Liệu
mô hình Trung Quốc-Việt
Nam tồn tại dài lâu?
Nguyễn
Khoa
Trung Quốc
sụp đổ khi nào?
Năm 2018, nhà ngoại
giao kỳ cựu người Singapore, ông
Kishore Mahbubani, viết
một quyển sách nhỏ,
phân tích tương quan giữa
phương Tây và các quốc
gia châu Á hiện
nay. Quyển sách mang tựa
đề là Có phải
phương Tây đang thua hay không? (Has the West lost
it?).
Tác giả
cho rằng giới học giả phương Tây
hiện nay nhìn châu
Á, mà nhất là Trung
Quốc bằng những cái
nhìn phiến diện, theo
những tiêu chuẩn
kiểu dân chủ phương
Tây, không nhìn thấy
một hình thái kinh tế
xã hội mới tại
phương Đông, mặc dù
các nền kinh tế ở đây,
nói chung cũng dựa trên
thị trường, bắt chước
phương Tây.
Một
trong những điểm chính
mà Mahbubani dùng
cho lý
lẽ của mình là nhận
định rằng các chính phủ
châu Á hiện nay
hoạt động tốt, mặt dù không có một
nền dân chủ như
phương Tây. Theo cách nhìn của
người phương Tây thì nếu
không có nền dân
chủ giống như của họ thì
các chính quyền
ấy sẽ bị vỡ vụn (dysfunctional).
Đối
với Trung Quốc, Mahbubani so sánh
hai thời kỳ, thời Mao
Trạch Đông, ông cho là chú tâm đến
chính trị, còn
những lãnh đạo
như Tập Cận Bình hiện
nay là những nhà
quản trị quốc gia, và
họ đang quản trị tốt.
Không rõ có phải
ông Mahbubani, một
người Singapore gốc Ấn Độ, là người
đầu tiên đưa ra luận
điểm cho rằng có một
cái gì đó mới đang
xuất hiện ở Đông Á hay không, nhưng từ
khi Trung Quốc bắt đầu bắt tay với Mỹ từ chiến tranh lạnh đến nay, đã
có hai quan điểm ngược hẳn
nhau. Đầu tiên phương Tây cho rằng
cải cách về kinh tế
sẽ dẫn đến cải cách về
chính trị, Trung
Quốc sẽ tiến tới giống phương Tây. Điều
đó không xảy ra. Và
hiện nay lại có quan niệm
bài Trung ở phương
Tây, cho rằng cần
bao vậy Bắc Kinh, thậm chí thay đổi
chế độ. Quách Văn Quý, một
kẻ đào tẩu từ Hoa
Lục thậm chí đã lập
một chính phủ lưu
vong được sự ủng hộ của Steve Bannon, người từng là chiến
lược gia của Donald Trump.
Đã có nhiều
nhà quan sát phương Tây, dựa
trên những tiêu
chuẩn dân chủ
và thị trường
phương Tây, cho rằng
Trung Quốc sẽ sụp đổ, chẳng hạn như Gordon Chang. Nhưng đã mấy
chục năm trôi qua từ
khi ông Chang tuyên bố
như vậy.
Nhà quan sát thận
trọng hơn là Bùi Mẫn
Hân, trong một bài
viết gần đây đã
không còn kềm chế nữa mà
nói xa nói gần rằng lễ
sinh nhật 100 năm của Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể
là sự kiện trọng
thể cuối cùng.
Nhưng đã bắt
đầu xuất hiện những ý kiến
ngược lại, chẳng hạn như bài
mới đây của
hai cây bút Evan S. Medeiros và Ashley J. Tellis trên tờ
Foreign Affairs cho rằng đừng hòng tìm cách thay đổi
chế độ chính trị ở
Trung Quốc, làm như vậy
chỉ thúc đẩy
người Trung Quốc ủng hộ Đảng Cộng sản mạnh hơn.
Và Kishore Mahbubani như đã nói
ở trên.
Đáng chú ý là trong gần
100 trang sách, Mahbubani nhắc
đến từ cộng sản có vài lần,
và tất cả những lần
đó đều là một
cách định danh, chứ
không hề nói
đến bản chất ý thức
hệ cộng sản. Đối với Mahbubani dường như chế độ cộng sản không tồn
tại tại Trung Quốc, và cả
Việt Nam, mà tác giả
có một đôi lần
nhắc đến.
Đặc
biệt, trong một lần nhắc đến cộng sản, Mahbubani nói
đến sự khác biệt
giữa Liên Xô và Trung Quốc
ngày nay, một khác
biệt tưởng nhỏ nhưng vô
cùng quan trọng, đó
là Liên Xô không bao giờ
cho công dân mình du lịch
nước ngoài.
Du khách Trung Quốc
thì đi khắp
thế giới, thậm chí họ
là nguồn sống của
ngành du lịch châu
Âu và Nhật
Bản.
Trung Quốc
đã và đang là một
phần của thế giới “tư bản”. Nó quá lớn
để có thể tan rã,
và liệu có quốc
gia phương Tây nào có can đảm
nhìn Trung Quốc sụp
đổ và tan rã?
Việt
Nam sụp đổ khi nào?
Việt
Nam là một
nước Trung Hoa thu nhỏ về nhiều mặt.
Nếu
như sự phát triển
của Hoa Lục làm hài lòng hàng trăm triệu
người Hoa, thì sự
phát triển của Việt
Nam cũng làm hài lòng hàng chục
triệu người Việt. Sự kết hợp giữa thị trường và nền
chuyên chế toàn
trị, dựa trên một
lịch sử khổng nho là tương đồng
giữa hai bên, cùng làm nên hiện
tượng mới ở Đông Á.
Mức
độ đàn áp xã hội
ở Việt Nam có thể
ít hơn vì Việt Nam
không có những vấn
đề như Tân Cương hay Tây Tạng.
Nhưng rủi
ro đổ vỡ của Việt Nam lớn hơn Trung Quốc nhiều, vì
Việt Nam không phải
là một cường quốc công
nghiệp chế tạo như Trung
Quốc, chiếm phần vô cùng quan trọng
trong chuỗi sản xuất toàn cầu.
Việt Nam không quá quan trọng
để mà không sụp
đổ.
Đại
dịch Covid-19 cho thấy rõ sự
khác biệt. Trong
thời gian ngắn Trung Quốc đã sản
xuất được vaccine, dù không được
tin tưởng như vaccine phương Tây nhưng đủ
để tiêm chủng cho hàng
tỷ người Trung Quốc chống
dịch vào lúc này, và thậm
chí vaccine trở thành
vũ khí ngoại giao của Bắc
Kinh. Việt Nam bị rối loạn vì đại
dịch, sau một số thành công ban đầu
do đề cao cảnh giác và áp dụng
hệ thống toàn trị xã
hội có sẵn.
Dịch Covid-19 cho thấy mức độ phát triển
tri thức và tổ chức
xã hội của Việt Nam
rất mong manh trước tương lai bất định của thiên nhiên và xã hội
loài người nói
chung.
30 năm “đổi
mới” giúp cho thu nhập
của người Việt Nam gia tăng, nhưng dựa trên những
công việc giản đơn.
Sức nặng dân số 100
triệu người cần một tiềm lực khoa học và khả
năng tổ chức tinh tế hơn. Hệ thống giáo dục
bị thương mại hóa trên nền
tảng ý thức hệ, cứ
lỳ lợm không chịu
tiến, mà tạo nên
một gánh nặng
khổng lồ.
Hệ
thống tổ chức toàn trị
trừ trên xuống loại
trừ những thành phần
ưu tú của dân
chúng, dựng nên một
lớp cán bộ không
có khả
năng đối diện với khủng hoảng.
Người
ta có thể
nói rằng tất cả
những khiếm khuyết mang tính hệ
thống đó cũng có cả
ở Trung Quốc, nhưng như trên đã nói, Việt
Nam không có cái lợi
thế quá
lớn để có thể sụp
đổ
như Trung Quốc.
Đứng
trước cuộc khủng hoảng đang diễn ra, các
nhà lãnh đạo Việt Nam đối
phó bằng nghị quyết
và khẩu hiệu. Điều
may mắn là thế giới
đã có thuốc chủng
ngừa, các biện pháp
giới nghiêm có thể
trì hoãn sự lây
lan của virus và
chờ chích ngừa. Hy
vọng không xảy ra
thảm cảnh chết không kịp
chôn như ở Ấn Độ,
hay là cảnh bệnh
viện Chợ Rẫy không còn bình dưỡng
khí!
Việt
Nam đừng mơ mô hình Trung Quốc
Kishore Mahbubani viết
Has the West lost it trước đại dịch Covid-19, trước cuộc trấn
áp tầng
lớp “tư sản” Trung Quốc gần đây. Lúc đấy
ông chưa biết đến
cơn hoảng loạn như mê sảng
của các cán bộ Đảng
cộng sản Việt Nam khi đối đầu với con virus nhỏ xíu .
|