Nếu
muốn, Kamala Harris sẽ nói
chuyện
Nguyễn
Khoa
Cơ quan ngoại
giao Hoa Kỳ tại Việt Nam báo cho
các nhà báo Việt Nam trong
và ngoài nước biết
rằng họ có thể tham
gia vào một cuộc
họp báo từ xa của
chuẩn đề đốc Michael F. McAllister, chỉ huy lực lượng tuần duyên
Mỹ tại vùng Thái
Bình Dương.
Cuộc
họp báo được
dự dịnh bắt đầu vào 10 giờ
sáng ngày 3/9/2021, giờ
Hà Nội. Ông
McAllister sẽ nói
chuyện từ căn cứ của tuần
duyên Hoa Kỳ
tại Alameda, California.
Theo thông báo, cuộc
họp báo sẽ
xoay quanh việc triển khai tàu tuần
duyên loại Munro
của Mỹ tại vùng Tây Thái Bình Dương, sự
hợp tác về tuần duyên
của Hoa Kỳ với các
đối tác trong khu vực.
Sự
kiện này tiếp
theo thông tin từ
chuyến thăm Việt Nam của bà Kamala Harris, Phó Tổng
thống Mỹ, rằng Washington sẽ chuyển cho Hà Nội
một chiếc tàu tuần
duyên đường dài
thứ
ba.
Toàn bộ
những chuyện này nằm
trong mục tiêu hợp
tác an ninh của phía
Mỹ đối với Việt Nam, mục
tiêu quan trọng
nhất của chuyến đi của bà Harris, ngoài ra còn là món quà 1 triệu
liều vaccine Pfizer cho Việt Nam đang đối diện với cuộc khủng hoảng dịch
bệnh chưa từng có.
Hai mục
tiêu này trong chuyến
đi được gọi là ngoại
giao ve vãn (charm offensive) đã được
giới quan sát bàn đến
trước khi bà Harris rời
Washington. Hai vấn đề đó lấn
át hẳn mục tiêu
đề cao vấn
đề dân chủ
và nhân quyền đối
với chính quyền
Việt Nam, vốn thường là thói quan của
các viên chức cao
cấp Mỹ khi đi thăm những quốc gia nằm trong chế độ toàn trị,
hay độc tài, như Việt
Nam.
Cuộc
tấn công ngoại
giao ve vãn này nối
tiếp theo chuyến đi của tướng Lloyd Austin,
Bộ
trưởng Quốc
phòng đến Hà
Nội trước đó vài
ngày, và vài tháng sau chuyến
đi cũng của ông Lloyd Austin cùng ngoại
trưởng Anthony Blinken đến Nhật Bản và Hàn Quốc
trước đó vài tháng.
Sự
ve vãn Việt
Nam của người Mỹ không có gì khó hiểu
khi họ đang củng cố một vòng đai bao vây Trung Quốc
ở phía Đông, kéo dài từ
Tokyo sang Seoul, Đài Bắc,
cho đến Singapore. Họ đã dứt
khoát rời bỏ
Afghanistan mặc cho nhiều chỉ trích về
trách nhiệm đạo đức
của quân đội Mỹ sau
20 năm chiến tranh tại đất nước Trung Á này. Afghanistan có cái
giá trị của nó đối
với cuộc chiến chống khủng bố sau ngày 11/9/2001, trước
khi tiêu diệt được
Bin Laden, cũng như miền
Nam Việt Nam có giá trị
của nó trước năm
1972 để chống thế giới cộng sản, trước khi người Mỹ tìm ra con
bài Trung Quốc để xé
toạc khối cộng sản. Giờ đây
Hà Nội lại có giá
trị đối với người Mỹ trong
cuộc cạnh tranh đang và sẽ
diễn ra với Trung Quốc.
Vì thế
mục tiêu nhân quyền
chỉ là thứ
yếu.
Với
tính thực
dụng Mỹ, đâu phải là
lần đầu tiên người
Mỹ “chơi” với các chế
độ phản nhân quyền.
Nhưng nếu
như các mục
tiêu về an ninh địa
chính trị không
quá nặng, không có
dịch bệnh như hiện nay thì
liệu bà Harris sẽ
làm gì?
Có hai người
Mỹ gốc Việt liên quan đến
các vụ án
chính trị được phóng
thích. Bà Harris có gặp gỡ
một số người đại diện cho nữ quyền và những
người đồng tính.
Đó đây trên mạng
xã hội,
có những chỉ trích
rằng bà Harris đã
không có cuộc gặp nào
với giới “bất đồng chính
kiến”. Ông Lê Công
Định, một gương mặt bất
đồng chính kiến nói
với đài BBC rằng
bà Harris đã “nói lòng vòng” khi đề
cập đến vấn đề nhân quyền.
Nếu
muốn gặp giới bất đồng chính kiến
thì bà Phó Tổng
thống sẽ phải gặp ai? Đó là câu hỏi
không khó để trả
lời, vì đơn giản là
không có ai cả!
Trong bốn
năm qua các gương mặt
lớn tiếng chỉ trích Hà Nội
nhất, hoặc lần lượt vào tù, hoặc
bị trục xuất ra nước ngoài. Các tổ
chức sơ khai không do nhà cầm
quyền cộng sản kiểm soát như Hội
Anh Em
Dân Chủ,
Phong Trào
Lao Động
Việt,… đều thực sự tan rã. Một
số hội nhóm tương thân tương ái có tính chất
nghiệp đoàn, được
nhen nhóm trở lại,
thì hiện vẫn đang
hoạt động bí mật.
Một
số người đã ra khỏi
tù, vẫn còn
ở Việt Nam, nhưng đều không
có thực lực, không
có tổ chức, trong đó
gồm cả ông Lê Công
Định, trở thành “những
nhà đấu tranh trên
mạng” thuần túy.
Hãy xem là hoạt
động trên mạng
của họ cũng là hoạt
động tự do ngôn luận,
phản biện, nêu ý kiến
khác biệt với chính
phủ, nhưng một số rất đông
những người này lại
là những người có
những phát biểu
và hoạt động rất
phản dân chủ qua
việc họ hưởng ứng những nhóm phản
đối kết quả bầu cử dân chủ
ở Mỹ vào cuối năm
2020. Cuộc bầu cử này dẫn
đến chiến thắng của Joseph Biden, tổng thống 46 của Mỹ.
Những
cái tên như Nguyễn
Ngọc Già, Nguyễn
Hữu Vinh (Ba Sàm), Huỳnh
Thục Vy,… thực sự là những
kẻ phản dân chủ,
hay ít tệ nhất là
họ cũng không biết
thế nào là hệ thống
dân chủ Mỹ. Họ
chống lại truyền thông tự
do của Mỹ và phương Tây, họ
rất tích cực chia
sẻ và loan tải
những nguồn tin vịt từ giới cực hữu hay những kênh YouTube câu
khách rẻ
tiền.
Cũng không ít những
“gương mặt dân chủ”
là sản phẩm của
thời kỳ mạng xã hội.
Họ lớn tiếng trên mạng
xã hội, hoạt động
rất nhiều trên mạng
xã hội, không
phải để truyền bá
những nguyên tắc
dân chủ, không
phải để cho công
chúng biết thế nào
là dân chủ, là xã hội
dân sự, mà
là để “thế giới biết mình
là ai”!
Điển
hình trong số
này là một nhân
vật có tên Bùi Văn
Thuận. Ông này lên
mạng xã hội
bôi bác lãnh tụ
cộng sản Hồ Chí Minh, và cũng lớn
tiếng thóa mạ cuộc
bầu cử tại Mỹ là gian lận.
Ông Thuận đạt được
mục tiêu là người
ta biết ông ấy là
ai, trong đó dĩ nhiên có công an Việt
Nam.
Sau khi bà Harris rời
Hà Nội
vài giờ đồng hồ thì
ông Bùi Văn Thuận
bị bắt.
Người
Mỹ có rất
nhiều sai lầm khi họ giao tiếp với những nền văn hóa xa lạ,
như Việt Nam, như Afghanistan, những nơi mà họ
hay sử dụng lầm người cho các chế
độ mà họ
ủng hộ.
Nhưng lần
này, Insha Allah, giữa
biến động Afghanistan, bà Harris không tìm cách gặp
Bùi Văn Thuận, kẻ
từng lớn tiếng thóa mạ
nền dân chủ mà
bà đại
diện.
|