏ khác. Đội hoạt động khắp vùng giải phóng tỉnh Long Châu Hậu với nhiệm vụ tuyên truyền vận động đồng bào thực hiện nếp sống “đời sống mới”; tổ chức, phát triển Đoàn thanh niên cứu quốc và Đội thiếu nhi cứu quốc; họp xóm ấp tuyên truyền chủ trương chánh sách của Chánh phủ kháng chiến, biểu diển văn nghệ, tiêm chủng phòng dịch v.v…

     Cuối năm đó, Tỉnh đoàn thanh niên chọn tôi đi học bổ túc văn hóa Trường Tiểu học huyện Long Mỹ tỉnh Cần Thơ do anh Bạch Lý - Ủy viên thường vụ Tỉnh đoàn hướng dẫn, nhân anh được điều về công tác Ban cán sự Đoàn thanh niên cứu quốc Khu Tây Nam bộ. Năm ấy tôi 13 tuổi, gia đình tôi năm 1948 rời quê nhà vào sinh sống lập nghiệp vùng giải phóng xóm Mũi Tàu kinh Tám Ngàn. Trước ngày lên đường tôi được nghỉ phép về thăm nhà, ba má biết tôi đi xa lâu ngày chuẩn bị hành trang cho tôi khá tươm tất.

     Ngày lên đường, tôi cùng anh Bạch Lý theo đường giao liên ra Hòn Đất, đến ở trong ngôi nhà ngói xưa nằm trên sườn hòn nhìn ra biển. Chủ ngôi nhà là một ông lão ngoài lục tuần tướng mạo phương phi, không biết ông tu theo đạo gì mà mặc áo choàng trắng ăn chay trường, cuộc sống gia đình ông rất sung túc, tiếp đãi chúng tôi rất thân tình. Ở nhà ông một ngày đêm được ăn những bữa cơm chay với những món rất ngon, ăn cơm xong tráng miệng bánh tây, uống cà phê và trà hảo hạng, hút thuốc lá Melia. Tôi không ngờ trong vùng giải phóng đời sống khó khăn mà có gia đình cuộc sống phong lưu đến vậy!

     Hôm sau đoàn chúng tôi gần 10 người lên đường, xuống một chiếc ghe biển giương buồm ra khơi hướng về vàm sông Cái Lớn. Dù thời tiết tốt sóng gió không lớn, ghe vẫn nhảy sóng lắc lư đủ cho những ai lần đầu đi biển như tôi say sóng, ói mửa hết những gì có trong dạ dày! Xế chiều ghe vào vàm sông Cái Lớn,  nhìn hai bờ sông vườn dừa nước muôn trùng, thấp thoáng ẩn hiện những xóm nhà phía trong, đó đây những cụm khói chiều nhẹ bay. Khung cảnh thật nên thơ như bức tranh thủy mặc!

     Đến trạm giao liên tỉnh Rạch Giá đóng trong nhà dân trên bờ con rạch, chúng tôi được nghỉ một ngày tiếp tục lên đường đi bằng xuồng hai chèo. Đi mấy ngày anh Bạch Lý đưa tôi đến cơ quan Ban cán sự Thanh niên cứu quốc Khu Tây Nam Bộ đóng trong nhà dân, nơi ở và làm việc riêng, ăn cơm chung với Văn phòng Khu ủy đóng trong ngôi nhà ngói lớn gần đó. Những bữa cơm ở Văn phòng Khu ủy đối với tôi như những bữa tiệc, bữa ăn nào cũng có 2 - 3 món rất ngon, dọn trên bàn, ăn đũa hai đầu với chén bát sành sứ xưa, trước khi ăn trụng trong chảo nước sôi tiệt trùng.

     Anh Bạch Lý lo thủ tục đưa tôi nhập học năm học 1949 – 1950. Đây là ngôi trường tiểu học kháng chiến do Quận ủy Long Mỹ mở cho con em cán bộ học ăn ở nội trú. Thời gian học ở đây tôi chứng kiến một sự kiện lớn. Đó là năm 1950 tại thị trấn Long Mỹ Khu 9 tổ chức lể kỷ niệm ngày Quốc Khánh 2 tháng 9 và chào mừng phái đoàn Chánh phủ Trung ương do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch dẫn đầu vào Nam Bộ công tác. Cuộc lể chuẩn bị nhiều ngày, thị trấn Long Mỹ được dọn dẹp quang đãng, khán đài dựng lên đồ sộ sân vận động cũ, có những gian hàng triển lãm thành tích kháng chiến của quân dân miền Tây Nam Bộ. Cầu tàu cũ thị trấn sửa lại đón ca nô chở phái đoàn Chánh phủ đến. Một số con đường dẫn đến khán đài hành lể được mở ra, cấm cột điện giăng mắc đèn chiếu sáng, cùng hệ thống truyền thanh ven đường… tạo cho thị trấn bộ mặt mới! Cuộc lể diển ra trọng thể, có hàng ngàn đồng bào trong vùng tới dự. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy những thứ như đèn điện, chiếu phim, phòng triển lãm… Ấn tượng nhất là tôi thấy bộ đội chủ lực trang bị súng lớn súng nhỏ đầy đủ, mặc quân phục chánh qui rất oai hùng về bảo vệ cuộc lể rất đông, với nhiều khẩu súng cao xạ phòng không bố trí quanh sân lể, nòng súng vươn cao lên trời.

     Tôi vào học khoảng một năm, từ lớp nhì lên lớp nhất tiểu học, học chưa hết chương trình Tỉnh đoàn Thanh niên Long Châu Hà gọi về tỉnh. Mùa nước năm 1951 tôi chuyển công tác về Ty Thông tin Long Châu Hà, chú Nguyễn Khắc Thận thường gọi Ba Thận, bí danh Chín Hương làm Trưởng ty, chú Nguyễn Trọng Hoành, thường gọi Ba Hoành làm Phó ty trú đóng kinh Tư xã Nam Thái Sơn, huyện Hòn Đất tỉnh Kiên Giang ngày nay. Tôi được giao nhiệm vụ viết li-tô (viết chử ngược trên đá cẩm thạch) trong bộ phận in li-tô do anh Tám Đào phụ trách thuộc Tiểu ban Văn nghệ, về sau sát nhập vào nhà in do anh Hai Cai làm quản đốc.

     Anh Hai Cai là người trực tính, sống có nghĩa với anh em. Hồi đó chử chì rất hiếm, nhà in mới mua từ Thái Lan về một máy in ty-pô. Có lần, buổi chiều sau giờ làm việc tôi thấy anh đi lòng vòng nơi bộ phận xấp chử nhặt một số chử rơi dưới đất, anh gọi anh công nhân trẻ vừa tan ca đưa mấy chử chì anh hỏi: “Cái này cái gì? làm ăn như vậy hả…! rồi cười  “cốc” nhẹ trên đầu! 

     Năm 1963 anh Hai Cai công tác huyện Châu Thành, sau anh chuyển về hoạt động bí mật vùng ven thị xã Long Xuyên. Nghe người biết chuyện kể, anh ở trên căn gát ngôi nhà lá nhỏ của dân, địch nhìn thấy gọi anh xuống anh không xuống chúng bắn lên, anh nhảy tránh đạn và dùng súng col 12 bắn trã đến khi anh trúng đạn hy sinh!

                                                  *

     Tháng 7 năm 1954 chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, đất nước vui như ngày hội! Thế nhưng, sau đó Hiệp định Genève về hòa bình Việt Nam được ký kết chia cắt đất nước hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Cán bộ chiến sĩ và đồng bào miền Nam có quan hệ với kháng chiến niềm vui hòa bình lập lại chợt đến và tan biến như một giấc mơ, nỗi buồn và sự lo âu trĩu nặng trong lòng trước viễn cảnh phân ly, kẻ chuẩn bị xuống tàu tập kết ra Bắc chưa biết bao giờ gặp lại người thân, người ở lại miền Nam tiếp tục cuộc chiến đấu với kẻ thù mới, không ai có thể biết rồi sẽ ra sao?! Các cơ quan, đơn vị bộ đội được Đảng giáo dục chuẩn bị tư tưởng sẳn sàng chấp nhận mọi quyết định của tổ chức “đi vinh quang, ở lại cũng vinh quang!”.

     Tôi được đi tập kết. Một đêm khuya âm u tôi đi trong đoàn xuồng các cơ quan tỉnh Long Châu Hà rồng rắn xuôi dòng kinh Ngay hướng về Cái Sắn xuống Thứ Mười Một – khu tập kết tỉnh Long Châu Hà thuộc huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang ngày nay. Khi đoàn xuồng vào kinh Sóc Xoài chật hẹp gặp chiếc ghe khá lớn đi cùng chiều áng giữa dòng kinh đoàn xuồng ùn lại, xuồng đi đầu đề nghị ghe cập vào bờ nhường đường cho đoàn xuồng vượt qua. Một yêu cầu hợp lý nhưng người trên ghe đáp lại bằng thái độ không mấy thân thiện: “Các ông đi tập kết sung sướng, bỏ dân ở lại làm sao sống được với giặc các ông có biết không?!” Xuồng tôi đi tốp đầu nghe rõ từng lời trách móc đó! Nói vậy rồi họ cũng nhường đường đoàn xuồng vượt qua, chúng tôi không ai đáp trả câu nào hay tức giận vì lời nói đốp chát đó, mà trong lòng cãm thấy như có lỗi với dân…!

     Sau nầy tôi nghe gia đình kể, đoàn tập kết sau cùng rút đến đâu lực lượng vũ trang giáo phái Dân Xã - Hòa Hảo của Ba Cụt ly khai chống chế độ Ngô Đình Diệm chiếm đóng đến đó. Gia đình tôi bỏ lại nhà cửa ruộng đồng ở đường Cũi Giữa kinh Tám Ngàn trở về quê nhà với hai bàn tay trắng!

     Đến khu tập kết Thứ Mười Một, chúng tôi chia nhau đóng trong nhà dân. Đồng bào khu tập kết Cà Mau trong đó có Thứ Mười Một đời sống khá sung túc, thương mến giúp đở cán bộ, bộ đội như người thân. Nói chuyện với chúng tôi bà con luôn nhắc đến ngày hết hạn khu tập kết chúng tôi xuống tàu ra Bắc, quân đội “Liên hiệp Pháp” tiếp quản vùng này ai cũng buồn và bồn chồn lo lắng, không biết cuộc sống lành dử sẽ ra sao?! Chúng tôi hiểu rõ tâm trạng bà con, khuyên bà con yên lòng chờ đợi sau hai năm nước nhà thống nhất chúng tôi trở về…! Nhưng phải đến mười lần hai năm, trãi qua vô vàn hy sinh gian khổ lời hẹn ước đó mới thành hiện thực!

     Được biết, sau khi quân đội “Liên hiệp Pháp” tiếp quản khu tập kết Cà Mau, tên Lâm Quang Phòng là cán bộ Việt Minh ra thành đầu hàng Pháp làm tỉnh trưởng Rạch Giá, đưa quân đến Thứ Mười Một đàn áp khủng bố đồng bào và người kháng chiến cũ gây nhiều tội ác. Năm 1958 bà Trần Quang Mẫn cơ sở cách mạng nhận nhiệm vụ ám sát tên Lâm Quang Phòng. Bà trà trộn vào nhà bà cô của y dự đám giổ, dùng dao chém y trọng thương. Bà Mẫn bị địch bắt, chúng tra tấn bà dã man cầm tù đến cuối năm 1966 mới thả!

     Ở khu tập kết Cà Mau hơn một tháng, tôi và một số người được lệnh ở lại, tôi rất buồn! Chúng tôi dự lớp tập huấn cấp tốc một tuần về nhiệm vụ, phương châm phương thức hoạt động công khai hợp pháp trong lòng chế độ Sài Gòn. Ngày trở về, tôi nhờ bà con mua giúp mặc bộ quần áo pi-za-ma màu mở gà, đội nón cối trắng, mang đôi guốc gổ dong trông tôi như một thư sinh. Tôi quá giang xuồng hai mẹ con người hàng xóm đi bán cá chợ Rạch Sỏi, cùng đi với ông cậu ruột cũng đi tập kết và được ở lại như tôi. Đi gần một ngày đến trạm Kiểm soát liên hợp Tắc Cậu, gồm Pháp và Việt Minh trình giấy giới thiệu cơ quan quản lý khu tập kết, được cấp lại giấy thông hành. Đêm ấy, chúng tôi ngủ vất vưởng tại vựa cá. Sáng sớm, hai mẹ con người bán cá đưa cậu cháu tôi ăn sáng và ra bến xe về Châu Đốc. Rạch Sỏi là một chợ nhỏ, nhưng lần đầu ra thành với tôi cái gì cũng lạ! Khi cậu cháu tôi nói lời từ biệt lên xe ngồi, hai mẹ con người bán cá đứng chờ đến khi xe chuyển bánh, tôi thấy người mẹ lấy khăn lau nước mắt…!

     Hình ảnh hai mẹ con người bán cá ở bến xe Rạch Sỏi và tấm lòng người dân Thứ Mười Một đối với chúng tôi; Cũng như nghĩa tình người dân đối với cách mạng trên mọi nẽo đường kháng chiến tôi đi qua vẫn hằn sâu trong ký ức tôi, là động lực giúp tôi vững vàng trong gian khó và vượt qua mọi nghịch cảnh đi trọn con đường cách mạng đời mình.      

     Những năm 1954 – 1956, các tỉnh miền Tây Nam bộ giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài cát cứ tồn tại song song chánh quyền Sài Gòn. Ngồi trên xe nhìn hai bên đường cảnh vật vùn vụt trôi về phía sau, lòng tôi bồn chồn lo lắng, suy nghĩ vẫn vơ không biết cuộc sống bản thân và gia đình tôi sẽ ra sao!? Con đường đấu tranh cách mạng của tôi sẽ tiếp tục như thế nào…!? Bao năm tham gia kháng chiến góp phần bé nhỏ của mình vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc, đến ngày hòa bình về quê nhà gia đình tôi không nhà ở, không tiền bạc, không biết làm gì sinh sống phải ăn nhờ ở đậu! Một số bà con không thông cảm chia sẻ, mà còn dè bỉu lời ong tiếng ve coi khinh ba má tôi…!

     Ba tôi nhờ mối quan hệ quen biết viên chức chánh quyền Sài Gòn quận Tịnh Biên và làng Nhơn Hưng nhờ họ giúp làm thẻ căn cước tạo thế hợp pháp cho tôi và thông qua mối quan hệ quen biết giới chức Ban trị sự Phật giáo Hòa Hảo làng Nhơn Hưng vận động cho tôi dạy học ở ngôi trường gần chùa Hòa Thạnh ấp Tây Hưng cách nhà tôi gần một cây số, do bà con trong ấp góp công sức dựng lên bằng cây lá. Tôi là giáo viên duy nhất dạy ba lớp, từ lớp năm đến lớp ba tiểu học với ba bốn mươi học trò. Ban trị sự Phật giáo Hòa Hảo xã trả lương tháng cho tôi 100 kg gạo và 400 đồng tiền Bảo Đại giúp gia đình thoát cảnh chạy ăn từng bữa.

     Vài tháng sau chánh quyền Sài Gòn đánh đổ các giáo phái, tôi vẫn tiếp tục dạy học như trường tư. Năm 1955 chánh quyền Sài Gòn đổi giấy căn cước, Chi bộ xã đưa tôi làm thơ ký trong đoàn đổi giấy căn cước quận Tịnh Biên làm giấy căn cước cho cán bộ kháng chiến cũ. Được đi lại nhiều nơi trong quận có công xa đưa rước, tiếp xúc với nhân viên chánh quyền, thế họp pháp của tôi được củng cố vững vàng hơn.

     Tạo được “vỏ bọc” tôi bắt đầu tham gia công tác do Chi bộ xã Nhơn Hưng lãnh đạo. Theo tình hình nhiệm vụ cách mạng khi ấy, chủ yếu là vận động đồng bào đấu tranh đòi chánh quyền Sài Gòn thi hành Hiệp định Genève. Có những lần Chi bộ giao tôi kẻ vẻ khẩu hiệu, viết truyền đơn cùng cậu Mười đi rải, dán ở xóm Bà Bài, Bến Lúa, Miếu Bà nhân những ngày lể kỷ niệm để cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng của đồng bào.

     Những năm đầu sau 1954, chánh quyền Sài Gòn củng cố bộ máy chánh quyền cơ sở Pháp để lại, Chi bộ xã Nhơn Hưng chọn quần chúng tốt cày cấm vào, trong đó có chú ruột thứ Út tôi làm xã trưởng, anh rể bà con chú bác với tôi làm ủy viên tài chính… Nhờ đó, tổ chức và hoạt động cách mạng trong xã Nhơn Hưng phát triển khá thuận lợi.

     Năm 1956 Ban cán sự Đảng quận Tịnh Biên đóng bí mật nhà ngoại tôi. Bí thư Ban cán sự những năm 1954 – 1959 là ông Năm Mạo, tên thật Võ Văn Nhứt, bí danh Hồng Châu và các thành viên khác là Huỳnh Kiên Cát (Ba Cát), Võ Hoàng Sa (Bảy Sa), Lâm Minh Thái (Hai Thái), Đặng Văn Tôn (Ba Thanh), Nguyễn Hồng Sơn (Tư Sơn), Dương Thị Bình (Tư Bình)…

     Văn phòng Ban Cán sự làm việc trong căn hầm bí mật đào dưới nền chuồng gà phía trước nhà ngoại và một hầm cá nhân trong buồng. Cậu Út thường đưa tôi xuống hầm bí mật mở radio nghe Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam (Đài Hà Nội), cậu có chiếc radio nhỏ hơn gang tay xài viên pin khối to gắp đôi âm thanh không tốt, cậu cháu tôi cố lắng nghe như uống từng lời phát thanh viên, từng lời ca tiếng nhạc vào tim mình, mong sao cách mạng miền Nam sớm thành công, đất nước thống nhất được ra thăm miền Bắc xã hội chủ nghĩa, thăm Bác Hồ. Cậu cháu tôi sống dằn dặt trong tâm trạng ngày Nam đêm Bắc!

     Qua Đài Hà Nội, nguồn thông tin duy nhất cậu cháu tôi theo dõi tình hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nhưng tôi chỉ hiểu lỏm bỏm, thực sự không hình dung thành quả công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc như thế nào! Khi ấy, Đảng phát động cải cách ruộng đất Đài Hà Nội đưa tin, bình luận nhiều nhất thu hút sự chú ý của tôi. Tôi hiểu đó là cuộc cách mạng tất yếu phải tiến hành nhằm đánh đổ giai cấp phú nông, địa chủ bóc lột đem lại ruộng đất cho dân cày, thực hiện “người cày có ruộng” theo Cương lĩnh của Đảng. Nhưng rồi nghe Đài Hà Nội đưa tin cải cách ruộng đất phạm sai lầm nghiêm trọng, Bác Hồ thay mặt Trung ương Đảng và Chánh phủ nhận sai lầm xin lỗi đồng bào đồng chí và chỉ thị sửa sai …! Khi ấy, Đài phát thanh Sài Gòn thường phát sóng bài ca Chuyến đò vĩ tuyến của Lam Phương, lời ca điệu nhạc tha thiết diển tả tâm trạng ưu sầu của cô lái đò Vĩ tuyến 17 trước hiện tình đất nước bị chia cắt hai miền …! Tôi vốn yêu âm nhạc rất thích bài ca này nhưng nội dung chống miền Bắc tôi không muốn nghe.

     Bộ phận Văn phòng Ban cán sự quận do ông Hai Mạnh Hà phụ trách, cậu Út nhỏ – ông Đặng Chí Kiên làm cán bộ. Các vị lãnh đạo quận ăn ở bí mật bất hợp pháp, hay bán hợp pháp nơi nào tôi không rõ, thỉnh thoảng thấy tới nhà ngoại ban đêm hội họp, hay đến ban ngày ngụy trang làm công việc gì đó, làm việc riêng với ai đó có khi ngoài vườn, có khi trong gian buồng nhà ngoại, xong lặng lẽ ra đi. Chỉ có ông Hai Mạnh Hà bà con xa với ngoại, tôi gọi bằng cậu có mặt nhà ngoại và nhà tôi thường xuyên. Ông Hai Mạnh Hà rất vui tính, nói chuyện hài hước, gần gũi mọi người. Ông có người con trai tên Khôi làm Chánh văn phòng Huyện ủy Tịnh Biên hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ! Sau này ông có người con là Lê Phú Hội làm Bí thư Tỉnh ủy An Giang. Một buổi trưa ông Hai Mạnh Hà ở nhà tôi, ông quản Lũy ủy viên cảnh sát Hội đồng hương chính xã, ông họ Đặng theo vai vế tôi gọi bằng cậu, ông mặc bộ quần áo bằng lụa đen, mang khẩu colt 12 bên hong bất ngờ đến nhà tôi gặp ông Hai Mạnh Hà, hai ông thoáng ngỡ ngàng bắt tay chào hỏi. Ông quản Lũy nói: “Tôi cùng họ nhà này,… Tôi ủng hộ các anh, nhưng xin các anh hãy cẩn thận…!”. Tôi nhớ, cuối năm 1975 tôi công tác Tỉnh đội mang quân hàm đại úy, trong dịp đi công tác đến thị trấn Tịnh Biên tình cờ gặp ông quản Lũy, ông với tôi tay bắt mặt mừng, ông nói: “Cậu chúc mừng cháu! Đúng là trời không phụ lòng người có chí”.

     Hai hầm bí mật này sử dụng bí mật an toàn đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau đó Huyện ủy Tịnh Biên khai quật cùng với phục chế căn nhà lá của ngoại, Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang cấp Bằng Di tích lịch sử cấp tỉnh, nhằm giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Ngoài ý nghĩa đó, tôi rất mừng vì công trình này lưu giử kỷ niệm ngoại tôi, ghi dấu công lao ông bà cống hiến cho các mạng! Hôm khai quật hầm bí mật, vách hầm các cậu tôi xây bằng gạch vôi còn nguyên vẹn, dấu vết xưa còn đó, làm sống dậy trong tôi những kỷ niệm thuở nào, tôi thấy như bóng dáng ông bà ngoại và các cậu tôi thấp thoáng đâu đây…!

     Xã Nhơn Hưng cũng như nhiều xã khác trong huyện Tịnh Biên, đồng bào có truyền thống yêu nước, gắn bó với cách mạng từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong suốt hành trình 9 năm kháng chiến chống Pháp xăm lược. Xã có 4 ấp, 2 ấp Đông Hưng và Tây Hưng tiếp giáp 2 xã Thới Sơn, Xuân Tô đồng bào bao đời sống rải rác từng xóm trong vườn cây sầm uất, với đường ngang ngõ tắt. Lòng dân và địa hình thuận lợi là hai yếu tố, các đồng chí lãnh đạo quận khi ấy chọn ấp Đông Hưng làm địa bàn đứng chân lãnh đạo phong trào cách mạng nhân dân quận nhà.

     Ngoại tôi – cụ ông Đặng Văn Hợi và cụ bà Phan Thị Phi có 3 người con liệt sĩ, bà ngoại được Nhà nước truy tặng “Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng”. Những năm đầu kháng chiến chống Pháp trong tình thế cách mạng đầy gian khó, ông bà bất chấp hiểm nguy thường xuyên nuôi chứa cán bộ, bộ đội trong nhà. Sau Hiệp định Genève năm 1954 cách mạng miền Nam mong manh như ngàn cân treo sợi tóc, ông bà ngoại tôi một lần nữa thể hiện lòng kiên trung với cách mạng, sẳn sàng hy sinh tất cả khi cách mạng cần. Những năm 1954 – 1957 các cậu tôi làm cách mạng, cậu thứ Sáu Đặng Hữu Hào hy sinh năm 1946, còn lại 4 cậu tham gia kháng chiến được cử ở lại, trừ cậu thứ Bảy Đặng Văn Tôn bất hợp pháp ăn ở bí mật, cậu Mười Đặng Văn Ngưng, cậu Út lớn Đặng Văn Tiếng và cậu Út nhỏ Đặng Văn Mật - bí danh Đặng Chí Kiên sống công khai hợp pháp nhà ngoại.

     Gia đình tôi từ kinh Tám Ngàn trở về quê nhà cuộc sống nghèo khó, ba tôi xoay sở làm ăn liên tiếp thất bại, nợ nần chồng chất! Má tôi làm bánh, nấu xôi giải nắng dầm mưa gánh bán rong đầu làng cuối xóm chắt chiu từng đồng lo toan cuộc sống gia đình! Tôi cùng anh rể thứ Ba và các em tôi tới mùa đi cắt lúa mướn, hay trồng rẫy khoai, dưa…những mong chia sẻ phần nào gánh nặng cuộc sống gia đình với ba má tôi.

     Năm 1956 ba tôi vay mượn vốn của chú Ba Dẻ - bà con bên nội tôi 200 giạ lúa bán mua ghe đi buôn chuyến. Ba tôi đang cúng làm lễ khởi hành, từ đâu con chim nhạn rơi trước mũi ghe, ba tôi thấy điềm lạ tỏ ra bất an nhưng không nói gì! Với chiếc ghe đó ba tôi đi buôn chuyến nào cũng lổ, may lắm hòa vốn. Cùng đi với ba có cô em thứ Năm của tôi, có lúc tôi cũng đi theo giúp ba, chứng kiến những chuyến buôn khi hàng đầy ghe rời bến ba tôi rất vui, hy vọng chuyến này có lãi trả nợ, rồi có lúc hết nợ gia đình có cuộc sống ấm no, vợ con đở vất vã thiếu thốn. Khi kết thúc chuyến buôn hy vọng trôi theo dòng nước, ba tôi buồn bực lấy rượu giải sầu, tình cảnh này cứ lập đi lập lại! Có lúc khi uống rượu ba nói trong nghẹn ngào tức tưỡi với anh em tôi: “Ba buồn quá con ơi! Muốn tự vận chết cho rồi, tội nghiệp má con và các con ở lại, ba chết cũng không yên!”. Nghe ba nói lòng tôi đau đớn, xót xa! Tấm lòng và trách nhiệm làm chồng, làm cha của ba tôi suốt cuộc đời lúc nào cũng vậy!

     Khi anh em tôi lần lượt thoát ly gia đình tham gia kháng chiến, cuộc sống gia đình tôi vẫn khốn khó. Năm 1958, ba tôi thu xếp gia đình trở về sinh sống kinh Tám Ngàn để lại những món nợ cùng lời dèm pha, xỉ vả của chủ nợ. Tôi nghe nói thiếm Ba Dẻ xót của cũng nói nặng nhẹ gì đó ba tôi, chú Ba cự lại: “Bà không được nói nặng anh tôi nghe…!”. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 về quê nhà, anh em tôi bàn với ba xem số nợ còn thiếu cùng nhau góp tiền giao cho ba trả hết nợ.                                              

*

Chương III

SỨ MẠNG THẦM LẶNG

     Như tôi viết trên, tháng 12 năm 1957 tôi làm nhân viên Văn phòng Ban cán sự Đảng quận Tịnh Biên về sau là Huyện ủy Tịnh Biên, trúng tuyển chế độ quân dịch chánh quyền Sài Gòn. Nhân dịp này ông Năm Mạo - Bí thư Ban cán sự quyết định đưa tôi vào quân đội Sài Gòn làm công tác nội tuyến, trước khi lên đường, ông chỉ đạo Chi bộ Văn phòng Ban cán sự kết nạp tôi vào Đảng. Sau lễ kết nạp Đảng mấy hôm, ông Năm Mạo triệu tôi đến gặp ông tại khu vườn gần nhà ngoại tôi. Ông làm việc với tôi gần một tuần, phổ biến tình hình nhiệm vụ cách mạng miền Nam; tập huấn yêu cầu nhiệm vụ, phương châm phương thức công tác nội tuyến với yêu cầu “chui sâu, trèo cao…”. Sau cùng ông công bố quyết định Ban cán sự phong tôi cấp trung đội trưởng, tức chuẩn úy. Căn dặn tôi những gì cần phải làm và cần phải tránh.

     Một năm làm lính quân dịch, tôi trãi qua hai tháng huấn luyện cơ bản quân trường Quang Trung. Sau đó, họ đưa tôi học tiếp khóa kế toán binh đoàn ở Liên trường võ khoa Thủ Đức hai tháng và phân bổ tôi về Sở quân nhu quản trị số 6 thành Hanh Thông Tây - Gò Vấp làm kiểm số viên, cho đến ngày mãn hạn quân dịch giải ngủ tháng 12 năm 1958.

     Trước khi giải ngũ, tôi nghỉ phép về nhà liên lạc với tổ chức mới biết bà ngoại tôi qua đời vì bệnh hiểm nghèo tôi rất đau buồn! Giải ngũ lính quân dịch trở về gia đình tôi đang sinh sống ở đường Cũi Giữa kinh Tám Ngàn. Một tháng sau cậu Út tôi đến truyền đạt quyết định Huyện ủy Tịnh Biên giao nhiệm vụ tôi tiếp tục công tác nội tuyến lần thứ hai trong lực lượng bảo an. Sau khi làm xong thủ tục nhập ngũ, tôi thụ huấn hai tháng tại Trung tâm huấn luyện bảo an tỉnh An Giang (địa điểm báo An Giang ngày nay).

     Mãn khóa huấn luyện họ đưa tôi về đồn Vàm Cống, trưởng đồn giao làm thơ ký đồn và giử kho súng. Bảy Nhị - em tôi được tổ chức giao nhiệm vụ liên lạc với tôi, cậu Út cũng có vài lần đến thăm. Có lần cậu Út đến, tôi với cậu ngủ qua đêm trước cửa kho súng, tôi báo cho cậu biết số súng trong kho và hệ thống bố phòng của đồn. Tôi đề nghị làm nội ứng cho bộ đội đánh đồn ra ngoài chiến đấu. Cậu Út cho biết Đảng chưa có chủ trương, khuyên tôi kiên nhẫn!

     Một buổi sáng, tôi thơ thẩn đứng trước cửa đồn nhìn khách tấp nập xuống xe qua phà, tôi nhận ra một bà nét mặt quen quen. Thì ra chị Sáu Mỹ Tân, hồi kháng chiến chị công tác chung với tôi ở Tỉnh đoàn Thanh niên cứu quốc Long Châu Hà. Lẽ ra tôi không nên nhìn chị, nhưng tình đồng chí lâu ngày mới gặp giục tôi muốn gặp thăm chị. Tôi đi nhanh xuống phà đứng gần chị, thấy tôi mặc quần áo lính chị quay đi, tôi đi theo hỏi nhỏ: “Chị Sáu mạnh khỏe hả?”. Chị buộc quay lại hỏi: “Xin lỗi cậu là ai?” – “Tôi là Đáo đây (tên thật của tôi), chị đừng ngại, tôi vẫn là Đáo như ngày xưa chị à!”. Chị Sáu Mỹ Tân buộc nhìn tôi nhưng trông chị có vẻ bất an! Sau này xãy ra chuyện đấu tranh nội bộ Tỉnh ủy An Giang, những người chống tôi dựng chuyện tôi tự đi lính, tổ chức Đảng thông qua gia đình vận động tôi giác ngộ làm nội tuyến, chứ không phải do tổ chức Đảng đưa đi…! Chị Sáu Mỹ Tân phụ họa rằng gặp tôi ở đồn Vàm Cống “mang lon trung sĩ”!   

     Cuối năm 1959 Tỉnh đoàn Bảo an tuyển lính các đại đội thành lập một đại đội đưa đi huấn luyện bổ túc tại Trung tâm huấn luyện Thất Sơn, về sau có tên Trung tâm huấn luyện Chi Lăng, đại đội trưởng giao tôi làm thơ ký đại đội. Về phép gặp cậu Út, tôi đề nghị làm nội ứng cho bộ đội đánh chiếm Trung tâm huấn luyện Chi Lăng. Cậu Út tôi khuyên hãy kiên nhẫn thực hiện yêu cầu nhiệm vụ “chui sâu trèo cao”.

     Sau khóa huấn luyện họ bổ nhiệm tôi về Phòng chiến tranh tâm lý và Phòng kế hoạch Tỉnh đoàn bảo an An Giang. Sau cùng họ thuyên chuyển tôi về Khu 1 bảo an Nam phần, là cơ quan chỉ huy lực lượng bảo an 6 tỉnh miền Tây trú đóng gần sân bay Sóc Trăng, sau dời về Cái Răng – Cần Thơ. Tôi về báo cáo tổ chức, các đồng chí cho đây là cơ hội tôi có thể “chui sâu, trèo cao”, động viên tôi cố gắng hoàn thành nhiện vụ.

     Nơi đây, họ giao nhiệm vụ tôi kẻ vẽ khẩu hiệu trang trí các phòng làm việc và làm thơ ký đánh máy. Trong cơ quan chỉ có tôi binh nhì, còn lại là hạ sĩ quan và sĩ quan cấp úy do viên trung tá làm chỉ huy trưởng. Tôi làm việc văn phòng như một công chức rất nhàn nhã, lợi dụng công việc mình làm đánh cắp một số tài liệu mật chuyển cho tổ chức.

      Làm công tác nội tuyến tôi sợ mang tiếng phản bội chống cách mạng làm hoen ố truyền thống cách mạng gia đình và có nguy cơ bị lộ cầm chắc cái chết. Tôi luôn nôn nóng muốn ra ngoài chiến đấu sẳn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh. Một hôm Bảy Nhị đến thăm, tôi nói: “Em về báo cáo xin ý kiến cho anh ra ngoài chiến đấu, ở đây anh không làm được việc gì có ích đâu…!” Một tuần sau không chờ ý kiến tổ chức, nhân ngày chủ nhật nghỉ làm việc tôi ra bến xe Cần Thơ “đào thoát”, kết thúc hành trình hơn ba năm, hai lần công tác nội tuyến trong quân đội Sài Gòn chẳng làm nên tích sự gì!

                                                      *

Chương IV

TRONG LỬA ĐỎ

     Về gia đình tôi vẫn đang sinh sống ở kinh Tám Ngàn là vùng giải phóng, lực lượng kháng chiến địa phương thấy tôi lạ mặt dáng vẻ dân thành thị nghi ngờ làm dọ thám cho địch định “làm thịt” tôi, may sao các đồng chí lãnh đạo tỉnh, huyện biết được can ngăn. Về sau tôi mới biết chuyện nầy, hú hồn! Hơn một tháng, Huyện ủy Tịnh Biên gọi tôi về văn phòng trú đóng núi Dài xã Ba Chúc. Ông Năm Mạo - Bí thư Huyện uỷ triệu tập cuộc họp kiểm thảo tôi, quyết định thi hành kỷ luật cảnh cáo và kéo dài thời kỳ đảng viên dự bị mà không nói thời gian về khuyết điểm vi phạm kỷ luật đảng, tự ý bỏ nhiệm vụ công tác nội tuyến Đảng giao. Sau đó, Huyện uỷ phân công tôi làm Trưởng Tổ quân báo huyện.

     Những năm tháng công tác ở huyện Tịnh Biên, tôi có hai người bạn chí cốt để lại trong tôi niềm thương nỗi nhớ khôn nguôi! Đó là anh Chín Tiều tức Thái Quốc Hùng, khi tôi làm Trưởng Tổ Quân báo huyện anh làm Trưởng Văn phòng Huyện đội. Người thứ hai là anh Nguyễn Văn Nhạc thường gọi Năm Hà, được Huyện đội bổ nhiệm làm phó cho tôi. Anh là con em gia đình cách mạng chí cốt ở xã Thới Sơn, anh hy sinh vì vướng lựu đạn gài của bộ phận cùng ở với anh trong lõm căn cứ xã Thới Sơn, thật đau lòng!

     Mùa nước năm 1961, tôi được cử dự hội nghị Quân báo Khu 8 ở căn cứ Đồng Tháp Mười, cùng với anh Mười Thành Công - Trưởng Tiểu ban Quân báo Tỉnh đội. Hơn một tuần làm việc chúng tôi sắp quay về An Giang, nhận tin buồn anh rể thứ Ba của tôi – anh Trần Ngọc Quế, tên thường dùng Ba Nhân hy sinh cùng tiểu đội bộ đội địa phương tỉnh do anh chỉ huy, bảo vệ bà Nguyễn Thị Định – Phó Tư lệnh Miền trên đường công tác từ An Giang về miền Tây, đến xóm Cốc Đạo Cậy xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú bị địch truy đánh.

Trên đường về, chúng tôi đến xóm Cốc Đạo Cậy lúc nửa đêm, được đồng bào dẫn đi xem nơi diển ra trận đánh không ngang sức, quân ta không tới 10 tay súng bám trên gò tre nhỏ giữa đồng nước, đương đầu với địch đi trên giang thuyền. Anh Ba Nhân chỉ huy anh em chiến đấu cản hậu bảo vệ đoàn bà Nguyễn Thị Định rút đi an toàn, diệt một số tên địch. Chúng tôi đến đó sau trận đánh vài ngày, một bác nông dân chứng kiến trận đánh sinh tử của quân ta kể lại diển biến từ đầu đến cuối, luôn nhắc đến người chỉ huy dũng cảm chỉ huy anh em chiến đấu kiên cường. Tôi nghe mà lòng quặn thắc một nỗi đau!     

     Anh em tôi không có anh trai, từ ngày anh Trần Ngọc Quế cưới chị Ba tôi hồi kháng chiến chống Pháp, khi anh là cán bộ tiểu đội Vệ quốc đoàn, anh em tôi xem anh như anh cả thân thương, quảng đời ngắn ngũi của anh gắn bó với gia đình bên vợ nghĩa tình trọn vẹn!

      Lần gặp anh Ba tôi sau cùng đầu năm 1961, khi tôi bỏ nhiệm vụ công tác nội tuyến trở về, anh đi công tác ghé qua nhà ở kinh Tám Ngàn. Anh đã là cán bộ trung đội bộ đội địa phương tỉnh, khi ấy bộ đội địa phương tỉnh chỉ có 3 trung đội độc lập có tên Tiền phong, Dũng Tiến, Quyết Thắng. Anh mặc quân phục trông đường hoàng đỉnh đạt đúng phong cách nhà quân sự. Anh bỏ rượu, nói năng bặt thiệp, kể tôi nghe tình hình thế giới, tình hình trong nước, hiện tình và tương lai cách mạng miền Nam… khác xa anh “ba xị đế” ngày nào – biệt danh bạn nhậu đặt cho anh!

     Hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên vài năm đầu sau Đồng khởi 1960, phần lớn vùng nông thôn và rừng núi được giải phóng. Thỉnh thoảng địch mở những trận càn vừa và nhỏ đánh nống ra vùng ven chúng tạm chiếm. Các cơ quan và bộ đội địa phương tỉnh huyện thường trú đóng vùng giải phóng núi Dài, hay núi Tô. Đồng bào vùng giải phóng làm ăn sinh sống bình thường, đời sống cán bộ chiến sĩ ta tương đối thoái mái!

     Từ năm 1962 – 1965 trở đi, cùng toàn miền Nam các lực lượng vũ trang trong tỉnh phát triển ngày càng lớn mạnh, đánh địch giành nhiều thắng lợi. Để cứu nguy chế độ Sài Gòn, Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam, cuộc chiến tranh leo thang ngày càng khốc liệt!

     Tổ Quân báo huyện Tịnh Biên từng bước xây dựng phát triển có một tiểu đội Trinh sát quân báo, cùng mạng lưới cơ sở mật trong vùng địch, khai thác địch tình phục vụ sự lãnh đạo, chỉ huy của Huyện ủy, Huyện đội và bộ đội tác chiến có hiệu quả!

     Ngày 15 tháng 4 năm 1962, một đơn vị bộ đội địa phương tỉnh do anh Ba Tiếng chỉ huy phục kích tại dốc Bà Đắc trên đường Nhà Bàn – Vĩnh Trung chặn đánh 2 xe GMC chở đầy lính từ căn cứ Vĩnh Trung đi Châu Đốc. Trận đánh diển ra 7 giờ 30 sáng kết thúc sau 10 phút. Ta diệt và làm bị thương hơn 30 tên, bắt 6 tù binh, thu 35 súng, đốt cháy 2 xe GMC. Ta 1 chiến sĩ hy sinh, 2 bị thương; trong đó có anh Ba Tiếng. Trận đánh có tôi và đội Trinh sát quân báo tham dự phục vụ địch tình, quản lý và khai thác tù binh.

      Anh Ba Tiếng về sau chuyển ngành làm Chủ tịch UBND huyện Thoại Sơn nhà thị trấn Núi Sập. Anh là con rể chú Năm Cối, trong kháng chiến chống Mỹ chú Năm làm Bí thư Chi bộ xã Ba Chúc. Cách đây mấy tháng tôi có đến nhà thăm anh Ba Tiếng, năm nay anh 94 tuổi già yếu ngồi xe lăng! Con gái anh là cô Kim Bình đang làm Phó giám đốc Sở Nội vụ tỉnh. Anh Ba Tiếng năm xưa là người chỉ huy bộ đội đánh giặc kiên cường, nay “hết oanh tới liệt”! Hình ảnh anh Ba Tiếng ngày nay là tương lai không xa đời tôi! “Sanh, lảo, bệnh, tử” – qui luật muôn đời trong cuộc sống con người đâu ai thoát khỏi!

     Trận đánh kết thúc thắng lợi, thu dọn chiến trường xong quân ta rút về lõm căn cứ xã Thới Sơn, bố trí phòng ngự. Pháo địch từ căn cứ Vĩnh Trung bắn dọn đường cho bộ binh kéo lên tiếp ứng la hét dưới xóm nhà, cách chốt tiền tiêu quân ta trong tầm súng.Đến quá trưa, mọi người căng thẳng theo dõi địch, chúng vẫn áng binh bất động dưới xóm nhà, nghe tiếng gà vịt kêu biết chúng đang lùa bắt của dân chuẩn bị ăn trưa. Tôi ngồi dựa gốc cây cùng anh em canh giử tù binh, gần đó anh Ba Tiếng nằm trên cáng thương, anh Năm Huỳnh bác sĩ quân y và y tá chăm sóc. Bất chợt có tiếng động ngỡ là địch, hóa ra các chị gánh cơm nước tiếp tế quân ta. Nhìn các chị lưng áo ướt đẫm mồ hôi, tay thoăn thoắt xới cơm và phân chia thức ăn cho từng nhóm quân ta. Tôi hỏi: “Lính còn trong xóm làm sao các chị vô đây được?” – Các chị trả lời tỉnh bơ: “Ờ! Mình lựa chổ nào không có lính thì đi” – Tôi hỏi tới: “Vào đây các chị không sợ sao?” – Các chị nói: “Sợ gì! Nếu sợ để các anh đói sao!”.

     Những năm công tác huyện Tịnh Biên tôi thường về xã Thới Sơn, những lần đụng giặc càn quét tôi cùng anh em cán bộ lên núi Két tránh giặc, qua trận càn xuống xóm cơm nước. Lần nào cũng vậy, bà con chuẩn bị sẳn cơm sốt canh nóng, chờ giặc rút anh em ta có cơm ăn ngay. Lần này, khi thấy trời xế chiều địch chưa rút sợ quân ta đói khát, các chị mạo hiểm tìm kẻ hở gánh cơm nước tiếp tế. Nhớ chuyện này tôi không khỏi bồi hồi xúc động trước tấm lòng người dân đối với cách mạng, thật cao quí biết bao!

     Địch chơi trò “hổ vờn mồi” đến 4 – 5 giờ chiều mới rút quân. Đêm ấy, đơn vị bộ đội địa phương tỉnh hành quân xuống Châu Thành chuẩn bị trận đánh mới. Tôi cùng đội trinh sát quân báo và đoàn cán bộ tỉnh, huyện theo đường giao liên chuyển chiến thương và áp giải tù binh về núi Dài lớn. Đến núi Phú Cường, tôi và anh Tám Bê huyện ủy viên phụ trách công tác binh vận ở lại. Núi Phú Cường là “hậu cứ” của tôi và anh Tám Bê. Từ đây, bọn tôi “bỏ vòi” ra núi Cậu móc nối cơ sở trong thị trấn Tịnh Biên hoạt động. Khi ấy đồng bào trong lõm căn cứ núi Phú Cường địch gom hết ra “ấp chiến lược”. Đêm ấy bọn tôi lười biếng ngủ dưới chân núi, không lên sườn núi ngủ như mọi khi. Sáng dậy nghe tiếng người la hét ngoài đồng, tôi nói với anh Tám Bê: “Dường như tiếng lính” – Anh Tám Bê gạt ngang: “Tiếng dân lùa bò vào đó”. Tôi tin lời anh Tám Bê cùng nhau xếp chăn màn vào ba lô để tại chổ ung dung xuống dưới xóm, đến đầu sân nhà bỏ hoang của anh Mười Chi là cán bộ xã, tôi thấy 2 tên lính, một tên quay lưng, một tên nhìn ngang không thấy tôi. Tôi thoáng nghĩ: “Tù binh đi đêm hồi hôm sao còn ở lại!”. Trong tích tắc nhận biết lính địch, tôi và anh Tám Bê chạy lên núi, địch phát hiện la ó đuổi theo bắn loạn xạ. Hai đứa tôi chạy một mạch lên núi mệt muốn đứt hơi, thiếu chút nữa toi mạng trả giá cho thói lười biếng mất cảnh giác! Trận càn kéo dài suốt ngày, địch đốt trụi núi Phú Cường, du kích chống càn diệt mấy tên, 1 du kích hy sinh. Ba lô của tôi và anh Tám Bê để chổ ngủ địch lấy sạch, hại tôi mấy tháng trời chỉ có mỗi bộ quần áo dính da!

     Năm 1963 Huyện đội Tịnh Biên giao tôi kiêm nhiệm làm Trưởng Văn phòng Huyện đội, đầu năm 1964 Huyện ủy quyết định tôi làm Trưởng Văn phòng Huyện ủy. Tôi đi kháng chiến năm 11 tuổi học hành dang dở, nhờ trời cho tôi có chút năng khiếu “cạo giấy” nên cuộc đời làm cách mạng của tôi nhiều năm làm công tác văn phòng, khởi đầu ở huyện Tịnh Biên.

     Ngày 31 tháng 7 năm 1964, sau khi được gia đình đôi bên và Ban thường vụ Huyện ủy Tịnh Biên chấp nhận, tôi làm lể thành hôn với cô gái công tác cùng cơ quan với tôi thành vợ thành chồng đến ngày “răng long tóc bạc” hôm nay! Lể tuyên hôn được tổ chức nhân bế mạc hội nghị cán bộ Huyện ủy có mặt gia đình hai họ và một số bạn bè, đồng chí thân thiết của tôi, do ông Hai Mạnh Hà - Bí thư chi bộ làm chủ lể. Sau bữa cơm thân mật buổi chiều mọi người quây quần trong hội trường có trang trí bàn thờ Tổ quốc, cô dâu chú rể “đứng hầu” hai bên nghe ông chủ lể “thuyết giáo”. Sau cùng tôi hứa hẹn… Nghi lể vừa xong chốc lát, bổng nghe tiếng pháo đề-pa từ trận địa pháo Ba chúc, đạn rít qua đầu nổ ầm ầm chung quanh. Mọi người nhanh chóng chạy tản ra, hầm trú ẩn không đủ, nhường cho người già, phụ nử, trẻ em; tôi và các bạn trẻ nằm phơi trên mặt đất. Địch bắn hàng chục quả pháo như “cò ỉa miệng ve”, không quả nào rơi trúng nơi hành lể. Trận bắn pháo có vẻ không bình thường, Ban An ninh huyện phát hiện tên gián điệp nữ nhà xóm Ô Cạn bắt điều tra, thị khai thấy anh em ta mượn nồi niêu, chén bát báo với đồn Phổ Đà Ba Chúc: “Việt cộng đang hội họp, ăn uống đông người…” chỉ điểm chúng bắn pháo. Tên gián điệp đền tội làm tay sai cho địch!

     Cuối năm 1967 Văn phòng Huyện ủy Tịnh Biên dời về lõm căn cứ xã Thới Sơn. Lúc này gia đình tôi ở trong “ấp chiến lược” Đông Hưng, xã Nhơn Hưng. Sau tết Mậu Thân năm 1968 tôi nhờ người quen nhắn má đưa con tôi vào thăm, đến ngày hẹn tôi gặp má tôi tay bồng cháu, tay xách chiếc giỏ đựng cái soong nhỏ, hộp sữa đặc và các thứ lặt vặt vào thăm tôi. Tôi đưa má và con tôi đến chòi rẫy của ai đó ở ven lõm căn cứ. Tôi lấy chiếc soong nhỏ tước nắm lá dừa khô nấu nước pha sữa cho con tôi uống. Đến chiều hai bà cháu ra về, tôi đưa một đoạn đường đến ngã rẽ chia tay, lặng nhìn theo má tôi tay bồng cháu tay xách giỏ đi chầm chậm đến khi khuất bóng!

     Đêm ấy, ở cơ quan tôi nằm trằn trọc không sao ngủ được, trận Tổng công kích tết Mậu Thân không giành thắng lợi như mong muốn, trong cơ quan Văn phòng Huyện ủy không khí chùng xuống! Nỗi buồn việc nước xen lẫn buồn riêng, cuộc kháng chiến gian khổ ác liệt này còn kéo dài liệu ba má và con tôi đủ sức chịu đựng khổ ải này đến ngày toàn thắng?!

     Cùng lúc nhận tin buồn cậu Út tôi – ông Đặng Chí Kiên làm huyện ủy viên huyện Châu Thành, khi bám trụ hoạt động vùng địch hậu với vài cán bộ bị địch đột kích điểm trú ẩn bắn cậu cùng mấy đồng chí hy sinh! Sau này, nghe anh Năm Điền bạn thân cậu Út tôi kể lại: Lần cuối cậu Út về Văn phòng Tỉnh ủy làm việc gặp anh Năm Điền, hai anh em trò chuyện tâm sự thâu đêm, cậu Út kể hoàn cảnh sống, công tác vô cùng nguy hiểm vùng địch hậu, cậu nói như trăn trối: “Gặp anh lần này không biết có về gặp nữa hay không…!”.

     Cậu Út tôi hy sinh sau cậu thứ Mười Đặng Văn Ngưng làm Bí thư Chi bộ B xã Nhơn Hưng. Sau này nghe người nhà kể lại: Cậu Mười tôi bị tên Dương Văn Vuông – một cán bộ đi tập kết Cà Mau được lệnh ở lại miền Nam như tôi, Chi bộ xã cày cấm làm trưởng đồn dân vệ xã, vài tháng đầu còn liên lạc với tổ chức đóng đảng phí, dần dần ra mặt phản bội làm tay sai ác ôn cho địch. Đầu năm 1961 tên Vuông chỉ huy dân vệ xã bắt cậu Mười tôi, chúng tra tấn cậu tàn bạo dẫn vào vườn nhà ngoại bảo khai báo hầm bí mật, cậu không khai chửi tên Vuông “đồ phản bội…”. Chúng tiếp tục tra tấn dẫn cậu lên chợ Nhà Bàn, đến dốc tháp canh số 1 đè cậu mổ bụng sống lấy gan nói “Để xem lá gan của mày bao lớn…!”.

     Giữa năm 1968 tôi được điều về Văn phòng Tỉnh đội làm Trợ lý chiến sự, chức năng như Chánh văn phòng, thay anh Trần Thế Lộc thường gọi Bảy Phong nhận nhiệm vụ khác. Anh Trần Minh Phương tức Chín Phương – cán bộ Văn phòng Tỉnh ủy về Tịnh Biên thay tôi. Cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi, cũng như bao bạn bè đồng chí khác Đảng giao bất cứ nhiệm vụ gì ở đâu, dù khó khăn gian khổ đến mấy cũng phấn đấu hoàn thành, không suy bì đắn đo hơn thiệt. Tôi nhờ có chút năng khiếu “cạo giấy” nên nhiều năm được làm công tác văn phòng, khởi đầu là Văn phòng Huyện ủy Tịnh Biên nay về Văn phòng Tỉnh đội thoát khỏi “chảo lửa” huyện Tịnh Biên, trong khi bạn bè đồng chí thân quen của tôi công tác huyện Tịnh Biên nhiều người sau cuộc chiến không còn sống!

     Các cơ quan tỉnh khi ấy trú đóng đồi Tức Dụp – núi Tô. Khi đến cơ quan Tỉnh đội, anh Vũ Khắc Sương thường gọi Năm Sương - Tỉnh đội trưởng lệnh Tiểu ban Quân lực cấp tôi một khẩu súng ngắn, anh trực tiếp giao nhiệm vụ và hướng dẫn tôi đến chổ ở. Đó là hốc đá nhỏ nằm trong dãy lò ảng tầng tầng lớp lớp đồi Tức Dụp. Chỉ một hai ngày sau tôi được nếm mùi trận bom đầu tiên của máy bay địch. Có mấy quả rơi trên đầu tiếng nổ chát chúa, khói bụi mịt mù len theo kẹt đá vào tận hang sâu nơi cơ quan trú ẩn.

     Khi ấy địch đánh phá đồi Tức Dụp chưa ác liệt, hàng ngày vào đầu giờ làm việc buổi sáng, tôi chui khỏi hang hít thở không khí ban mai trong lành đi nhởn nhơ ngắm cảnh sang Văn phòng Tỉnh ủy họp giao ban, đi ngang khu vực Dân y tỉnh bữa nọ tôi thấy một bệnh nhân nữ gương mặt khá xinh chừng 18 - 19 tuổi, nằm trên vạt tre kê dưới vòm hang đá nhỏ bên đường, cô mặc quần đen cũ nát, trên người chỉ đắp chiếc khăn rằn, sau lưng có mấy vết loét rất sâu, cô luôn rên rỉ, cười nói lảm nhảm như người mất trí. Tôi hỏi người biết chuyện kể lại: Cô bệnh nhân ấy quê Cà Mau đi thanh niên xung phong vận tải vũ khí từ biên giới Campuchia về miền Tây. Trong một trận địch càn quét núi Tô cô bị sốt rét, đồng đội đem giấu dưới hang đá không rõ vì sao bỏ rơi cô. Gần mười ngày sau, anh em nhân viên một cơ quan tỉnh phát hiện cô trong tình trạng đói lã, thân thể lở loét đem về Dân y tỉnh cứu chữa. Tôi hỏi bác sĩ trưởng Dân y về khả năng cứu chữa cô gái? Anh cho biết trong hoàn cảnh của ta hiện nay không có khả năng chữa lành các vết loét của cô! Như vậy, cô thanh niên xung phong ấy nằm chờ chết!

     Những năm 1967 – 1968 ta tổ chức tuyến vận tải vũ khí từ cảng Sihanoukvil – Camphuchia qua cánh rừng tràm An Giang, Kiên Giang về miền Tây dài hàng trăm cây số. Địch phát  hiện truy đánh gây cho ta nhiều tổn thất! Lực lượng vận tải phần lớn nữ thanh niên xung phong các tỉnh miền Tây thương vong rất nhiều! Các cô đem tuổi thanh xuân hiến dâng đất nước đương đầu với mọi gian khó, hiểm nguy! Sự hy sinh của các cô đã lùi sâu vào dỉ vãng, nay mấy ai còn nhớ…?!!

     Gần cuối năm 1968 các cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội dời về căn cứ B3 huyện An Phú. Cơ quan Tỉnh đội lúc đầu ở Giồng Ông Sãi xã Khánh Bình, sau dời về chòm vừng xã Nhơn Hội. Khi ấy vợ tôi vẫn công tác Quân y huyện Tịnh Biên, anh Ba Bên thủ trưởng Tỉnh đội có ý kiến Huyện đội Tịnh Biên cho vợ tôi về công tác Văn phòng Tỉnh đội, sau đó về Quân y tỉnh để vợ chồng được gần nhau. May mắn đưa đến vợ tôi thoát khỏi “chảo lửa” huyện Tịnh Biên!

     Giồng Ông Sãi nằm trên đất Campuchia cách biên giới hơn một cây số, đối diện xóm Vạt Lài là đất Việt Nam sát đường biên giới. Thời ông Hoàng Sihanouk cầm quyền ở Campuchia, vùng biên giới giáp Việt Nam quân Sài Gòn cho là “đất thánh Việt cộng”.

     Lúc này tình hình chính trị Campuchia diển biến bất thường, phái thân Mỹ trong chánh quyền Sihanouk thao túng chính trường, không chấp nhận sự có mặt của ta trên đất Canpuchia. Khi ấy, Tỉnh ủy cử đoàn cán bộ dân – đảng, trong đó Bảy Nhị em tôi - cán bộ Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy về Bảy Núi công tác, qua kinh Vĩnh Tế lọt ổ phục kích địch vài đồng chí hy sinh, số còn lại chạy lên biên giới bị quân đồn trú Campuchia bắt, trong đó có em tôi.

     Khi được tin chưa rõ ràng cả nhà tôi vô cùng lo lắng không biết ai còn ai mất! Hy vọng có người chạy thoát lên núi Som tìm cách trở về, nhưng qua hai ngày không thấy ai về! Không thể ngồi yên, tôi đề nghị thủ trưởng Tỉnh đội cho tôi cùng em rể thứ Sáu tên Hùng và Ba Thạo – bạn thân Bảy Nhị ở Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy đi tìm, Tỉnh đội cử một tổ Trinh sát quân báo yểm trợ, hình thành một phân đội 6 người, trang bị 1 khẩu B40 và tiểu liên AK. Chúng tôi hành quân bằng xuồng đến núi Som quá nửa đêm, giấu xuồng ngoài đồng đổ bộ lên núi tìm nơi kín đáo ém quân. Tối hôm sau chúng tôi xuống núi vào xóm nhà dân dưới chân núi hỏi thăm tin tức, được dân cho biết: Đêm ấy nghe súng nổ ngoài kinh Vinh Tế, sáng lại lính Campuchia đồn Thâm Đưng bắt một số người của ta chạy lên biên giới giam giử một ngày, sau đó áp giải đi đâu không rõ…! Không biết làm gì hơn chúng tôi đành trở về.

     Tôi về báo cáo với Tỉnh ủy, Tỉnh đội. Các anh chỉ đạo Ban liên lạc tỉnh, tức cơ quan đối ngoại với Campuchia cử cán bộ đi Thâm Đưng tiếp xúc quân đồn trú, tranh thủ những người có quan hệ tốt với ta lãnh các đồng chí bị bắt. Chuyến đi các đồng chí Ban liên lạc tỉnh kết quả như mong đợi, em tôi và các đồng chí bị bắt họ chưa giao giải đi đâu không như tin chúng tôi nắm, họ chấp nhận cho đại diện Ban liên lạc tỉnh lãnh về.

     Ngày 18 tháng 3 năm 1970 nhân ông Hoàng Sihanouk đi nước ngoài, tướng Lon Nol đảo chánh lập chánh phủ thân Mỹ. Khi ấy tôi vẫn làm Trợ lý chiến sự Tỉnh đội, cơ quan trú đóng chòm vừng xã Nhơn Hội, huyện An Phú trên đất Campuchia sát biên giới. Bác Hồ qua đời mấy tháng nay, cơ quan Tỉnh đội, cũng như các cơ quan khác của tỉnh còn nặng trĩu đau buồn, nay đối mặt với tình thế mới, các cơ quan tỉnh trú đóng trên đất Campuchia ven biên giới không còn an toàn. Đồn quân Sài Gòn ở Nhơn Hội cách khu vực trú đóng cơ quan Tỉnh đội đường chim bay hơn trăm mét, ngày đêm chĩa loa phóng thanh hướng biên giới ra rã: “Hởi cán binh Việt cộng, Bác Hồ của các bạn không còn… Campuchia thay chánh phủ mới không chứa các bạn trên đất họ, quân lực Việt Nam cộng hòa sẽ tiến đánh các bạn bất cứ lúc nào. Các bạn hãy trở về với chánh nghĩa quốc gia…”.

     Trước khi xãy ra cuộc đảo chánh ở Campuchia ít ngày, đoàn cán bộ lãnh đạo tỉnh An Giang bảy đồng chí và đồng chí Phó bí thư Khu ủy Khu 8 cải trang đi công khai trên đất Campuchia từ căn cứ Khu ủy Đồng Tháp Mười về An Giang, đến đồn Prek Chẹy đối diện thị trấn Long Bình huyện An Phú bị lính Campuchia bắt giử. Tỉnh ủy cử người thương lượng trả một số vàng khá lớn để chuộc nhưng không thành. Không còn cách nào khác, Tỉnh đội tổ chức một phân đội tinh nhuệ tuyển chọn trong Đại đội đặc công 381 và Đội trinh sát quân báo tỉnh tập kích đồn Prek Chẹy giải thoát các đồng chí bị bắt an toàn. Trận tập kích cố gắng hạn chế thương vong quân đồn trú, không bắt tù binh và lấy bất cứ thứ gì trong đồn, đặt dấu chấm hết thời kỳ thân thiện ta với Campuchia thời ông Hoàng Sihanouk, mở đầu sự đối kháng giữa ta với quân Lon-nol.

     Ta ở trong thế “lưỡng đầu thọ địch” không còn con đường nào khác dù chưa có chỉ đạo của Khu ủy Khu 8, Tỉnh ủy, Tỉnh đội An Giang buộc phải đưa quân đánh quân Lon-nol sâu trên đất Campuchia, mở rộng địa bàn đứng chân để bảo toàn lực lượng và hỗ trợ lực lượng cách mạng Campuchia còn non trẻ phát triễn, lãnh đạo nhân dân Campuchia đánh Mỹ và Lon-nol. Bộ đội An Giang với hai tiểu đoàn thiếu và các đại đội độc lập đánh địch thắng như chẻ tre, chỉ một thời gian ngắn giải phóng một vùng rộng lớn liên hoàn hai tỉnh Tà Keo và Kan Đal thu rất nhiều vũ khí, quân dụng.

     Quãng đời kháng chiến chống Mỹ đầy hy sinh gian khổ của cán bộ chiến sĩ các Lực lượng vũ trang An Giang, cuộc “thập tự chinh” đánh quân Lon-nol Campuchia như một cuộc du ngoạn,  quân ta phất ngọn cờ ủng hộ Samdek Sihanouk tiến tới đâu quân Lon-nol đều bỏ chạy, nhân dân Campuchia đón mừng anh bộ đội Việt Nam như người thân tiếp đãi rất trọng thị! Ở cánh Tà Keo, một đơn vị bộ đội tỉnh tiến theo Quốc lộ 2 trong một ngày đã chiếm thị trấn Gòi Tà Lập và một thị trấn khác trên đó vài chục cây số. Ban chỉ huy Tỉnh đội cử tôi đuổi theo cánh quân này truyền đạt miệng một chỉ thị khẩn. Tôi và đồng chí Nguyễn Thanh Sơn, thường gọi Sơn Bịch – Anh hùng quân đội –lúc ấy anh đang ở Ban Chánh trị Tỉnh đội dưởng bệnh cùng đi với tôi. Hai anh em chỉ có hai khẩu súng ngắn, mượn chiếc xe gắn máy mô-by-lết của người dân tốt bụng ở Thâm Đưng. Tôi đèo Sơn Bịch chạy bon bon trên đường nhựa Quốc lộ 2 lúc trời về chiều qua các khu phố, xóm làng ven đường. Dân Campuchia thấy hai anh “bộ đội Việt Nam xăm lược” vẫy tay chào mừng thân thiện. Khi dừng lại nghỉ bà con xúm lại hỏi han nói cười vui vẻ, đem bánh trái cây thuốc lá…ủy lạo rất nhiều không thể nào nhận hết! Lần đầu tiên trong đời, tôi chạy xe gắn máy một khoảng đường xa giữa khung cảnh đặc biệt như vậy.

     Đêm ấy chúng tôi ngủ trong ngôi biệt thự ở thị trấn bộ đội vừa chiếm được không nổ phát súng nào, đèn điện sáng choang, người dân ăn ở sinh hoạt bình thường. Tôi nằm trằn trọc không sao ngủ được, cảnh vật quá xa lạ đối với người quen sống rừng núi, bưng biền như tôi. Có lẽ Mỹ và quân Sài Gòn không ngờ quân ta đánh nhanh và quân Lon-nol tan rã nhanh như vậy, nên cả tháng chúng chưa có phản ứng gì. Các cơ quan tỉnh An Giang di chuyển trú đóng sâu trên đất Campuchia. Thời kỳ Quốc vương Sihanouk trị vì, nhân dân Campuchia sống ấm no hạnh phúc trong “ốc đảo hòa bình”, nay đứng trước nguy cơ chiến tranh lan nhanh đến họ!

     Thế là điều gì đến cũng đến, Mỹ và quân Sài Gòn mở cuộc hành quân “Cửu Long 1”, rồi “Cửu Long 2”… đánh phá căn cứ của ta ven biên giới và thọc sâu càn quét trên đất Campuchia, thẳng tay cướp của, giết người, hãm hiếp phụ nữ… gây tội ác kinh hoàng những nơi chúng đặt chân đến! Suốt nhiều ngày liên tục, các cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội ban ngày ém trong các khu rừng chồi, lao sậy, vườn cây ăn trái… Đêm xuống, sau khi hội ý phán đoán hướng tiến quân của địch, bí mật hành quân đến nơi an toàn trú ẩn ngày hôm sau, có khi đi xa năm mười cây số.

     Khi ấy, các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh An Giang đánh quân Lon-nol tiến sâu trên đất Campuchia cả trăm cây số, quân Mỹ và Sài Gòn không với tới hay cố tránh chạm trán, gần như đứng ngoài vòng chiến sự. Có lẽ ta phán đoán không đúng ý đồ địch, nghĩ rằng địch sẽ “tìm diệt” bộ đội ta giúp quân Lon-nol tái chiếm lãnh thổ, nên chủ trương các cơ quan tỉnh phân tán tự tổ chức bảo vệ, luồng lách tránh địch khu vực ven biên giới địch sẽ không chú ý, để bộ đội rãnh tay chiến đấu. Thực tế diển biến trận càn ngược lại điều ta dự đoán, địch tổ chức đánh phá chà đi quét lại khu vực ven biên giới nhiều ngày. Các cơ quan tỉnh phân tán tránh địch vô cùng vất vã, may mà không bị tổn thất về người, nhưng thiệt hại vật chất đáng kể, vũ khí - khí tài chiến lợi phẫm ta thu của quân Lon-nol đưa về kho hậu cần Tỉnh đội ở căn cứ B3 – Vạt Lài và cả của ta dự trử từ trước địch phát hiện lấy sạch!

*      

Chương V

CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM

     Lần giở trang sử sau Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954, đất nước Campuchia dưới triều đại Quốc vương Sihanouk theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập trung lập, người dân Campuchia sống trong hòa bình no ấm, trong khi hai nước láng giềng Việt Nam và Lào bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ leo thang ngày càng ác liệt, thế giới gọi Campuchia là “Ốc đảo hòa bình”.

     Là nước trung lập, nhưng Quốc vương Sihanouk hết lòng ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, như chấp nhận các lõm căn cứ lực lượng kháng chiến đứng chân ven biên giới, như cái gai trong mắt người Mỹ và chánh quyền Sài Gòn nhưng không làm gì được, họ gọi đó là “đất thánh Việt Cộng”. Campuchia còn chấp nhận miền Bắc Việt Nam nhập vũ khí Liên Xô, Trung Quốc vào cảng Sihanoukville, mở đường vận chuyển qua rừng tràm Hà Tiên về miền Tây Nam Bộ.

     Chiến tranh Việt Nam mở rộng sang Campuchia, nhưng Mỹ và quân Sài Gòn không cứu được quân Lon Nol. Khi ấy người cộng sản Campuchia, tức Khmer đỏ thực lực chưa có gì. Cán bộ, bộ đội An Giang giúp “bạn” tổ chức bộ máy chánh quyền, đoàn thể và các lực lượng vũ trang. Riêng Tỉnh đội An Giang giúp “bạn” xây dựng mỗi tỉnh một tiểu đoàn bộ đội địa phương, huấn luyện và trang bị vủ khí đầy đủ.

     Cán bộ, bộ đội An Giang giúp “bạn” rất nhiệt tình có hiệu quả, mong “bạn” vững mạnh cùng ta đứng chung chiến hào chống Mỹ, vì lợi ích nhân dân hai nước. Lẽ ra “bạn” biết ơn sự giúp đỡ đó đối xử tốt với ta. Nhưng không! “bạn” dần dần lộ rõ ý đồ chống ta, ngang nhiên nổ súng khiêu khích bộ đội, bắt thủ tiêu cán bộ chiến sĩ ta đi công tác lẻ tẻ. Các cơ quan Tỉnh đội có 4 - 5 cán bộ bị chúng bắt giết dã man như các anh Ba Kỳ Nam, Chín Bình Ton, Đình Trung, Bảy Sửu…! Đối với ta thì vậy. Trong nội bộ chúng, Khmer đỏ loại những cán bộ do ta đào tạo, hai tiểu đoàn Tỉnh đội An Giang xây dựng giúp vừa làm lể bàn giao xong ta quay đi, chúng tước vũ khí giải tán tức thì.

     Giữa năm 1977 tôi là đại úy Phó chủ nhiệm Phòng Chánh trị Bộ chỉ huy quân sự tỉnh An Giang (Tỉnh đội), nhận quyết định chuyển ngành sang Văn phòng tỉnh ủy làm cán bộ nghiên cứu phụ trách khối Quân sự - an ninh, đặc biệt theo dõi chiến sự chiến tranh biên giới Tây Nam đang leo thang ngày càng ác liệt phục vụ sự lãnh đạo của Tỉnh ủy.

     Suốt chặng đường dài 30 năm đánh giặc cứu nước đầy hy sinh gian khổ, đến ngày thắng lợi hoàn toàn 30 tháng 4 năm 1975, quân dân ta lại phải tiếp tục cầm súng chiến đấu bảo vệ biên giới hai đầu của Tổ quốc, tiếp tục hy sinh xương máu hàng vạn chiến sĩ, đồng bào và biết bao làng mạc phố phường bị tàn phá…! Đây là cuộc chiến tranh “kỳ quái” giữa ta với người “đồng chí” Campuchia (Khmer đỏ) và với người “đồng chí” phương Bắc (Trung Quốc).

     Với trách nhiệm của mình, tôi theo dõi chiến sự qua báo cáo của Tỉnh đội và các huyện – thị vùng biên giới, thỉnh thoảng tháp tùng các vị trong Ban Thường vụ tỉnh ủy, hoặc Tỉnh đội thị sát chiến trường tiếp xúc cán bộ chiến sĩ nghe anh em báo cáo: “Khmer đỏ là kẻ cuồng tín, vốn là “bạn”, là “học trò” của ta nên quá hiểu biết thủ đoạn chiến thuật của nhau. Quân ta lại bố trí đồn, chốt cố định bộc lộ lực lượng phòng ngự thụ động, Khmer đỏ cơ động khi ẩn khi hiện… so đánh nhau với quân Sài Gòn khó khăn ác liệt hơn nhiều…! Cán bộ chiến sĩ ta ở các đồn biên phòng, bộ đội địa phương tỉnh, huyện và dân quân tự vệ phải dàn quân chốt chặn ngày đêm trên tuyến biên giới, đối mặt với địch đánh trả hết đợt tấn công nầy đến đợt tấn công khác. Nhiều đồn, chốt bị địch đánh chiếm, ta đánh phản kích chiếm lại năm lần bảy lượt, giành nhau từng bờ tre, ụ đất… Căng thẳng nhất là mùa nước năm 1978 toàn tuyến biên giới nước ngập mênh mông, quân ta phải đấp công sự nổi, ngày đêm sống và chiến đấu dưới tầm hỏa lực địch! Khó khăn gian khổ cùng cực, thương vong quân ta tăng lên từng ngày! Những cán bộ chiến sĩ “gạo cội” bộ đội tỉnh còn sống sau cuộc chiến tranh với Mỹ hy sinh rất nhiều, trong đó có những đồng đội thân quen với tôi như Bé Tám, Tư Mưa, Sơn Bịch…! Dù hy sinh gian khổ đến mấy, cán bộ chiến sĩ các Lực lượng vũ trang An Giang động viên nhau quyết tâm bám trụ chiến đấu đến cùng, nhất định không rời bỏ trận địa vì trước mặt là kẻ thù, phía sau là đồng bào, là quê hương đất nước ta không có chổ lùi…!

     Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam thời gian không dài, nhưng tổn thất về người và của quân dân ta ở An Giang vô cùng to lớn! Có một sự kiện đau thương dù thời gian lùi xa, nhưng bất cứ ai chứng kiến nhớ lại không khỏi bồi hồi xúc động, đó là:

     Khi chiến tranh bùng phát, mặc dù có chủ trương ven tuyến biên giới sơ tán người già, phụ nử, trẻ con, nhưng khi Khmer đỏ đánh vỡ tuyến phòng ngự của ta tràn vào chiếm xã Ba Chúc mười ngày trong tháng 4 năm 1978, phần lớn dân vẫn không sơ tán, Khmer đỏ gây ra vụ thảm sát kinh hoàng, giết chết 3.157 người! Nghe những nạn nhân sống sót kể lại và xem các bức ảnh chụp sau khi quân ta đánh Khmer đỏ rút chạy, xác người chết nằm chồng chất la liệt khắp nơi…! Tội ác giết người man rợ như thời trung cổ của bọn Khmer đỏ “trời không dung đất không tha”!!

     Ngày 7 tháng 1 năm 1979 quân ta đánh chiếm Phnom Penh, 3 ngày sau tôi tháp tùng đoàn cán bộ lãnh đạo Tỉnh ủy, Tỉnh đội An Giang thăm thị xã Tà-keo. Trên đường đi từ thị trấn Tịnh Biên theo Quốc lộ 2 lên thị xã Tàkeo, hai bên đường làng mạc, phố phường hoang vắng, đó đây xác người còn nằm phơi nắng giửa trời, từng tốp xe tăng, xe bọc thép, xe vận tải chở quân của ta chạy trên đường, hay cụm lại nghỉ ngơi dưới bóng râm. Thị xã Tà keo như một thành phố chết, không điện nước, không chợ búa, không bệnh viện, không trường học, nhà cửa phố phường xơ xác…! Người dân từ đâu đó lục tục kéo về đi thất thểu trên đường, quần áo một màu đen rách rưới …! Đây là lần thứ hai tôi cùng đồng đội đặt chân lên Campuchia, không như lần đầu năm 1970 đánh Lon Nol, người dân Campuchia vui mừng chào đón anh bộ đội Việt Nam như người thân. Lần này tôi cãm nhận trong ánh mắt họ vừa vui, vừa e dè điều gì đó…! Tôi cùng đoàn đi xem nơi ở của Tà Mốc - tên đồ tể Khmer đỏ và xem toà nhà của cố vấn Trung Quốc giửa hồ nước như nhà thuỷ tạ.

     Theo sự phân công của Trung ương, An Giang chịu trách nhiệm tỉnh Tà keo, tổ chức đoàn chuyên gia chánh trị và đoàn chuyên gia quân sự mang phiên hiệu Đoàn 9905, cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh tiếp tục truy quét tàn quân Khmer đỏ và giúp bạn xây dựng lực lượng, phát triển kinh tế - xã hội…từ con số không kéo dài suốt 10 năm, tổn thất về người và của không đo đếm được!

     Năm 2014 tôi xem phim truyền hình do Đài HTV9 thành phố Hồ Chí Minh chiếu bộ phim có tên“Biên giới Tây Nam – cuộc chiến bắt buộc”. Đạo diển Lê Phong Lan – đạo diển bộ phim, mong muốn cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam được “giải mật”, nhưng qua những gì tôi biết, tuy chỉ trong phạm vi địa phương một tỉnh cũng đủ nói lên tất cả, không có gì bí mật.

     Gọi đây là “cuộc chiến bắt buộc” là chính xác, vì Khmer đỏ vô cớ xăm phạm biên giới Tây Nam nước ta, buộc ta đánh trả tự vệ và tổng phản công đánh chiếm Phom - Phenh, để loại trừ hiểm hoạ Khmer đỏ. Sau đó, giúp những người Khmer trong nhóm Hunsen, Heng Samrin…ly khai Khmer đỏ. Họ với hai bàn tay trắng, ta hết lòng hết sức giúp họ từng bước phát triển trưởng thành, xây dựng đất nước Campuchia như ngày nay. Điều quan trọng là giúp họ nhằm xây dựng một thể chế chánh trị thân thiện với ta, để bảo đãm sự bình yên lâu dài vùng biên cương này của Tổ quốc.

     Nói “cuộc chiến bắt buộc” là đúng, dù Khmer đỏ thực hiện chánh sách diệt chủng với người dân của chúng, nhưng nếu không động đến biên giới lãnh thổ nước ta, liệu ta có đưa quân đánh chúng phải chịu “sa lầy” hao người tốn của trong 10 năm, còn mang tiếng “xăm lược” không? Theo tôi là không! Nên nhớ, thời điểm ấy tình cảnh nước ta rất khó khăn, giải quyết những vấn đề trong nước và ngoài nước của ta đã hết hơi hết sức, còn đâu lo chuyện “ăn cơm nhà vát tù và hàng tổng!”. Làm gì có chuyện tự dưng đưa “bộ đội tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế cao cả trên nước bạn”, “cứu nhân dân Campuchia thoát hoạ diệt chủng Khmer đỏ…”

     Bài phát biểu Chủ tịch Quốc hội Campuchia Heng Samrin tại lể kỷ niệm 35 năm ngày chiến thắng chế độ diệt chủng Khmer đỏ tại Hà Nội ngày 5/1/2014 ông nói: “Chỉ có đất nước Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã tự nguyện đưa con cháu và những người thân yêu của mình đến giúp giải phóng và cứu tính mạng của người dân Campuchia trong lúc vô vàn nguy nan…”. Đại diện cho người dân Campuchia ông nói như vậy là đúng. Nếu ta không tiêu diệt Khmer đỏ thì làm gì có đất nước Campuchia ngày nay.

     Đạo diển Lê Phong Lan hỏi: “Đằng sau cuộc chiến nầy là ai?” .

     Như tôi viết ở trên, năm 1970 bất đắc dĩ ta đưa quân lên Campuchia đánh Lon Nol vì sự sống còn của ta và giúp Khmer đỏ dần dần xây dựng phát triển thực lực “đủ lông đủ cánh”, thì cũng dần dần Khmer đỏ bộc lộ dã tâm chống Việt Nam, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1977 ồ ạt đưa quân tấn công toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Và, kẻ đứng đằng sau Khmer đỏ chính là Trung Quốc, không có Trung Quốc Khmer đỏ không dám liều lĩnh và không đủ sức gây chiến tranh biên giới chống ta với qui mô chừng ấy, nhưng Trung Quốc nhúng “bàn tay lông lá” vào nắm Khmer đỏ từ lúc nào và vì sao Trung Quốc xúi giục Khmer đỏ chống ta và sau đó xua quân gây chiến tranh biên giới phía Bắc. Cho đến sau khi kết thúc hai cuộc chiến tranh nầy một thời gian, Trung Quốc còn tiếp tục “bảo trợ” Khmer đỏ, đấu tranh giử ghế chúng ở Liên hiệp quốc, làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận “Việt Nam xâm lược Campuchia”. Tôi nghĩ, cộng đồng quốc tế còn nợ Việt Nam “một lời xin lỗi!”

     Tôi đồng ý ý kiến đạo diễn Lê Phong Lan: “…Lịch sử là cái đã qua, nhưng chúng ta có thể học hỏi nhiều từ lịch sử cho hôm nay và mai sau…”. Và, đã là lịch sử thì phải khách quan chân thật, che dấu hay “vo tròn, bóp méo” sự thật lịch sử có tội với con cháu mai sau.

 *

Chương VI

TRÊN ĐỒI Ô TÀ SÓC


     S
au trận càn Cửu Long 1, các cơ quan tỉnh di chuyển trú đóng nhiều nơi trên đất Campuchia. Gần cuối năm 1970 về trú đóng tận vùng núi Tượng Lăn (tên chúng tôi gọi) tỉnh Kampot, cách biên giới đi bộ mất hai ngày. Đây là “bản doanh” lãnh đạo, chỉ huy cơ bản của Tỉnh ủy, Tỉnh đội An Giang.

     Để tiếp tục giử vững và phát triển phong trào cách mạng nội địa, Tỉnh ủy chủ trương tuyển chọn các cơ quan dân – đảng tổ chức từng nhóm nhỏ trở về bám trụ bí mật hoạt động. Riêng cánh quân sự, Tỉnh đội tổ chức Ban chỉ huy Tiền phương do anh Trần Thế Lộc thường gọi Bảy Phong - Tỉnh đội phó phụ trách về Bảy Núi lãnh đạo chỉ huy các đơn vị bộ đội tỉnh có mặt như Đại đội 381 đặc công, Đại đội 385 trợ chiến và Tiểu đoàn A12 Quân khu biệt phái. Khi ấy tôi được điều về công tác Ban Chánh trị Tỉnh đội làm Trợ lý tuyên huấn, với cấp đại đội chánh trị bậc trưởng (trung úy) được cử đi cùng Ban chỉ huy Tiền phương. Chúng tôi hành quân tới núi Som – Campuchia, phải mất hơn 1 tháng mới qua được kinh Vĩnh Tế. Lúc đầu trú đóng vách núi Dài Ba Chúc, sau cùng về bám trụ đồi Ô Tà Sóc xã Lương Phi.

     Về đến đồi Ô Tà Sóc tôi rất ngỡ ngàng xúc động! Nhìn quang cảnh ngọn đồi tôi cảm nhận sự ác liệt của chiến tranh diễn ra ở đây! Tôi nhớ, năm 1963 tôi học trường Trần Phú của tỉnh đóng tại ngọn đồi này cùng các cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội. Hồi ấy, ngọn đồi này là rừng núi hoang sơ, nhiều cây cổ thụ gốc hai ba người ôm, tàn cây liền nhau che ánh nắng mặt trời không xuyên tới đất, không khí ẩm ướt lạnh lẽo! Trên mặt đất đủ thứ cây tạp, dây leo; nhất là dây mây rừng gai nhọn sắc chằng chịt và lò ảng tầng tầng lớp lớp. Với môi trường sống như vậy, nên ở đây có nhiều loại muông thú hoang dã… Vậy mà chỉ vài năm khi cường độ chiến tranh ở đây lên đến đỉnh cao, bom đạn địch tàn phá sạch ngọn đồi!

     Các bộ phận Ban chỉ huy tiền phương Tỉnh đội trú đóng trong dãy lò ảng liền nhau, đi lại ăn ngủ làm việc… tất cả trong lò ảng. Chung quanh chổ trú đóng chúng tôi có các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 chủ lực Miền trú đóng. Các điểm cao trước mặt và sau lưng khu vực trú đóng của quân ta địch đóng chốt, ngày đêm khống chế ta trong tầm hỏa lực, không lúc nào dứt tiếng súng từ các điểm cao bắn xuống; Nhất là khi phát hiện thấp thoáng bóng người, hay khói lửa chúng bắn như đổ đạn về phía ấy và gọi phi pháo oanh kích.

     Người lính chúng tôi đã quen chịu đựng khó khăn gian khổ và sẳn sàng chấp nhận hy sinh, nên sống trong hoàn cảnh nào chúng tôi cũng thích nghi. Trừ những lúc địch đánh phá căng thẳng, bình thường chúng tôi tổ chức cuộc sống vẫn đàng hoàng, mặc cho bom rơi đạn nổ trên đầu vẫn có cơm nóng ngày hai bữa tuy chỉ với canh rau rừng, khô cá, măng kho… Những lúc bom đạn tạm lắng, anh em chúng tôi trút bỏ quần áo, dùng lá chuối khô quấn khắp người ngụy trang bò ra khỏi lò ảng xuống dưới lòng suối Ô Tà Sóc bắt cá chạch cải thiện bữa ăn, có khi được hai ba ngày. Nói chuyện này tôi bùi ngùi nhớ em Cương cận vệ anh Năm Sương là một chiến sĩ dũng cảm trung thực, khôn ngoan. Lần đầu theo anh Năm Sương về đây công tác, Cương phát hiện dưới lòng ô có nhiều cá chạch và nghỉ ra cách ngụy trang đi bắt cá kiểu ấy để tránh địch trên điểm cao phát hiện. Sau đó không lâu, Cương  cùng một số anh em trong lần đột nhập núi Tượng Ba Chúc mua gạo bị địch phục kích, một số đồng chí hy sinh trong đó có Cương!

     Tôi không hiểu vì sao nhiều tháng qua quân ta không bung ra đánh địch trận nào, mặc cho chúng làm mưa làm gió. Không ngày nào địch không dội bom pháo xuống đồi Ô Tà Sóc năm lần bảy lượt! Bom tấn, pháo bầy, pháo đài bay B.52, hõa tiến không đối đất có sức công phá lớn không làm chúng tôi nao lòng! Chỉ có hai loại vũ khí nguy hiểm chúng tôi luôn dè chừng: Một là bom xăng do trực thăng cần cẩu chúng tôi gọi “sâu rọm” treo tòn teng dưới bụng bọc trong tấm lưới hàng chục phuy xăng, khi bay đến mục tiêu thả một đầu lưới phuy xăng rơi xuống đá bể, một chiếc trực thăng “cá lẹp” bay sau phóng pháo lửa cháy bùng lên, xăng chảy đến đâu lửa cháy đến đó, một khu vực cả trăm mét vuông chìm trong lửa đỏ. Hể nghe tiếng trực thăng cần cẩu bay đến chúng tôi rút vội xuống hang sâu, dù địch đánh trúng lửa cũng không cháy tới, không một ai chết vì bom xăng. Thứ mà chúng tôi ngán nhất là vài phi vụ như vậy, có một phi vụ mang một loại hóa chất gì đó, khi “cá lẹp” phóng pháo gây cháy nổ tạo sức ép không khí rất mạnh, nếu bị địch đánh trúng, càng xuống hang sâu sức ép càng mạnh dể làm chết người. Người chết quần áo bị xé tơi tả, mắt lưỡi lòi ra ngoài, nếu cách xa một hai trăm mét bị tức ngực khó thở… Trong một phi vụ đánh kiểu ấy, chẳng may trúng nơi trú đóng Quân y trung đoàn thuộc Sư đoàn 1, trong chốc lát hàng chục thương binh và y bác sĩ hy sinh!

     Loại vũ khí thứ hai là chất độc C.S, còn gọi bom cay C.S. Loại này trước đây trong đầu đạn pháo cối khi bắn nổ gây cay mắt, nay để trong thùng như thùng nhựa đường trên máy bay ném xuống đá bể, chất độc bằng bột màu trắng ngà bám trên mặt đá gây cay mắt, nôn mữa không chịu nổi phải rời bỏ nơi trú đóng đó.

      Một loại vũ khí nguy hiểm khác là loại hỏa tiễn không đối đất có sức công phá lớn có thể làm bể tảng đá đường kín cả chục mét, nhưng hiếm thấy địch sử dụng. Có lần, tổ tiền tiêu Sư đoàn 1 phòng ngự trong hang đá nhỏ cảnh giới hướng chùa Tà Miệt địch có thể tấn công lên đồi, chúng tôi gọi “đồi Ma Thiên Lãnh” bị loại hõa tiển ấy phóng trúng lấp cửa hang nhốt các chiến sĩ trong hang, dù hết sức cố gắng cũng không mở được cửa hang cứu anh em! Bên ngoài nghe anh em gọi mà thắt ruột, đau lòng: “Các đồng chí ơi… ráng cứu chúng tôi…!”. Cuối cùng đành dùng ống tre đổ cơm nước vào hang cho anh em ăn uống cầm hơi! Tiếng kêu cứu nghe càng yếu và thưa dần, đến khi không còn nghe gì nữa, biết rằng anh em đã hy sinh! Mãi sau này mới phá đá mở cửa hang đưa hài cốt các liệt sĩ về nghĩa trang an nghỉ. Trong chiến tranh con người có nhiều kiểu chết vì bom đạn, nếu có phải chết ngay người sống chứng kiến dù có đau lòng còn dể chịu hơn là chứng kiến kiểu chết dần mòn như vậy!

     Từ đồi Ô Tà Sóc đi ra ngoài khi ấy có con đường độc đạo hướng về chùa Tà Miệt, xóm Thúng xã Lương Phi chạy dài đến voi Đá Miểu, voi Đá Bia, Ô Cạn, chùa Ông Chín xã Ba Chúc là vùng căn cứ của ta. Đó là con đường mòn nhỏ quanh co trong vườn cây kín đáo, đồng bào bị địch “xúc tác”  ra “ấp chiến lược” từ lâu. Ở đây ngày đêm chỉ có quân ta và quân mình. Ra ngoài vườn cây là đồng ruộng tróng trải, đến kinh Vĩnh Tế là vùng địch tạm chiếm. Ngày nào địch không càn quét đồng bào mới dám vào đất ruộng mình cày cấy, quân ta có thể đi lẻ tẻ vài ba người ra đồng gặp gở đồng bào khi cần.

     Địch phán đoán khá chính xác hướng đi lại hàng ngày của quân ta từ Ô Tà Sóc thường xuyên bắn pháo ngăn chặn, khoảng sáu bảy giờ tối hay gần giữa khuya chúng nện vài chục quả pháo vùng “cửa ngõ” từ đồi xuống đất bằng. Khi đi ra ngoài công tác hay về chúng tôi thường tránh giờ địch bắn pháo.

      Từ những tháng đầu năm 1971, khi tôi cùng Ban chỉ huy tiền phương Tỉnh đội về Bảy Núi, cục diện chiến trường nơi đây diển ra ngày càng bất lợi cho ta, địch tập trung quân vây đánh quyết liệt. Ta thường xuyên đối mặt với địch trên vùng căn cứ nhỏ hẹp này từ 1 đến 2 sư đoàn bộ binh, 2 đến 3 liên đoàn biệt động quân, 1 đến 2 thiết đoàn xe M.113, một số tiểu đoàn quân địa phương, cùng lực lượng pháo binh, không quân và các phương tiện kỷ thuật chiến tranh khác được huy động tối đa. Địch liên tục mở các cuộc hành quân hợp đồng binh – quân chủng càn quét với qui mô cấp sư đoàn, trọng điểm đánh phá vẫn là đồi Ô Tà Sóc và Đồi Tức Dụp, có khi mở diện đánh phá cả vùng núi Dài, núi Tô. Bộ đội ta co vào phòng ngự giử đất bảo tồn lực lượng là chính.

     Trong sổ tay công tác của tôi năm 1971 hiếm hoi còn lưu giử có ghi diễn biến một số trận đánh ta và địch tháng 2 năm 1971 trên đồi Ô Tà Sóc như sau:

     “…

     “Ngày thứ nhất 22/2, mở màn trận phản kích địch đánh một đợt bom phá, hai đợt bom xăng khoảng hai mươi lăm lượt chiếc trực thăng cần cẩu, một đợt bắn pháo kéo dài suốt hai giờ liền trên một ngàn quả và tiếp theo các cở hỏa lực khác của địch trên các điểm cao chung quanh bắn liên tục suốt ngày vào khu vực trú đóng của quân ta.

     “Ngày thứ hai 23/2, từ mờ sáng hàng loạt súng DKZ 75 từ các điểm cao địch bắn xuống dồn dập vào trận địa quân ta, sau đó bộ binh địch tổ chức đánh xuống, đụng các chốt tiền tiêu của ta đánh chặn, địch chết và bị thương hơn hai mươi tên, chúng co lại dùng pháo, cối bắn dai dẳng đến chiều tối.

     “Ngày thứ ba 24/2, địch ở các điểm cao gọi pháo tầm xa và xử dụng các loại hỏa lực tại chổ tiếp tục bắn phá vào trận địa ta từ sáng tới chiều. Bộ binh địch một lần đánh nống xuống một đoạn, chưa đến chốt tiền tiêu của ta chúng sợ không dám đánh xuống, quay trở lại.

     “Ngày thứ tư 25/2, từ 5 giờ 30 sáng địch bắn một loạt pháo cấp tập hàng trăm quả vào trận địa ta, bộ binh mở một mũi đánh nống xuống, vướng bãi lựu đạn gài của ta nổ thương vong một số tên phải quay lại, gọi pháo và dùng các cở hỏa lực bộ binh tại chổ bắn day dẳng đến chiều.

     “Ngày thứ năm 26/2, địch đánh chủ yếu bằng phi pháo và hỏa lực bộ binh vào trận địa ta.

    “Trận càn quét phản kích của địch còn tiếp tục day dẳng những ngày sau đó. Ta an toàn, diệt địch chết 7 tên, bị thương 25 tên, ta phá hư 1 khẩu DKZ 75 ly.

     “…

     Những trận đánh như vậy diển ra liên miên trên đồi Ô Tà Sóc, địch không làm gì được ta và ta cũng không gây tổn thất đáng kể nào cho địch. Đối mặt đánh nhau bằng bộ binh chẳng ăn thua nhưng địch vẫn cứ đánh, kết hợp bộ binh với hỏa lực phi pháo và phục kích bao vây ngăn chặn sự di chuyển của quân ta, nhất là ngăn chặn con đường tiếp tế lương thực trong nhân dân ở các “ấp chiến lược” quanh vùng. Địch kết hợp chiến tranh tâm lý, vùng trời Bảy Núi ngày đêm máy bay quần đảo rãi truyền đơn, phát loa “chiêu hồi”. Truyền đơn địch rãi chổ nào cũng thấy truyền đơn, lớp trước mục lớp sau chồng lên. Đáng ghét nhất là bọn chiến tranh tâm lý phát loa “chiêu hồi”, máy bay quần đảo khi xa khi gần, nghe tiếng động cơ hòa tiếng loa vọng lại khi nhỏ khi lớn lập đi lập lại câu “hoặc chiêu hồi, hoặc tử thần” gây người nghe cảm giác nhàm chán buồn ngủ…! Thỉnh thoảng có tên phản bội đâu đó ra đầu hàng là dịp may địch phát loa tuyên truyền “chiêu hồi”.

     Địch đánh phá ác liệt day dẳng ngày này sang ngày khác, tạo thế áp đảo quân ta trên chiến trường, tuy không diệt được sinh lực quân ta, nhưng dần dần quân ta bị tiêu hao không ít. Tổn thất không đáng có của quân ta hồi ấy là đi mua gạo lọt ổ phục kích địch diển ra khá thường xuyên và chết vì sốt rét, bệnh tật do thiếu thuốc chữa v.v… Gần như ngày nào tôi cũng nghe thấy quân ta hy sinh. Sau này, tôi nghe một cựu chiến binh cấp trung đoàn của Sư đoàn 1 cho biết, thời gian Sư đoàn ở chiến trường Bảy Núi thương vong khoảng hai ngàn cán bộ chiến sĩ!

     Những tháng ngày cam go, ác liệt ấy giữa cái chết và sự sống kề nhau trong gang tất, có một số ít cán bộ chiến sĩ người địa phương mất tinh thần đầu hàng địch, anh em các đơn vị trong Ban chỉ huy tiền phương Tỉnh đội động viên nhau giữ vững quyết tâm vượt qua khó khăn thử thách hoàn thành nhiệm vụ. Chúng tôi theo dõi chiến sự trên chiến trường miền Nam qua Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh Giải phóng, rất phấn khởi nghe tin quân ta đánh thắng lớn ở Đường 9 Nam Lào tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bắt sống tên đại tá Thọ. Chiến thắng vang dội đó tiếp thêm sức mạnh chúng tôi, càng khẳng định niềm tin thắng lợi vượt qua mọi hy sinh gian khổ đứng vững trên vị trí chiến đấu và công tác của mình suốt thời gian bám trụ chiến trường Bảy Núi.

     Giữa năm 1971 bộ đội chủ lực lần lượt rút khỏi chiến trường Bảy Núi, nhiệm vụ bảo vệ vùng căn cứ Bảy Núi do các lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh An Giang đảm nhận như Đại đội 385 trợ chiến đồng chí Trần Nhất Quyết (Quyết) đại đội trưởng, đồng chí Lê Thành Khởi (Hai Khởi) làm chánh trị viên (về sau đồng chí làm chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh); Đại đội 381 đặc công đồng chí Sáu Niên đại đội trưởng chịu trách nhiệm đồi Tác Dụp, cùng Tiểu đoàn A11 Quân khu biệt phái đứng chân địa bàn hai xã Lương Phi, Ba Chúc cơ động ứng chiến khi cần, cùng với bộ đội địa phương và dân quân du kích hai huyện Tịnh Biên, Tri Tôn. Không còn bộ đội chủ lực, nhưng cường độ đánh phá của địch không giảm.

     Vắng bộ đội chủ lực, ban đầu chúng tôi cảm thấy “lạnh lưng”, dần dần chúng tôi tổ chức cuộc sống và chiến đấu theo phương thức thích hợp để tồn tại bảo vệ căn cứ Bảy Núi. Đồi Ô Tà Sóc lúc này Ban chỉ huy tiền phương Tỉnh đội do anh Ba Liêm Tỉnh đội phó phụ trách, đội Phẩu thuật quân y tỉnh do anh Bảy Mãnh quân y sĩ phụ trách và Đại đội 385 trợ chiến bố trí trên điểm cao đối mặt địch cách nhau trong tầm lựu đạn, làm “lá chắn” bảo vệ khu vực Ban chỉ huy tiền phương Tỉnh đội và đội Phẩu thuật quân y trú đóng. Địch trên điểm cao suốt ngày đêm dội các loại hỏa lực xuống chốt quân ta và khu vực sườn đồi phía dưới quân ta trú đóng. Tiếng súng cối, súng M.79, lẫn tiếng lựu đạn và từng trang đại liên, tiểu liên không giờ phút nào dứt, từng lúc kết hợp mở các cuộc càn quét phản kích có phi pháo yễm trợ đánh phá quyết liệt. Các chiến sĩ ta trên chốt sống và chiến đấu vô cùng căng thẳng mõi mệt ngày đêm!

     Trong một trận đánh phản kích, Đại đội 385 dũng cảm chiến đấu suốt ngày đẩy lùi các đợt tấn công của địch gây cho chúng một số thương vong, đơn vị có vài chiến sĩ bị thương, trong đó có hai bị thương nặng cần chuyển gắp về đội Phẩu thuật quân y, trong khi đơn vị không đủ người chuyển chiến thương. Ban chỉ huy đại đội điện anh Ba Liêm báo cáo tình hình và xin chi viện người giúp đơn vị chuyển một chiến thương. Anh Ba Liêm cử hai chiến sĩ cảnh vệ khiên chiến thương và phân công tôi phụ trách. Tôi và hai cảnh vệ soi đèn pin lần theo đường dây điện thoại luồng dưới lò ảng đi ngược lên chốt. Khi bước vào hang đá để chiến thương, hai chiến sĩ bị thương nặng nằm đó, dưới ánh đèn pin lờ mờ tôi thấy đồng chí bị thương vùng bụng nằm bất động thỉnh thoảng rên khe khẻ, đồng chí bị thương sọ não đang trong trạng thái mê sảng vẫy vùng la hét, anh em phải kềm giử bịt mồm không để phát ra tiếng kêu la lớn địch phát hiện. Đồng chí Quyết đại đội trưởng và đồng chí Hai Khởi chánh trị viên đại đội có mặt, cùng tôi hội ý chớp nhoáng kế hoạch chuyển chiến thương. Y tá đại đội chích thuốc an thần đồng chí bị thương sọ não mới đưa đi được và khi đưa hai chiến thương lên võng, khó khăn lắm mới đưa được ra khỏi cửa hang chật hẹp. Đồng chí Quyết dẫn cán thương sọ não đi ra trước, tôi giúp hai cảnh vệ đưa cán thương còn lại đi sau. Ra khỏi cửa hang trời tối đen như mực không thấy cán thương của đồng chí Quyết, tôi nhắm hướng dẫn cán thương đi xuống đồi, nơi có con đường mòn dẫn đến Đội phẩu. Trong khi đó trên điểm cao sau lưng chúng tôi địch vẫn bắn xuống không dứt, tiếng súng cối, súng M.79 nổ chát chúa chung quanh khi gần khi xa, ánh lữa chớp nhoáng liên tục. Bổng một trái cối 81 ly nổ rất gần trước mặt chúng tôi, tôi nhìn ra sau hỏi anh em có sao không và động viên anh em cố gắng đi nhanh, đi vài bước tôi sụp xuống bậc đá giẫm lên vật gì đó mềm nhũng, nóng nóng dưới bàn chân, mùi máu tươi hắt lên mũi, tôi chưa biết mình giẫm lên vật gì, đi một đoạn tôi nghĩ có lẽ quả đạn cối nổ gây cho đồng chí nào đó trong cán thương đi trước thương vong! Đang đi, võng khiêng chiến thương rách toạc ra, tôi cho anh em cõng chiến thương tìm hóc đá gần đó ẩn núp, cho một đồng chí về điểm trú đóng lấy võng khác thay, tiếp tục đưa chiến thương về đến đội Phẩu tôi mới biết đồng chí Quyết hy sinh, một mình ôm trọn quả đạn cối 81 ly! Đồng chí Quyết hy sinh đến nay hơn 50 năm tôi vẫn nhớ mãi cái đêm định mệnh đó của đồng chí, còn hằn sâu trong ký ức tôi với niềm thương tiếc khôn nguôi!

     Từ trận đó, Ban chỉ huy tiền phương chỉ đạo không đưa đơn vị tác chiến đối mặt với địch. Các cơ quan, đơn vị phân tán tránh né địch để bảo toàn lực lượng. Tôi nhớ có lần, mà cũng là lần cuối tôi có mặt chiến trường Bảy Núi, lúc bấy giờ anh Tám Khá tỉnh đội phó thay anh Ba Liêm phụ trách Ban chỉ huy tiền phương vẫn trú đóng đồi Ô Tà Sóc, được tin địch tâp trung lực lượng lớn đánh vào đồi, anh Tám Khá lệnh các đơn vị rút về Ô Cạn Ba Chúc. Khoảng 7 giờ tối các đơn vị tập họp, tất cả chừng năm sáu mươi người nghe anh Tám Khá thông báo tình hình và phổ biến kế hoạch hành quân. Anh căn dặn anh em phải giử đúng cự ly, bám chặt nhau không để đi lạc và tuyệt đối giử im lặng. Được biết địch đã chiếm lĩnh con đường mòn từ đồi xuống Lương Phi đoạn Ô Tà Miệt nên phải đi vòng ngoài đồng, đến gần Voi Đá Bia mới áp vào vườn cây về Ô Cạn Ba Chúc.

     Các đơn vị bắt đầu hành quân, có hơn mười tay súng đi đầu khóa đuôi bảo vệ, từ đồi Ô Tà Sóc cắt ra đồng đi ngược lên hướng Ô Cạn Ba Chúc cách ven cây chừng vài trăm mét, khi đi ngang Ô Tà Miệt nghe tiếng mìn clay-mo nổ trong ven cây, tiếp theo là hàng tràng tiếng súng nhỏ nổ rộ và tiếng lính la hét, không biết chuyện gì xãy ra, tất cả được ám hiệu chỉ huy ngồi xuống, phát hiện phía giữa đồng có nhiều xe M.113 bố trí từng cụm. Các đơn vị im lặng, dò dẫm đi gần nửa đêm về đến Ô Cạn Ba Chúc. Được biết, khi xuất phát khỏi địa điểm tập kết trên đồi Ô Tà Sóc, đội Phẩu thuật bỏ quên bộ dụng cụ tiểu phẩu cử hai y tá trở lại lấy đi tụt phía sau, anh em ngỡ đi đường mòn cũ, khi đến Ô Tà Miệt lọt ổ phục kích địch, cả hai hy sinh!

     Đây là những năm tháng khó khăn nhất trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân dân Bảy Núi. Cán bộ chiến sĩ ta hàng ngày, hàng giờ đương đầu với mọi hiểm nguy gian khó giữa sự sống và cái chết kề nhau trong gang tấc. Tôi thấy có lý khi nghe đồng chí lãnh đạo tỉnh từng có mặt chiến trương Bảy Núi khi ấy nói rằng: “Cán bộ, đảng viên nào chỉ cần có mặt ở Bảy Núi vài ba tháng trong những năm 1969 – 1971 cũng đủ xứng đáng được tặng huân chương…”.

     Khi tôi cùng Ban chỉ huy Tiền phương Tỉnh đội về Bảy Núi, sau đó vợ tôi cũng về công tác Trạm xá Quân y tỉnh đóng trong vùng núi An Chao đất Campuchia, gọi là Trạm đầu cầu để chữa trị thương binh từ Bảy Núi đưa sang. Hai vợ chồng tôi ở hai dãy núi hai bên đường biên giới cách nhau trong tầm mắt mà cảm thấy như xa vời vợi!     Những ngày tháng địch đánh phá ác liệt, khó khăn gian khổ cùng cực tôi càng thương nhớ người thân, nghĩ rằng mình có thể chết bất cứ lúc nào! Tôi soạn đốt những bức thư vợ tôi gởi và quyển nhựt ký ghi chép công việc chung và những chuyện riêng tư trong quan hệ tình cảm vợ chồng, không muốn khi mình chết người khác dù là kẻ thù hay đồng chí của mình biết!

     Trong Ban chỉ huy Tiền phương chỉ có tôi phụ trách công tác chánh trị, thường đi công tác một mình đến các cơ quan, đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện đóng rải rác núi Dài Lương Phi, Ba Chúc. Khi bộ đội chủ lực còn ở Bảy Núi đi đâu cũng gặp bộ đội, bộ đội chủ lực rút đi vùng căn cứ Bảy Núi tróng vắng hẳn! Có lần, tôi đi từ Ô Tà Sóc tới gần voi Đá Bia, bị hai chiếc trực thăng hướng Ba Chúc bay rất thấp bắn đại liên, phóng rốc kết vào ven cây dài xuống Lương Phi, tôi núp vào gốc cây tránh đạn. Về tới Ô Cạn tôi nhận thư Bảy Nhị,  trong thư Bảy Nhị nói về cảnh sống nghèo khó của ba má ở quê nhà, thăm hỏi sức khỏe và cuộc sống của tôi ở chiến trường, mong tôi mạnh khỏe bình an trở về. Đọc thư Bảy Nhị tôi không cầm được nước mắt!

     Một lần khác, tôi đi từ Ô Tà Sóc xuống Ô Cạn làm việc với Huyện đội Tịnh Biên vẫn “một mình một ngựa”. Ra khỏi lò ảng lúc 4 – 5 giờ chiều, thay vì đi theo con đường mòn quen thuộc xuống Bụng Ông Địa, Ô Tà Miệt… Tôi đi lạc xuống lòng ô đầy gay góc, sỏi đá lởm chởm, cây rừng chằn chịt…tôi phải càn lướt, luồn lách rất chật vật cho đến mặt trời lặn lúc nào không hay, trời tối dần… tôi ra khỏi ven rừng lúc 8 - 9 giờ tối nhắm hướng đi về Ô Cạn, một mình đi giữa đêm tối trên cánh đồng mênh mông. Mấy hôm làm việc với Huyện đội Tịnh Biên tôi đến thăm em gái Nguyễn Thị Gương thường gọi Tám Sương vừa sanh con đầu hơn nửa tháng. Em công tác Công trường huyện có chồng là Huỳnh Văn Kết – Huyện đội phó Tịnh Biên. Tôi đến thăm em Gương, thấy hai mẹ con em ở trong hang đá nhỏ dưới chân núi Dài nơi Công trường huyện trú đóng. Gặp tôi, chưa nói gì em đã khóc! Đã khá lâu tôi mới gặp lại em mình trong hoàn cảnh này. Thương em quá!

     Hôm Kết đưa vợ con sang Trạm đầu cầu để về căn cứ Tượng Lăn nghỉ dưỡng, tôi đến Trạm giao liên huyện tiển đưa. Kết điệu con trong tấm chăn quàng trước ngực, sau lưng mang ba lô, bên vai mang bọc hành lý, em Gương đi sau lưng chồng. Đêm ấy, tôi hồi hộp lắng nghe hướng kinh Vĩnh Tế, đến khuya không nghe tiếng súng tôi rất mừng! Em tôi qua kinh Vĩnh Tế an toàn.

     Cuối tháng 4 năm 1971 tôi nghỉ phép mấy hôm sang Trạm Quân y An Chao thăm vợ, Khi ấy cường độ đánh phá của địch ở Bảy Núi giảm dần. Mấy ngày vợ chồng gặp nhau, vợ tôi ngày nào cũng đãi tôi những bữa cơm thịnh soạn với thịt heo, thịt gà để bù những tháng ngày ăn uống kham khổ ở chiến trường! Vợ chồng tôi khi ấy cũng như những cặp vợ chồng trẻ khác, thời chiến ít có điều kiện chung sống bên nhau phải chấp nhận làm “Ngưu lang Chức nữ”! Những năm tháng xa nhau là những năm tháng dằn vặt nhớ thương mong đợi!

 

Chương VII

BAN CHÁNH TRỊ TỈNH ĐỘI

     Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Pari về Việt Nam được ký kết. Trên chiến trường An Giang chiến sự vẫn tiếp diển, cơ quan Ban Chánh trị Tỉnh đội, cũng như các cơ quan khác của tỉnh làm việc khẩn trương sôi động ngày đêm ở hậu cứ, cũng như ở chiến trường phục vụ bộ đội chiến đấu và sự lãnh đạo chỉ huy của Tỉnh ủy, Tỉnh đội.

     Tháng 3 năm 1973 tôi được cử đi học khóa bồi dưởng cán bộ chánh trị viên tiểu đoàn Trường Quân chính Quân khu 8. Cùng đi có các đồng chí Út Lê tức Bùi Văn Huấn – sau này là Thượng tướng Phó chủ nhiệm Tổng cục Chánh trị đã nghỉ hưu, Tư Hờn nhà tỉnh Long An nghỉ hưu chết bệnh năm 2020, Bảy Sừu hy sinh chiến trường Campuchia. Dịp này, tôi tìm thăm vợ tôi đang học Trường Quân y sĩ Quân khu.

     Đặt chân đến trường đóng trên đất Campuchia cách biên giới tỉnh Long An khá xa, tôi được biết Trường Quân y sĩ ở gần đây. Ngày hôm sau nhờ người dẫn đường tôi đi thăm vợ và anh em ở An Giang cùng đi học. Sau hai năm xa cách với bao nỗi nhớ thương mong đợi, vợ chồng tôi gặp nhau vui mừng khôn xiết!

     Trường tôi học trú đóng trong phum sóc, Trường Quân y sĩ trú đóng trong rừng le cách nhau hơn một cây số. Khi ấy trên đất Campuchia ban đêm máy bay B52 ném bom rãi thảm liên miên, tiếng bom như sấm rền khi xa khi gần. Đêm nọ, đang ngủ giật mình nghe tiếng bom B52 nổ từng tràng rất gần hướng Trường Quân y sĩ, mặt đất dưới chân tôi rung chuyển theo từng loạt bom. Tôi bồn chồn lo lắng không biết Trường Quân y sĩ có trúng bom không? Sáng sớm tôi sang trường, rất mừng là trận bom cách trường chỉ hơn một trăm mét, phá nát một vạt rừng le.

     Cuối tháng 7 năm 1973 Trường Quân y sĩ bế giảng, cùng lúc Trường Quân chính kết thúc khóa học. Một lần nữa may mắn đến vợ chồng tôi được về tỉnh nhà cùng một chuyến. Đường dây giao bưu từ Quân khu về An Giang nằm trên đất Campuchia gần biên giới, nghe nói có đôi lần bị lính biệt kích Sài Gòn đổ trực thăng đánh úp, hay vướng bom B52 rãi thảm. Chúng tôi đi hơn 10 ngày về đến nơi an toàn!

     Về tỉnh nhà, vợ tôi được phân công công tác ở Bệnh xá Quân y tỉnh, tôi tiếp tục nhiệm vụ cũ. Tháng 9 năm 1973 tôi được bổ nhiệm làm Phó chủ nhiệm Ban Chánh trị Tỉnh đội và được Quân khu thăng cấp tiểu đoàn chánh trị bậc phó, tức thượng úy.

     Tháng 2 năm 1974, Ban Chánh trị Tỉnh đội đóng chòm vừng – Mương Lỡ, ven bờ tây sông Hậu cách biên giới vài cây số. Đồng chí Bảy Sửu cán bộ cơ quan đi công tác bị Khmer đỏ bắt. Vừa nghe tin, tôi báo cáo đề xuất thủ trưởng Tỉnh đội cử một phân đội Trinh sát quân báo yểm trợ tôi và một số đồng chí trong cơ quan đi tìm. Đồng chí Sáu Sên – Chánh trị viên Tỉnh đội, tức Nguyễn Văn Hơn (Sáu Hơn) sau này làm Bí thư Tỉnh ủy chỉ thị tôi cố tránh chạm súng với “bạn”. Chúng tôi qua bờ Đông sông Hậu dàn đội hình chiến đấu, lục soát xóm nhà dân Campuchia bỏ hoang và vườn cây phía sau, phát hiện bọn Khmer đỏ thấp thoáng di chuyển lên hướng Cỏ Tiêu. Chúng tôi thận trọng bám theo chúng khá xa đến khi không thấy dấu vết, chúng tôi quay về lúc trời sắp tối. Tôi bàn anh em đưa tôi gặp Ban liên lạc tỉnh đóng bờ Tây sông Hậu, nhờ liên hệ với “bạn” nắm tin đồng chí Bảy Sửu lãnh đồng chí về. Tôi đang nói chuyện với đồng chí Ba Thảo – Phó Ban liên lạc, bổng nghe súng nổ rộ trên đó chừng 200 mét. Thì ra, anh em Trinh sát quân báo cảnh giới bên này bờ mương đấu súng với bọn Khmer đỏ chốt bên kia bờ mương. Thế là dự định nhờ Ban liên lạc tiếp xúc với “bạn” tiêu tan! Tôi về báo cáo thủ trưởng Tỉnh đội, bị đồng chí Sáu Sên “mần” cho một trận vì để Trinh sát quân báo “gây sự với bạn”!

     Bọn Khmer đỏ giết đồng chí Bảy Sửu cướp khẩu súng ngắn, đồng chí là người thứ hai trong cơ quan Ban Chánh trị Tỉnh đội sau đồng chí Đình Trung – Trợ lý tổ chức cũng bị Khmer đỏ sát hại trước đó không lâu!

     Sau đồng chí Bảy Sửu hy sinh, Ban Chánh trị Tỉnh đội xãy ra chuyện buồn khác, đồng chí Hoài Phong – Trợ lý tổ chức có vợ bị địch bắt đang ở tù. Những ngày tháng 4 năm đó đồng chí đi công tác đến Huyện đội An Phú dan díu với nữ chiến sĩ hậu cần Huyện đội tên Mai có chồng liệt sĩ bị phát hiện. Ban Chánh trị Tỉnh đội và Huyện đội An Phú khuyên ngăn hai người chấm dứt mối quan hệ tình ái bất chính đó nhưng không kết quả, hai người ăn ở công khai như vợ chồng, Lúc ấy, cơ quan tổ chức sản xuất lúa ở rạch Cái Dơn gần biên giới đến kỳ thu hoạch, đồng chí Hoài Phong cùng đi thu hoạch lúa với cơ quan đưa cô Mai về ăn ở trong trại ruộng. Nghe anh em báo với tôi, hai người có ý định cho cô Mai nghỉ công tác về sống ở Prek Chẹy là vùng biên giới tiếp giáp khu phố Long Bình do địch kiểm soát. Tôi và một số đồng chí trong cơ quan tiếp tục khuyên can đồng chí Hoài Phong vẫn không kết quả, phải báo cáo đồng chí Lại Hữu Khai thường gọi Tư Khai - Tỉnh đội trưởng, đồng chí chỉ đạo phải cố gắng ngăn chặn không để đồng chí Hoài Phong đưa cô Mai đi. Tôi phải đi gặp đồng chí Hoài Phong thuyết phục đồng chí về cơ quan và động viên cô Mai về Huyện đội An Phú, hay cô ở tạm trại ruộng của cơ quan không đi đâu cả theo chỉ đạo của thủ trưởng Tỉnh đội.

     Đêm ấy, tôi cùng đi với đồng chí Khanh – Trợ lý bảo vệ từ cơ quan xuống trại ruộng lúc 3 giờ 30 sáng, tôi đang ngồi uống nước nơi bếp ăn, chờ đồng chí Khanh vào nơi đồng chí Hoài Phong và cô Mai ngủ, mời đồng chí Hoài Phong ra tôi nói chuyện. Khi đồng chí Khanh vừa trở lại chổ tôi ngồi nghe tiếng súng ngắn nổ liên tiếp mấy phát. Đó là những phát súng định mệnh kết thúc cuộc đời Hoài Phong và cô Mai! Theo lời anh em ngủ gần Hoài Phong kể, sau khi bắn chết cô Mai Hoài Phong còn hỏi: “Mai, chết chưa em?”. Sau đó tự bắn vào đầu chết theo!

     Ngày hôm sau, cơ quan Ban Chánh trị Tỉnh đội họp, có mặt đồng chí Bảy Phong – Phó chánh trị viên Tỉnh đội và đồng chí Hồng Hưng – Tỉnh đội phó tham dự để kiểm điểm sự việc, làm rõ nguyên nhân vụ tự sát, rút kinh nghiệm lãnh đạo ứng phó sự việc. Qua các ý kiến phát biểu, kể cả ý kiến hai đồng chí trong Ban chỉ huy Tỉnh đội đa số nhất trí như sau (theo Biên bản cuộc họp):

     “…

     “Đồng chí Hoài Phong và cô Mai tự sát là do hai người yêu nhau mù quáng bất chấp đạo lý, xem thường kỷ luật và dư luận nội bộ. Khi tổ chức phát hiện khuyên ngăn không được tự do ăn ở với nhau, cảm thấy “sống trên đời không còn ý nghĩa gì nữa” (theo di bút đồng chí Hoài Phong để lại trong quyển sổ nhỏ) tự tìm cái chết…

     “Việc lãnh đạo phát hiện đồng chí Hoài Phong và cô Mai có ý định về vùng giáp ranh với địch tìm cách ngăn chặn là đúng, để bảo đảm bí mật căn cứ, vì không thể biết trước cô Mai có ra vùng địch “chiêu hồi” hay không.

     “Việc đồng chí Hoài Phong và cô Mai tự sát là mất mát đáng tiếc, vì không ai dự đoán tình huống đó để ngăn ngừa.

     “…                                                                                                                        

                                                                 

                                                  *

 

Chương VIII

TRÊN CON ĐƯỜNG MỚI

     Khi An Giang chia tách thành lập hai tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hà giữa năm 1973, tôi công tác tỉnh Long Châu Tiền vẫn làm Phó chủ nhiệm Ban Chánh trị Tỉnh đội. Năm ấy là năm cuối chiến tranh, Tỉnh đội tổ chức Đại hội chiến sĩ thi đua năm 1974 trong khí thế phấn khởi chưa từng thấy trước những chiến thắng dồn dập của ta trên khắp chiến trường miền Nam.

     Mùa khô năm 1975 tình thế cách mạng biến đổi rất nhanh, ta vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày 30 tháng 4 năm 1975.

     Ngày 1 tháng 5 năm 1975 nhóm công tác cơ quan chúng tôi cùng một đơn vị bộ đội địa phương tỉnh tiếp quản thị trấn Hồng Ngự, trong thị trấn mọi sinh hoạt của người dân vẫn bình thường. Vài hôm sau chúng tôi chuyển đến thị trấn Tân Châu, trở thành thị xã “thủ phủ” tỉnh Long Châu Tiền. Chúng tôi sống những ngày đầu tiên đất nước thống nhất rợp bóng cờ đỏ sao vàng, trong khí thế vô cùng hồ hởi như bài hát Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh của nhạc sĩ Xuân Hồng: “… Niềm vui như đến bất ngờ. Ngày đi như trong đêm  mơ…!”.  

     Cuối năm 1976 tôi và em trai Nguyễn Minh Nhị góp tiền mua căn nhà cũ bằng gỗ tạp lợp tol của ông Sáu Việt và hai khoảng đất ở của ông Sáu Việt và ông Năm Lợi 1070 mét vuông, giá 3.400 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, bằng 1.700.000 đồng tiền Sài Gòn sau khi qui đổi, anh em tôi đưa gia đình về sinh sống ở đây.

     Năm 1981 tôi mua gổ trã chậm của Công ty lâm sản tỉnh do chú Tám Quang làm Giám đốc xây cất ngôi nhà sàn ba căn chử đinh trên nền nhà cũ rất khang trang. Vợ chồng chú Tám Quang có quan hệ thân tình với tôi, thiếm Tám nói: “Tư Đào ơi, sao mầy không nói chú Tám bán dư năm mười khối, mầy bán lấy tiền lời đủ trả tiền cây mày cất nhà, mua chịu làm chi cho mang nợ!”. Tôi nói: “Cháu làm như vậy mang tiếng, không được đâu thiếm ơi!”. Khi ấy ta quản lý kinh tế theo cơ chế hai giá, gổ tôi mua của công ty theo giá bao cấp của nhà nước thấp hơn giá thị trường rất nhiều, vậy mà sau đó cả năm tôi mới trả hết nợ cho công ty.

     Bảy Nhị em tôi công tác huyện Phú Tân thuyên chuyển về tỉnh làm Phó Ban Tổ chức Tỉnh ủy, mua gổ chánh sách cất ngôi nhà gần nhà tôi. Ba má vẫn sống với vợ chồng tôi, ba tôi căn dặn: “Vợ chồng thằng Đào thờ ông bà nội rồi, tao với mẹ mầy chết vợ chồng thằng Nhị thờ”. Má tôi nói vui “Ba mày tính khôn, chết mà muốn ngồi bàn thờ giữa nhà mới chịu!”.

     Khi ấy tôi làm Chánh văn phòng Tỉnh ủy, tham gia Tỉnh ủy. Nhà đang cất, ông Tư Việt Thắng – Bí thư Tỉnh ủy đến thăm thấy tôi cất nhà cạnh cánh đồng hoang vắng, ông nói: “Sao Tư Đào ở đây, ra đường Nguyễn Du ở có qui hoạch đất dành cất nhà cho các đồng chí trong Tỉnh ủy…”. Tôi nói: “ Ở đây có đất rộng làm chuồng nuôi heo, đào ao nuôi cá mới sống được anh Tư ơi!”

     Đường vào nhà tôi khi ấy là đường đất nhỏ hẹp mùa mưa trơn trợt, tôi xin gạch đá vụn lót đường, vận động bà con trong xóm cùng làm dần dần mở rộng mặt đường tráng nhựa như ngày nay, Ban Quản lý đô thị thị xã Long Xuyên đặt tên đường Cô Giang.

     Trong chế độ mới, anh em tôi có vị trí trong xã hội làm “nở mặt nở mày” ba má tôi, nay có ngôi nhà mới khang trang, bà con nội - ngoại tôi thường đến thăm ba má tôi chuyện trò với thái độ thân tình trọng thị…! Từ đó, ba má tôi sống an vui bên đàn con cháu hiếu thảo cho đến ngày theo ông bà! Đã qua rồi những năm dài gia đình tôi ly tán sống trong cảnh nghèo khó, ba má tôi vất vã kiếm sống và buồn tủi vì thái độ người đời “tham phú phụ bần”…!

                                               *

     Năm 1976 tỉnh An Giang được tái lập tôi vẫn là Phó chủ nhiệm Ban Chánh trị Tỉnh đội, về sau là Phòng Chánh trị Bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Nhiều năm gắn bó Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh nhà trong công tác chánh trị quen người quen việc tôi không muốn chuyển đi đâu. Đùng một cái, các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, Tỉnh đội tham khảo tôi chuyển ngành sang Văn phòng Tỉnh ủy. Các đồng chí nói các ngành dân chính đảng đang thiếu cán bộ, Văn phòng Tỉnh ủy cần một cán bộ có khả năng nghiên cứu phụ trách Khối quân sự - an ninh, nhất là theo dõi chiến tranh biên giới Tây Nam đang leo thang ngày càng khốc liệt phục vụ sự lãnh đạo của Tỉnh ủy.

     Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II tháng 8 năm 1980 tôi được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh (Tỉnh ủy). Tháng 11 năm 1982 tôi được cử đi học Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, theo chương trình lý luận nâng cao thời gian 6 tháng, dành cho cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh và tương đương không còn trẻ.

     Sau khi học Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc về, đầu tháng 8 năm 1983 tôi nhận quyết định làm Bí thư thị xã ủy Châu Đốc, nay là thành phố Châu Đốc vào thời điểm toàn miền Nam tập trung thực hiện chánh sách cải tạo công - thương nghiệp và nông nghiệp quyết liệt, với những chủ trương chánh sách trái qui luật xăm phạm lợi ích người dân làm triệt tiêu động lực con người, dân tình bất bình ca thán, không ít người bỏ nhà cửa phố phường vượt biên ra nước ngoài sinh sống. Trước năm 1975 chợ Châu Đốc sầm uất, nay phố phường vắng lặng tiêu điều, hàng hóa khan hiếm, nhà lồng chợ“vắng tanh như chùa Bà Đanh”! Tôi thấy đầu đường xó chợ người ta lén lút bán thuốc tây hay hàng tiêu dùng thiết yếu để trong rổ thúng trông thật thảm hại! Tôi thường xuyên tiếp xúc người dân trong các cuộc hội họp, hay lẻ tẻ nghe dân phản ánh tâm trạng bức xúc và những khó khăn vướng mắc trong làm ăn sinh sống… Tôi rất day dứt thấy mình có lỗi với dân!

     Năm 1984 tôi trực tiếp chỉ đạo “chiến dịch” đổi tiền lần thứ hai ở thị xã. Thi hành lệnh cấp trên, tôi cũng như mọi cán bộ đảng viên quyết tâm tổ chức thực hiện nghiêm túc. Ngày nay, nhớ lại việc mình làm thật lố bịch! Lệnh đổi tiền chỉ có tôi và Chủ tịch thị xã nhận từ tỉnh một ngày trước, buổi chiều trước ngày “N” Ban thường vụ Thị ủy mới được phổ biến và ngay sau đó tập họp cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ đến Văn phòng Thị ủy phổ biến kế hoạch thi hành và cấm trại “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, kể cả thành viên Ban thường vụ Thị ủy. Rạng sáng ngày “N” tung lực lượng xuống địa bàn phát loa phổ biến lệnh đổi tiền và định mức đổi tiền cũ lấy tiền mới mỗi hộ dân… Thật buồn cười cung cách “làm ăn” chụp giật không minh bạch! Đổi tiền lần nầy, tiếp theo đổi tiền lần trước năm 1976, cùng chánh sách cải tạo công - thương nghiệp và nông nghiệp, giáng đòn chí mạng vào tầng lớp trung lưu trong xã hội, xóa bỏ tức thì “giai cấp bóc lột”, san bằng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội…!

     Hồi ấy ở Châu Đốc có Họp tác xã nông nghiệp Châu Long 1 được tỉnh công nhận “tiên tiến” nhờ “trùm mền” thực hiện “khoán hộ”, sản xuất phát triển khá, đời sống xã viên có phần được cải thiện. Trong lần đồng chí Đào Duy Tùng - Ủy viên Bộ Chính trị về thăm thị xã, tôi hứng thú đưa đến họp tác xã để “khoe”. Sau khi nghe Chủ nhiệm họp tác xã báo cáo quá trình xây dựng và phương thức quản lý kiểu “khoán hộ”, đồng chí hỏi tôi: “Làm như thế nầy tánh chất chủ nghĩa xã hội trong họp tác xã ở đâu…?”. Lời đồng chí Đào Duy Tùng làm tôi cụt hứng! Khi ấy thị xã Châu Đốc được tỉnh công nhận “Hoàn thành cải tạo nông nghiệp”, UBND thị xã tổ chức lể mừng tưng bừng nhận cờ thi đua, tôi không hài lòng việc làm hình thức trái khoáy đó!           

     Trước thực trạng kinh tế – xã hội thị xã quẫn bách không lối thoát! Sau nhiều đêm trằn trọc suy nghĩ tôi không biết làm thế nào đưa thị xã vượt qua khó khăn mà không bị Đảng bắt tội “xé rào”! Một hôm về Văn phòng Tỉnh ủy họp, tôi xin gặp riêng đồng chí Lê Văn Nhung thường gọi Tư Việt Thắng - Bí thư tỉnh ủy trong buổi chiều sau giờ làm việc, tôi nói với đồng chí: “Anh Tư ơi! Mình xây dựng chủ nghĩa xã hội là đem lại ấm no hạnh phúc cho dân, nhưng làm kiểu nầy biết bao giờ mới đạt được điều đó anh Tư? Tôi thấy mình có lỗi với dân, dân tin mình, không khéo mình đánh mất niềm tin của dân…”. Đồng chí Tư Việt Thắng nhìn tôi nét mặt đượm buồn chậm rãi nói: “Tôi cũng thấy như vậy, nhưng tỉnh là cấp trực thuộc Trung ương không thể làm trái chỉ thị nghị quyết Trung ương, Tư Đào ở cấp huyện thực tế thấy cần làm gì thì làm nhưng phải khéo và từ từ thôi…!”.

     Được Bí thư tỉnh ủy bật đèn xanh tôi như mở cờ trong bụng, báo lại Ban thường vụ Thị ủy đề xuất thực hiện ngay những việc cần làm nhằm làm dịu sự căng thẳng trong dân do chánh sách cải tạo gây ra như cho tiểu thương đăng ký mua bán, cho các hộ tiểu –  thủ công nghiệp đăng ký sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thông thường không buộc vào tổ hợp hay hợp doanh với nhà nước và cho đăng ký hành nghề thợ bạc được mua bán vàng, bán thuốc tây… Trong nông nghiệp, các họp tác xã được tiếp tục “khoán hộ”…

     Sau khi triễn khai thực hiện những giải pháp “cởi trói” trên, không lâu chợ Châu Đốc người mua kẻ bán tấp nập, hàng hóa phong phú đa dạng, thị xã khoát trên mình bộ mặt mới. Khi tiếp xúc với dân ai cũng bộc lộ niềm vui, tôi cãm thấy vui lây với họ! Các đoàn khách Trung ương và các tỉnh bạn về thăm An Giang gần như đoàn nào cũng lên Châu Đốc tham quan mua sắm. Có người nói mĩa mai với tôi: “Chợ Châu Đốc của anh sao giống Hồng Kông quá…!”. Có người lại hỏi: “Anh làm sao chợ búa mua bán sôi động vậy?”. Tôi trả lời: “Chúng tôi chẳng làm gì cả, do ta cải tạo công - thương nghiệp và thực hiện chánh sách ngăn sông cấm chợ gây ách tắc mọi thứ, nay chúng tôi để người dân được tự do làm ăn buôn bán bình thường. Chỉ có thế thôi…!”.

     Về “trấn nhậm” thị xã Châu Đốc từ những tháng năm đầu, ngoài bài toán kinh tế hóc búa phải tìm cho ra lời giải, những vấn đề xã hội khác cũng đặt ra cần xử lý. Như nạn trộm cắp cướp giật hoành hành về đêm ở ven thị xã đe dọa cuộc sống an lành của người dân. Tôi đề xuất Ban Thường vụ Thị ủy ra nghị quyết chuyên đề về an ninh trật tự, phát động nhân dân nâng cao ý thức phòng chống tội phạm, tổ chức dân phòng khóm ấp tăng cường tuần tra canh gát đêm ngày và sử dụng các biện pháp nghiệp vụ trấn áp tội phạm… Với những biện pháp quyết liệt đó, an ninh trật tự trên địa bàn thị xã dần dần ổn định.

     Vấn đề xử lý rác để giử gìn vệ sinh môi trường làm cho thị xã sạch đẹp cũng là vấn đề không đơn giản. Đi khắp nội ô thị xã nơi nào cũng thấy rác, trước cổng trại Thượng Đăng Lễ (tên cũ) từ bao đời lưu cữu một bãi rác to tướng bên vệ đường vào chợ trung tâm. Tôi cật vấn anh em quản lý công trình công cộng, anh em báo cáo đủ thứ lý do nảy sinh tình trạng trên, chủ yếu là biên chế công nhân vệ sinh quá ít và thiếu phương tiện vận chuyển rác… Tôi chỉ đạo làm văn bản xin tỉnh tăng biên chế công nhân vệ sinh và xe chở rác. Nhưng phải di dời ngay bãi rác trước cổng trại Thượng Đăng Lễ, anh em vâng vâng dạ dạ nhưng rồi ngày qua ngày bãi rác vẫn nằm chình ình ở đó. Sau mấy lần nhắc nhở, đến khi tôi không giử được bình tỉnh gay gắt phê bình anh em làm việc trì trệ, tắc trách và nói rằng; “Nếu các đồng chí không làm được thì tôi làm, có chịu không…?”

     Thời kỳ đó, cơ sở vật chất – kỷ thuật thiếu thốn, ngân sách nghèo nàn… có thể nói tận cùng! Cộng với cung cách làm việc ỷ lại, thiếu năng động – con đẻ cơ chế tâp trung quan liêu bao cấp tạo ra sức ì trong bộ máy công quyền, đến mức dời một bãi rác tôi phải nhắc nhở nhiều lần!

   Tháng 10 năm 1986 tôi được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy, về tỉnh làm Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Đồng chí Ba Tuấn thay tôi làm Bí thư Thị ủy Châu Đốc. Tôi không qua đào tạo cơ bản lý luận chánh trị, nhận nhiệm vụ này làm cho tôi không khỏi băn khoăn nhưng không thể từ chối.

     Đại hội lần thứ VI của Đảng tháng 12 năm 1986 khởi động công cuộc đổi mới. Khi cùng đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh dự đại hội về, tôi phấn khởi bắt tay hoạch định chương trình hành động đổi mới nội dung, phương thức công tác tư tưởng tỉnh nhà, với quyết tâm làm được điều gì đó đưa công tác tư tưởng tỉnh nhà chuyển biến theo kịp xu thế đổi mới của đất nước.

     Những năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90, tình hình quốc tế diển biến phức tạp. Các nước xã hội chủ nghĩa khủng hoảng chính trị - kinh tế - xã hội trầm trọng, tìm lối thoát bằng những con đường với  tên gọi “cải tổ”, “cải cách”, “đổi mới”… không ai giống ai, hệ quả cuối cùng là sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Tình hình đó ảnh hưởng không nhỏ tinh thần – tư tưởng cán bộ đảng viên và quần chúng nước ta, niềm tin sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước giãm sút, nghĩ rằng Liên Xô là thành trì cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới còn sụp đổ, rồi đây sẽ tác động dây chuyền đến chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam sụp đổ chỉ còn là vấn đề thời gian! 

     Công tác tư tưởng của Đảng nói chung, Đảng bộ An Giang nói riêng những năm tháng ấy đầy khó khăn, thách thức! Phải nói gì, làm gì để giử vững niềm tin cán bộ đảng viên và quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin ở tương lai dân tộc đang đứng trước nguy cơ đổ vỡ! Đòi hỏi cơ quan và người làm công tác tư tưởng, cũng như các cấp ủy đảng và người lãnh đạo các cấp phải tìm cho ra lời giải… Và, lời giải ấy đã biểu hiện trong đường lối chánh sách của Đảng và Nhà nước, từng bước tháo gở khó khăn thách thức đưa đất nước phát triễn như ngày nay.

     Đã qua rồi những năm tháng sóng gió ấy, ngày nay vị thế Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế, sự ổn định chính trị - xã hội cùng chánh sách đối ngoại rộng mở và sự thân thiện của người Việt Nam được bạn bè thế giới mến mộ, hướng đến Việt Nam là một đất nước đáng sống.

     Đầu tháng 8 năm 1989 tôi được Tỉnh ủy bầu làm Phó bí thư Tỉnh ủy, cử tôi làm Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy, kiêm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh. Sau khi nhận nhiệm vụ, việc đầu tiên tôi khảo sát đánh giá thực trạng hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp từ tỉnh đến cơ sở, làm căn cứ xây dựng Đề án đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động, trước hết trên địa bàn dân cư ấp – khóm. Tôi cho đó là khâu đột phá, là mắc xích quan trọng và là “bộ rể” xây dựng tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể vững mạnh có sức sống, hấp dẫn quần chúng...! Đề án được tập thể Ban Dân vận Tỉnh ủy và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp trong tỉnh nhất trí thông qua. Đó là đề án nhiều tham vọng, nhưng chúng tôi tự tin có thể làm được.

     Triển khai thực hiện đề án, chúng tôi tổ chức mỗi huyện – thị xã một đoàn cán bộ, thành phần gồm cán bộ Ban Dân vận Tỉnh ủy và các đoàn thể cấp tỉnh. Chọn mỗi huyện – thị xã một xã – phường làm thí điểm, đoàn cán bộ trực tiếp xuống một ấp –  khóm nào đó làm trước, khi tương đối đạt yêu cầu chuyển sang ấp – khóm khác theo kiểu “cuốn chiếu”. Công việc cụ thể là củng cố xây dựng tổ chức các ban cán sự, chi hội, chi đoàn thanh niên…; hướng dẫn nội dung sinh hoạt lệ; hướng dẫn lập chương trình, kế hoạch phát triển sản xuất, giải quyết việc làm cải thiện đời sống vật chất và văn hóa cho đoàn viên, hội viên và quần chúng giới mình theo khả năng và điều kiện cụ thể từng nơi, từng lúc và tuyên truyền vận động phát triển đoàn viên, hội viên mới, dần dần nâng cao tỷ lệ đoàn viên, hội viên trong quần chúng cùng giới, xóa “vùng trắng” đoàn thể.

     Sau thời gian khoảng hai tháng tổ chức thực hiện đề án đem lại kết quả bước đầu đáng khích lệ, tôi chỉ đạo tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm. Nhận thấy con đường đổi mới tổ chức và hoạt động Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hé mở. Yếu tố bảo đãm thành công trước hết đòi hỏi đội ngũ cán bộ đoàn thể các cấp phải có quyết tâm, chịu khó chịu khổ bám dân, bám các tổ chức đoàn thể trên địa bàn dân cư…

     An Giang là tỉnh có nhiều đồng bào tín đồ các tôn giáo và một bộ phận người dân tộc thiểu số. Tôi hiểu rằng thực hiện tốt chánh sách tôn giáo, dân tộc của Đảng là một nhân tố quyết định sự thành công trong công tác vận động quần chúng trên mãnh đất này, mà trách nhiệm trực tiếp là của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể quần chúng các cấp trong tỉnh. Đây là mãng công tác quan trọng thứ hai tôi hết sức quan tâm.   

     Khi về cơ quan Dân vận – Mặt trận tỉnh nhận nhiệm vụ ngồi chưa ấm chổ, tôi tranh thủ thăm viếng nơi thờ tự các tôn giáo và tổ chức buổi họp mặt các vị chức sắc tôn giáo và đồng bào dân tộc tiêu biểu trong tỉnh tại thị xã Châu Đốc. Tôi gợi ý các vị phát biểu thẳng thắng, cởi mở phản ánh tâm tư, nguyện vọng đồng bào tôn giáo, dân tộc mình trước hiện tình đất nước và việc thực thi chánh sách của Đảng và Nhà nước đối với các tôn giáo và đồng bào các dân tộc có điều gì được và chưa được, có vấn đề gì cần đề đạt…? Buổi họp mặt đạt kết quả như mong muốn.

     Thời gian tuy không nhiều, nhưng tôi cùng cán bộ Mặt trận và các đoàn thể trong tỉnh làm được nhiều việc có hiệu quả, được dư luận trong tỉnh hoan nghênh, Trung ương đánh giá cao. Tôi được báo cáo điển hình trong hội nghị chuyên đề công tác dân vận do Trung ương tổ chức ở Cần Thơ.

Chương IX

ĐOẠN CUỐI ĐƯỜNG HOẠN LỘ

Ngày 5 tháng 10 năm 1992 tôi bất đắc dĩ chuyển công tác về Văn phòng 2 Trung ương Hội Chử thập đỏ Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh anh Sáu Thành Phó chủ tịch Trung ương Hội phụ trách. Anh Sáu Thành phân công tôi làm Chuyên viên cao cấp phụ trách công tác tổ chức, kiêm Trưởng tổ nghiên cứu tổng họp.

Khi ấy Trung ương Hội Chử thập đỏ Việt Nam chỉ đạo chuẩn bị tổ chức Đại hội Hội Chử thập đỏ các cấp trong cả nước. Anh Sáu Thành cử tôi làm Đặc phái viên Trung ương Hội theo dõi kiểm tra đóng góp ý kiến lãnh đạo các tỉnh – thành ủy và Hội Chử thập đỏ các tỉnh – thành từ Quảng Nam – Đà Nẳng trở vào (trừ thành phố Hồ Chí Minh và An Giang anh Sáu Thành phụ trách), chuẩn bị nội dung và nhân sự tiến hành đại hội theo kế hoạch.

Gần một năm đeo bám thực hiện nhiệm vụ, những nơi thuận lợi tôi đến một hai lần, nơi khó khăn tôi đến vài ba lần; các tỉnh miền Trung xa xôi đường lại xấu, đi tới đi lui phát ngán cũng cố gắng hoàn thành nhiệm vụ!

Cuối năm 1993 các tỉnh - thành Hội Chữ thập đỏ phía Nam đại hội xong. Sau đó, anh Sáu Thành vài lần cử đi một số tỉnh miền Trung kiểm tra thực hiện dự án nhân đạo nước ngoài tài trợ. Xong việc, hàng ngày tôi đến văn phòng làm việc theo giờ hành chánh, nhưng không biết việc gì làm, đọc báo, tán gẩu… đến phát chán rồi rũ nhau đi nhậu! Tổ Nghiên cứu tổng họp có bốn, năm cán bộ nhưng làm việc theo chế độ chuyên viên do lãnh đạo Trung ương Hội trực tiếp lãnh đạo chỉ đạo công tác, chức Trưởng Tổ Nghiên cứu tổng hợp của tôi chỉ là “hữu danh vô thực”!  

Một tuần, hai tuần, rồi ba bốn tuần... trôi qua không thấy anh Sáu Thành nói gì đến tôi. Không thể chịu đựng nổi, tôi rũ bác sĩ Du cán bộ công tác cùng phòng đến nhà riêng gặp anh Sáu Thành. Tôi hỏi: “Bây giờ anh phân công tôi làm việc gì chớ “ăn không ngồi rồi” làm sao tôi chịu nổi, anh Sáu...?”. Anh Sáu Thành ấm ớ giây lát mới nói: “Khó nói quá Tư Đào ơi”! Tôi hỏi vặn: “Có gì anh cứ nói thẳng đi...”. Anh mới nói: “Có đồng chí lãnh đạo ở tỉnh (An Giang) nói gì đó với anh Nguyễn Trọng Nhân (Chủ tịch Trung ương Hội) ảnh chỉ đạo không phân công công tác cho Tư Đào...” Tôi nói gay gắt: “Vậy các anh đồng ý xin tôi về đây để làm gì...?”

      Thấy thái độ tôi căng thẳng, bác sĩ Du sợ mếch lòng thủ trưởng khều ra dấu khuyên tơi bình tỉnh. Nhưng tôi đã “nóng đầu” nói thẳng: “Các anh “đem con bỏ chợ”... đã xuống tỉnh tìm hiểu chuyện của tôi rồi (chuyện tôi bị “hất” ra khỏi Tỉnh ủy) đồng ý nhận tôi về đây, bây giờ người ta nói bậy cũng nghe... Thôi, các anh không xài cho tôi về tỉnh nghĩ hưu...! Anh Sáu Thành nói:“ Tùy Tư Đào”.

     Nói xong tôi bực tức ra về. Đêm ấy tôi buồn nằm trằn trọc thâu đêm! Sáng hôm sau tôi viết thư gởi Ban Thường vụ Tỉnh ủy An Giang và lãnh đạo Trung ương Hội Chử thập đỏ Việt Nam đề nghị nghỉ hưu trước tuổi, kết thúc con đường hoạn lộ đời tôi!

                                                      *

LỜI KẾT

      Tôi đã cống hiến trọn đời mình cho đất nước, sướng khổ, vui buồn, vinh quang và cay đắng tôi đều nếm trãi! Người xưa từng nói:“Càng cao danh vọng càng dài gian nan”, “Quan nhứt thời dân vạn đại”. Tôi nghiệm ra chỉ có làm người dân có cuộc sống bình dị là đáng quí nhất, quyền uy, giàu sang, danh lợi chỉ là ảo vọng phù phiếm!

     Đời tôi luôn gieo “nhân” lành nên trởi cho tôi hưởng “quả” ngọt, sống sót qua các cuộc chiến tranh khốc liệt! Trong khi biết bao đồng bào, đồng chí của tôi ngã xuống để đất nước có ngày hôm nay, cuộc đời tôi có ngày hôm nay! Tôi luôn dặn lòng phải sống sao xứng đáng làm người có ích cho đời.

    Điều mong ước cuối cùng đời tôi là đất nước luôn bình yên và phát triển bền vững để con cháu có cuộc sống an lành và hạnh phúc!

          Thành phố Long Xuyên, viết xong cuối Đông năm 2004.  

                                        Chỉnh lý, bổ sung tháng 11 năm 2021.

                                                            N.M.Đ

 

 

Tác giả gởi cho viet-studies ngày 27-11-21