Covid-19 cho biết
xã hội
chính trị Việt Nam
Ai từng
đi lại giữa miền Tây Nam bộ
và Sài Gòn trong những
năm cuối 1970, đầu 1980 hẳn phải biết trạm kiểm soát Tân Hương nằm
gần thành phố
Mỹ Tho.
Trạm
này kiểm
soát quốc lộ số 1
từ Sài Gòn về miền
Tây (trước 1975 là
quốc lộ 4). Gần như 24/7,
bên ngoài trạm này
là dòng xe rất dài
cả hai chiều nằm chờ kiểm
soát. Các nhân viên công an, quản
lý thị trường chận
bắt gạo, thịt, muối, cá mắm
từ miền Tây đổ về
nuôi sống hơn 3
triệu người Sài Gòn. Điều
đặc biệt là xe hành khách (xe đò) nhiều
hơn xe vận tải, mà những
chiếc xe đò này cũng biến
thành xe vận tải
với các thứ hàng
kể trên. Việc
kiểm soát tịch thu
diễn ra từng ly từng tí một,
không để sót
một thứ gì. Chiều
ngược lại kiểm soát nhanh hơn vì ít hàng hóa hơn, nhưng cũng được
làm rất
cẩn thận.
Tân Hương trở
thành nỗi
kinh hoàng của dân
chúng miền Nam lúc
đó. Người đi buôn
thì sợ mất hàng,
khách lữ hành thì
chờ cả vài tiếng
đồng hồ để qua trạm là chuyện
thường. Và dĩ nhiên, muốn
qua nhanh thì mãi lộ!
Đó là thời
kỳ mà sau này báo chí gọi
là ngăn sông cấm
chợ, nhưng lúc ấy
thì trên báo chí người
ta lại hay nhắc đến câu cửa
miệng của ông tổng
bí thư Đảng Cộng
sản Việt Nam, Lê Duẩn,
rằng Việt Nam đang xây dựng
chế độ làm chủ tập
thể xã hội chủ
nghĩa, với 400 quận huyện là 400 pháo đài công, nông, lâm, ngư
nghiệp. Mà đã là
pháo đài thì không có chuyện
vận chuyển hàng hóa qua lại.
Các nhà quản lý
cộng sản tuyên bố
xử tử ngành thương nghiệp.
Việc
kiểm soát đã tạo
điều kiện cho các viên chức
công an, quản lý
thị trường phất lên.
Sự nhũng lạm và hạch
sách của họ trở thành
hình ảnh tiêu biểu
cho xã hội Việt Nam
lúc đó. Đôi khi họ
hạch hỏi, tịch thu cả những món đồ
vật không phải là
hàng hóa.
Nếu
chính sách ngăn sông cấm
chợ tuân theo ý thức
hệ là điều đáng
trách trên bình diện vĩ mô
của nền kinh tế quốc gia,
thì việc nhiệt tình
cách mạng quá trớn
của các viên chức là
điều dễ thông cảm
hơn vào lúc đó, khi họ
là những người viên
chức thấp nhất trong bộ máy
toàn trị
khổng lồ.
Nhưng hơn 30 năm sau ngày trạm
Tân Hương bị
đóng cửa, các
viên chức nhiệt tình
cách mạng quá trớn
vẫn còn, và rất đông
đảo. Họ xuất hiện trong
chiến dịch phong tỏa, giới nghiêm các thành phố,
khu phố, thị trấn Việt Nam trong đợt bùng phát dịch
Covid-19 giữa năm 2021. Đúng hơn họ
là thế hệ thứ hai,
cũng có thể là
thế hệ thứ ba, con cháu
của những viên chức
cấp thấp thời ngăn sông cấm
chợ trước kia. Họ khác cha ông họ
ở giày dép quần
áo tinh tươm hơn, họ
có điện thoại cầm
tay,… nhưng nhiệt tình cách mạng
của họ vẫn giống cha ông họ,
ngăn chận từ ổ bánh mì cho tới
băng vệ sinh phụ nữ. Điều gì đang xảy ra ở Việt Nam vậy?
Sau hơn 30 năm của
cái gọi
là “đổi mới”,
ý thức và
năng lực của tầng lớp quan
lại, sai dịch của hệ thống vẫn không thay đổi.
Hệ thống toàn trị vô
cùng đông đảo vẫn không
giảm bớt, mặt khác
phải tăng lên theo
tỷ lệ tăng trưởng dân
số, phải đảm bảo có
đầy đủ các viên bí
thư, từ tổng bí thư
Đảng cho đến bí thư
chi bộ
khu phố.
Ở phía
trên thượng tầng kiến trúc
vẫn là một
tầng lớp được ưu tiên, ăn trên ngồi
trốc với những quyền lực tuyệt đối về chính trị
như xưa và bây giờ
lại được thêm những
quyền lực về kinh tế.
Việc
cải cách kinh tế
hơn 30 năm qua làm cho những
nhu cầu cơ bản của dân chúng được
thỏa mãn phần nào.
Sự đầy đủ cơ bản này
che khuất đi một cấu trúc
xưa cũ mà có người tưởng
rằng đã biến mất
trong quá trình “đổi
mới.”
Đại
dịch Covid-19 làm cho cấu
trúc ấy lộ ra với
một món hàng khan hiếm
là vaccine trị
Covid-19.
Câu chuyện
người phụ nữ trẻ nhờ có bố
(ông ngoại các
con cô ta) là kẻ có
thế lực mà được
tiêm chủng trước,
minh chứng rất cụ thể rằng cơ cấu xã hội
cũ không hề thay
đổi. Trong xã hội này,
bề mặt là cào bằng
thụ hưởng, nhưng cấu trúc thực
của nó là mạnh ai
nấy lo một cách rừng
rú. Và trong khu rừng
đó, những con thú
có “ông ngoại” có
thế lực, và những
“con thú ông ngoại”
luôn là những kẻ
trục lợi nhiều nhất, sống an toàn nhất.
Nếu
trước kia, là cửa
hàng thực phẩm dành
cho cán bộ cao cấp ở phố Tôn
Đản, Hà Nội,
là xe Volga dành cho cấp
bộ trở lên, thì nay là thuốc
“xịn” Pfizer dành cho cán bộ
cao cấp (theo lời viên giám đốc
bệnh viện Việt Xô trần
tình với báo
chí).
Vaccine Covid-19 năm 2021 chính là những
lạng thịt bò của
những năm 1975-1985.
Hệ
thống toàn trị
và tầng lớp có
đặc quyền đã làm
cho xã hội và quốc
gia rơi vào khủng
hoảng kinh tế trầm trọng trước kia với chính sách 400 pháo đài
quái đản. Nay hệ thống đó
có cơ không dập tắt được
dịch bệnh mà làm nó trầm
trọng hơn. Lẽ ra phải dành ưu tiên cho người
già và người có
bệnh “nền”, thuốc lại được
ưu tiên cho tầng
lớp lãnh đạo, đám
công an che chắn cho chế
độ. Lớp dân chúng già cả
sẽ trở thành nơi lưu dưỡng
virus, có thể tạo nên
những
biến dị nguy hiểm hơn.
Dịch
bệnh cũng làm bộc
lộ mâu thuẫn chính
trị vùng miền,
với sự thống trị của miền Bắc, vốn là nơi phát xuất
những đội quân chiến
thắng năm 1975. Trong những năm 1990, người ta dành kinh phí quốc
gia để xây dựng
đường số 5 Hà Nội
Hải Phòng, hay đường
số 18 Hải Dương Quảng Ninh, thay vì con đường
nhiều hàng hóa hơn là quốc
lộ 1 Sài Gòn Mỹ
Tho, hay liên tỉnh
số 8 Sa Đéc Long Xuyên. Việc
này có thể được thông
cảm vì hệ
thống đường sá miền
Bắc quá tệ hại.
Nhưng vào năm 2021, với
một dân số gấp đôi,
số người nhiễm bệnh gấp ba
Hà Nội, mà số
liều vaccine phân phối
về Sài Gòn lại
ít hơn là điều không
thể
tha thứ được.
Những
nguồn tin từ bên trong cho biết
rằng thành phố Sài
Gòn bị “cầm tay chỉ việc”
trong việc chống dịch với những viên chức
từ Hà Nội vào.
Cấu
trúc địa
chính trị nội bộ đó
tạo nên những
điều quái gỡ như
chuyện các nhân viên, học
sinh y tế từ Hải Dương vào Sài Gòn, tưởng
tượng mình đang đi “giải
phóng miền Nam”.
Hay là chuyện một cô
nào đó gốc miền Bắc lên
mạng xã hội
móc mỉa người Sài
Gòn, rằng thì là Hà
Nội tuyệt vời hơn, “một
thời đạn bom một thời hòa bình” (sic). Mà thành phố
Sài Gòn lại là
nơi cung cấp nhiều tiền
của nhất cho ngân sách quốc
gia.
Năm 1986 khi Việt
Nam bắt đầu cải cách kinh tế,
đã có người hy vọng
rằng cải cách kinh tế
sẽ kéo theo chính trị,
nhưng điều đó đã không xảy
ra, và tệ hơn là
xã hội vẫn không
thay đổi. Những đặc quyền
đặc lợi vẫn tồn tại, trước kia là lạng
thịt bò, ký gạo, thì
nay là du học,
vaccine....
Nó không đổi
vì cấu
trúc chính trị tạo
ra tầng lớp đặc quyền đó không thay đổi.
Với
hệ thống chính trị
xã hội đó,
Việt Nam đã thất
bại trong việc chuyển đổi một quốc gia nông nghiệp
sang công nghiệp
sau hơn 30 năm cải cách. Hàng chục
ngàn công nhân từ Sài
Gòn bỏ chạy về quên
trong cơn dịch bệnh này
là hình ảnh trái
ngược với giấc mơ công
nghiệp của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Công nhân vẫn
coi cuộc sống của họ ở đô thị
là tạm bợ. Các
đô thị này không có
một hệ thống an sinh xã
hội để họ có thể
định cư. Vẫn không có một
lớp công nhân đúng nghĩa mà chỉ
là những người nông
dân bán sức lao động giản
đơn cho các đại gia
khu công nghiệp,
hay những nhà tư bản
nước ngoài.
Trong không khí xã hội
chính trị
ảm đạm đó người ta
thấy lóe lên một
ánh sáng nho nhỏ.
Ông Nguyễn Văn Nên,
bí thư thành ủy Sài
Gòn công khai nói với báo
chí rằng ông mong
người dân lượng
thứ. Có lẽ
ông là người đầu tiên
của lịch sử Việt Nam hiện
đại xin lỗi dân chúng như vậy,
không kể những giọt
nước mắt mị dân sau cuộc
giết chóc cải cách
ruộng
đất 1955.
Người
dân sẵn
sàng lượng thứ cho
ông Nên thôi, nhưng còn hệ
thống chính trị xã
hội nhũng lạm vẫn ăn bám
trên cơ thể Việt Nam thì
sao?
|