“Thần linh pháp quyền” sao vẫn chưa có ở Việt Nam?
Nguyễn Hữu Đổng
Khái niệm “thần linh pháp quyền” được Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) nêu
ra trong bài thơ “Việt Nam yêu cầu ca” – nội dung chuyển thể từ Bản yêu
sách tám điểm của những người yêu nước An Nam gửi Hội nghị Véc-xây
(Pháp) năm 1919 – như sau: “Bảy xin hiến pháp ban hành. Trăm đều phải có
thần linh pháp quyền” [1, t. 1, tr. 472]. Đã một trăm năm trôi qua,
trong đó có hơn 40 năm đất nước hòa bình, thống nhất, nhưng tại sao Việt
Nam vẫn chưa có thần linh pháp quyền để bảo đảm các quyền được sống,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân? Để hiểu được tại sao
như vậy, trước hết cần phải nhận thức rõ tính chất, bản chất, thực chất
của “thần linh”, “pháp quyền” và mối liên hệ theo quy luật, hiện thực
khách quan giữa chúng.
Thần linh là gì?
Khái niệm (hiện tượng) thần linh bao gồm các từ “thần” và “linh”. Từ
thần trong khái niệm thần
linh là nói về “lực lượng siêu tự nhiên được tôn thờ, coi là linh
thiêng, có thể gây họa hoặc làm phúc cho người đời, theo quan niệm duy
tâm hoặc theo quan niệm của tôn giáo”, hay phần “linh hồn, yếu tố vô
hình tạo nên sức sống” [2, tr. 924]; tức thần là nói về bản chất của “sự
sống” (linh hồn) ở bên trong, tương tự như “phi vật chất sống” (sống
bằng phi vật chất) của con người.
Từ linh trong khái niệm thần
linh là nói về “điều linh thiêng” [3] của “hồn người chết” [2, tr. 570],
tương tự như thể xác (tính chất “cái chết”) hay “vật chất sống” (sống
bằng vật chất) ở bên ngoài con người. Giữa linh hồn (phi vật chất:
sự sống) và linh thiêng (vật
chất: cái chết) là tồn tại
thực chất thần linh (ý thức)
hay “tinh thần sống” (sống bằng tinh thần) của con người.
Mô hình cấu trúc giữa sự sống và cái chết của con người có thể được biểu
thị như sau: sự sống bên
trong (bản chất linh hồn: phi vật chất) –
tồn tại ở giữa (thực chất
thần linh: ý thức) – cái chết
bên ngoài (tính chất thiêng liêng: vật chất).
Theo đó, mô hình cấu trúc thực chất của thần linh trong thế giới tự
nhiên và xã hội có thể được biểu thị như sau: linh hồn (phi vật chất: sự
sống) – thần linh (ý thức: tinh thần) – linh thiêng (vật chất: cái
chết). Mô hình cấu trúc này được xuất phát từ cách tư duy khoa học như
sau: “Không có sống thì
chết cũng không có. Không có
chết thì sống cũng không có” [1, t. 7, tr. 590].
Từ các phân tích cho thấy, ở giữa hình thức phi vật chất (sự sống - linh
hồn) và vật chất (cái chết - linh thiêng) là ý thức (tinh thần - thần
linh) tồn tại cân bằng theo mô hình cấu trúc như sau: phi vật chất – ý
thức – vật chất. Theo đó, thần linh có thể được nhìn nhận là hình thức
cân bằng của ý thức tồn tại ở giữa phi vật chất và vật chất trong thế
giới tự nhiên và xã hội.
So sánh với các chữ số 3, 7, 0, thể khí nóng, lạnh và thể trạng con
người cho thấy rằng, vật chất có thể được nhìn nhận tương tự như phần
“thân” (khí lạnh: chữ số 3); phi vật chất tương tự như phần “đầu” (khí
nóng: chữ số 7); ý thức tương tự như phần “cổ” (cân bằng ở giữa khí lạnh
và nóng: chữ số 0).
Nói cách khác, trong thế giới tự nhiên và xã hội, nếu không tồn tại sự
sống con người gắn với “phần “thân” – lạnh (30℃)”
(vật chất, linh thiêng), “phần “đầu” – nóng (70℃)”
(phi vật chất, linh hồn) và “phần “cổ” – cân bằng giữa lạnh và nóng (37℃)”
(ý thức, tinh thần) [4] thì cũng chẳng có thần linh!!!
Pháp quyền là gì?
Khái niệm pháp quyền bao gồm các từ “pháp” và “quyền”. Từ
pháp trong khái niệm pháp
quyền là nói về “pháp bảo” (nguyên tắc pháp quyền), hay “phương pháp
hiệu nghiệm quý giá để giải quyết một vấn đề lớn nào đó” [2, tr. 767].
Từ quyền trong khái niệm pháp
quyền là nói về tính chất pháp quyền, hay “pháp luật hoặc xã hội công
nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi” [2, tr. 815]. Giữa pháp và
quyền là tồn tại thực chất (nguyên tắc, nguyên lý) pháp luật, pháp quyền
bảo đảm các quyền của nhân dân (cá nhân, nhóm, cộng đồng) trong quốc
gia, xã hội loài người.
Pháp luật là nói về các cơ quan lập pháp (tính chất độc lập), hành pháp
(bản chất đối lập) và tư pháp (thực chất trung lập) xây dựng, thực thi
hiến pháp, các đạo luật nhằm bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, công lý về
quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong
quốc gia, xã hội loài người.
Điều đó có nghĩa, pháp quyền có thể được nhìn nhận là khái niệm biểu
hiện thực chất hệ thống tri thức học thuật theo quy luật, hiện thực
khách quan về mô hình cấu trúc “tam quyền phân lập” (cơ chế tam quyền
phân lập) giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhằm xây dựng,
thực thi hiến pháp, các đạo luật để bảo vệ “sự thực và công lý” [1, t.
4, tr. 82], bảo đảm “luật phát triển” [1, t. 7, tr. 41], tức bảo đảm sự
công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các
cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia, xã hội loài người.
Mối liên hệ giữa thần linh và pháp quyền
Thần linh và pháp quyền có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong quốc gia,
xã hội loài người. Trong mối liên hệ giữa chúng, thì khái niệm thần linh
là nói về mục tiêu bảo vệ quyền của các loài, trong đó có loài người;
pháp quyền là nói về phương pháp thực hiện mục tiêu; còn thần linh pháp
quyền là nói về nguyên tắc bảo đảm đạt được mục tiêu.
Nguyên tắc thần linh pháp quyền là khái niệm nói về tính chất cái chết
(linh thiêng), bản chất sự sống (linh hồn), thực chất tinh thần (ý thức)
của con người trong thế giới tự nhiên và xã hội. Tôn trọng thần linh
pháp quyền tức là tôn trọng cơ chế tam quyền phân lập để bảo vệ sự sống,
sự thực và công lý, bảo đảm
“mọi quyền lực đều là của nhân
dân” [1, t. 8, tr. 262] trong quốc gia, xã hội loài người.
Điều đó cũng có nghĩa là, để bảo vệ chủ quyền nhân dân (nhân quyền), chủ
quyền quốc gia (quốc quyền hay an ninh quốc gia), tức bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân trong quốc gia, bảo vệ cộng đồng các loài, trong đó có
loài người tồn tại bền vững (lâu bền, vững chắc, lâu dài) trên trái đất
này, thì cần phải có cơ chế tam quyền phân lập, hay thần linh pháp
quyền. Cơ chế tam quyền phân lập nêu trên được coi là một phát minh vĩ
đại của khoa học xã hội và nhân văn trong xã hội loài người, do John
Locke và Montesquieu nêu ra ở tác phẩm “Tinh thần pháp luật” (năm 1748).
Những điều phân tích trên đây cho thấy rằng, thần linh pháp quyền trong
câu thơ của Hồ Chí Minh nêu ra cách đây một trăm năm là khái niệm biểu
hiện tính triết lý, khoa học và nhân văn sâu sắc. Tức mặc dù còn có
những sai lầm trong con đường cứu nước, Hồ Chí Minh có thể được coi là
người theo “chủ nghĩa dân tộc” (người yêu nước chân chính), tức biết
nhìn nhận và theo “chủ nghĩa xã hội phát triển” (thương yêu nhân loại
khổ đau) [1, t. 11, tr. 158], chứ hoàn toàn không phải là người “vô
thần” – người không có ý thức hay “mù quáng” đi theo “chủ nghĩa cộng
sản” (chủ nghĩa xã hội không
tưởng, không có ý thức sống, không biết thương yêu nhân loại khổ đau)
giống như một số đảng viên cộng sản trong chính quyền ở Việt Nam và một
số quốc gia khác hiện nay: Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba, Venezuela.
Lào.
Về thực chất, nhiều đảng viên cộng sản ở Việt Nam và các quốc gia nêu
trên đã không biểu hiện sự chân thực về tư tưởng, hành động của mình,
tức họ đã tôn thờ chủ nghĩa xã hội
chuyên chính hay
đặc sắc, tôn thờ “chủ nghĩa
cộng sản” – cụm từ không khoa học (không thật, giả dối); bởi cụm từ
“cộng sản” chỉ là tính chất (hình thức thật sự: vật chất - cái chết) chứ
không có bản chất (nội dung sự thật: phi vật chất – sự sống) và thực
chất (nguyên lý thật: ý thức – thần linh).
Tại sao đã một trăm năm trôi qua, nhưng thần linh pháp quyền vẫn chưa có
ở Việt Nam?
Thần linh pháp quyền chưa có ở Việt Nam và nhiều quốc gia khác trên thế
giới hiện nay được xuất phát bởi tư duy chưa khoa học hay tư duy chưa
thật của con người, đặc biệt là những người cộng sản; tức con người đã
không nhận thức rõ mô hình cấu trúc của khái niệm nói chung, khái niệm
“sự sống”, “ý thức”, “sự thật” (khoa học) nói riêng – cái cẩm nang để có
thể tìm ra nguồn gốc của sự sống, từ đó có biện pháp bảo vệ, duy trì sự
sống các loài, trong đó có loài người. Có hai nguyên nhân cơ bản đã làm
cho thần linh pháp quyền chưa thể có ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất,
do “tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa” của nhiều đảng viên cộng sản
[5, tr. 217].
Tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa được coi là “kẻ thù thứ nhất” của
người cộng sản. Tính kiêu ngạo này đã làm cho nhiều người cộng sản, đặc
biệt khi được làm “quan cách mạng” thì trở thành người mắc phải “nạn mù
chữ” [5, tr. 218] – “kẻ thù thứ hai” cực kỳ nguy hiểm của người cộng
sản. Do mù chữ, nên nhiều
đảng viên cộng sản là nhà cầm quyền, nhà nghiên cứu không có tư duy khoa
học về các khái niệm, như “độc lập”, “tự do”, “hạnh phúc”, “chủ nghĩa xã
hội”, “chủ nghĩa cộng sản”.
Về thực chất, quốc gia Việt Nam là
chưa có độc lập, bởi vì tư
tưởng của “đảng cầm quyền” vẫn đang bị phụ thuộc vào “ý thức hệ” của
“chủ nghĩa xã hội không tưởng” – chủ nghĩa xã hội “không phát triển”
(không tiến bộ). Về bản chất, chủ nghĩa xã hội là một cụm từ “chưa khoa
học” (chưa thật) [6]; bởi vì nó chưa rõ mục tiêu của xã hội phát triển,
chưa có phương pháp dân chủ để thực hiện mục tiêu, chưa có nguyên tắc
pháp quyền để bảo đảm đạt được mục tiêu.
Hiện nay, Đảng cộng sản Việt Nam vẫn “kiên định” tư tưởng của chủ nghĩa
Mác – Lênin, mà không biết rằng, cần phải vận dụng sáng tạo trong học
tập tư tưởng của chủ nghĩa
này: “Học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi
việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân
lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh thực tế của nước ta” [1, t. 11, tr. 611].
C. Mác, V.I. Lênin là người có tư tưởng “duy vật” (chủ nghĩa duy vật:
tính chất linh thiêng – cái chết), thiếu tư tưởng “duy lý” (chủ nghĩa
duy lý: bản chất linh hồn – sự sống), chống đối tư tưởng “duy tâm” (chủ
nghĩa duy tâm: thực chất thần linh – ý thức). Do vậy, Đảng cộng sản đi
theo chủ nghĩa Mác – Lênin tức là đi theo “chủ nghĩa duy vật” (chủ nghĩa
hình thức của “khoa học duy vật”) - chủ nghĩa đang làm “cản trở sự phát
triển của nghiên cứu khoa học về tinh thần và tâm linh” - nguồn gốc hình
thành bản “Tuyên ngôn về một nền khoa học hậu duy vật” [7].
Nói cách khác, kiên định theo chủ nghĩa Mác – Lênin tức là Đảng cộng sản
Việt Nam đã biểu hiện mức độ trầm trọng của căn bệnh chủ nghĩa hình
thức. Theo chủ nghĩa này, Đảng cộng sản đã và đang đưa cả dân tộc Việt
Nam đi vào “con đường chết” (dân tộc lạc hậu, lãng phí tài lực, nhân
lực, vật lực của quốc gia; con người mất niềm tin vào cuộc sống; đất
nước chậm phát triển, mất dần chủ quyền quốc gia vào tay thế lực của chủ
nghĩa bá quyền cộng sản Trung Quốc). Dân tộc Việt Nam chỉ có thể tồn tại
được khi các nhà cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam biết nhận lỗi lầm
trước toàn thể quốc dân, đồng bào người Việt trong và ngoài nước, vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong quá trình xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc; tức là, các nhà cầm quyền cần phải thiết thực trong phòng,
“chống chủ nghĩa hình thức, chống xa rời quần chúng. Phải trừ hết bệnh
phô trương, lãng phí” [1, t. 11, tr. 473].
Thứ hai,
do sự “giáo điều” (kinh nghiệm chủ nghĩa) của nhiều đảng viên cộng sản
[1, t. 7, tr. 575].
Hiện nay, nhiều “trí thức” (trí thức của Đảng cộng sản chứ không phải
“trí thức của nhân dân”), đặc biệt là các nhà khoa học nghiên cứu pháp
luật, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong “Hội đồng lý luận trung
ương” đã “thần thánh” hóa đường lối của Đảng cộng sản, không coi trọng
“đường lối của nhân dân” [1, t. 8, tr. 423] (đường lối quần chúng). Các
đảng viên cộng sản này đã không biết “thực hành dân chủ rộng rãi” [1, t.
15, tr. 622] trong Đảng nói riêng, trong quốc gia nói chung; chẳng hạn,
như: chưa bảo đảm dân chủ xã hội (tổ chức bầu cử chưa dân chủ, nhân dân
chưa được làm chủ thật sự); cấm báo chí tư nhân tổ chức và hoạt động độc
lập, trong khi Lênin đã nêu rõ rằng, đây là “hiện tượng thông thường”
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội [8].
Cấm báo chí tư nhân, dân chủ chưa thật trong quốc gia tức là các đảng
viên cộng sản trong chính quyền đã không lắng nghe
thông tin chân thật của nhân
dân, không lắng nghe sự phản biện
chân thành của các công dân, nhà báo, nhà khoa học, nhà trí thức
chân chính. Nói cách khác, Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang ngăn cản
nhân dân nói thẳng, nói thật, hay “thật thà phê bình” (phê bình chân
thành) [1, t. 7, tr. 115] các sai lầm cơ bản (không đúng đắn) của Đảng,
Quốc hội, Tòa án, Viện Kiểm sát, Chính phủ, chính quyền các cấp cả về tư
tưởng và hành động.
Các sai lầm nêu trên là biểu hiện tư tưởng, hành động phản tiến bộ
(thoái bộ, suy thoái), phủ nhận cơ chế tam quyền phân lập văn minh trong
quốc gia của các đảng viên trong Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương
Đảng cộng sản Việt Nam. Chính sự suy thoái từ “đầu não” Bộ chính trị,
Ban chấp hành trung ương Đảng đã dẫn đến những hành động độc đoán, sùng
bái cá nhân, sùng bái quyền lực, coi chủ nghĩa Mác – Lênin như một “kinh
thánh” [1, t. 7, tr. 120] của nhiều đảng viên cộng sản; dẫn đến các tệ
nạn, như: cúng bái “thần linh”, “thần thánh” (coi đảng viên lão thành có
vai trò chủ chốt trong Bộ chính trị tương tự như Chúa, Phật); cúng “oan
gia trái chủ” (giải oan, giải hạn); xây “chùa lớn” để kinh doanh, bao
cấp “doanh nghiệp nhà nước”, xây tượng đài “to, nhiều” để trục lợi, làm
mất niềm tin của nhân dân; hay tôn thờ “thần tượng” của nhiều công dân
kém trí tuệ do hậu quả của nền giáo dục “phản tiến bộ” (phản giáo dục),
tệ nạn “quan liêu, tham nhũng, lãng phí” của nhiều công dân làm việc
trong chính quyền, quốc gia nói chung, vấn nạn “đạo văn” (phản văn hóa)
trong đội ngũ trí thức trung thành với Đảng cộng sản, kiên định đi theo
chủ nghĩa xã hội chuyên chính, chủ nghĩa cộng sản nói riêng.
Các tệ nạn nêu trên đã và đang làm cho nhiều người dân Việt Nam phải
“sống nghèo khổ” (sống không đáng sống), phải “chết oan uổng” (chết
không đáng chết), phải bán “sức lao động” rẻ mạt của mình (bán sự sống:
linh hồn; bán cái chết: linh thiêng; mất niềm tin vào cuộc sống: thần
linh) – tức sống, chết, tồn tại của nhiều người dân trong quốc gia không
được hạnh phúc. Do vậy, về thực chất, thần linh pháp quyền là chưa thể
có ở Việt Nam.
Làm thế nào để có thần linh pháp quyền ở Việt Nam?
Tác giả bài viết đưa ra hai giải pháp sau đây:
Một là,
Đảng cộng sản cần phải từ bỏ vai trò là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước” ở
Việt Nam [9]. Tại sao lại như vậy? Bởi vì, về thực chất, “lãnh đạo là
làm đày tớ” [1, t. 15, tr. 292], cho nên Đảng cộng sản – tức các “công
dân ưu tú” trong nhân dân – đã và đang trở thành những người “làm đày
tớ” cho “Nhà nước” (Chính phủ, Quốc hội, Tòa án, Viện Kiểm sát tối cao).
Điều đó là trái với tư tưởng tiến bộ của Hồ Chí Minh: “Chính phủ, từ Hồ
Chủ tịch cho đến các vị ủy ban… đều là đày tớ của nhân dân” [1, t. 10,
tr. 572]. Nói cách khác, Đảng cộng sản Việt Nam cần phải từ bỏ vai trò
lãnh đạo của mình trong quốc gia Việt Nam là bởi vì nhiều đảng viên, đặc
biệt là Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương đã và đang không “biết
lãnh đạo” [10], hơn nữa, đang hành động trái với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nếu Đảng cộng sản còn muốn giữ vai trò lãnh đạo của mình trong quốc gia,
thì cần phải thay đổi tên Đảng, tên nước, thay đổi chế độ, để xã hội
tiến bộ, phát triển bền vững; thay đổi thiết chế chính quyền, để hình
thành nên các “thể chế” văn minh trong quốc gia, như “thể chế chính trị
- xã hội pháp quyền dân chủ” [11], hay các thể chế văn hóa, chính trị,
kinh tế, thực hành dân chủ, pháp quyền ở Việt Nam.
Nhìn nhận một cách hình ảnh (so sánh với Trời, Đất, Con người) như Hồ
Chí Minh hay đề cập đến, thì thể chế cũng tương tự như
ba ông thần linh từ trên Trời
(Mặt Trời, Vũ Trụ) xuống hạ Giới (Trái Đất) để giữ gìn “hòa bình và dân
chủ” [1, t. 4, tr. 104] cho quốc gia bằng các hình thức nghi lễ Tôn giáo
như sau: “thể chế kinh tế” (tính chất), tương tự như “Phật” (Phật giáo)
– quyền lợi, độc lập, vật chất; “thể chế văn hóa” (bản chất), tương tự
như “Chúa” (Chúa giáo) – giá trị, tự do, phi vật chất; “thể chế chính
trị” (thực chất), tương tự như “Đạo” (Đạo giáo) – tinh thần, hạnh phúc,
ý thức.
Các thể chế nêu trên có vai trò to lớn trong “quản trị quốc gia”. Khái
niệm quản trị “quốc gia” được nhìn nhận là khoa học (thật), còn khái
niệm quản lý “nhà nước” là “phản khoa học” (không thật) [12]. Quốc gia
Việt Nam “khó có thể phát triển được, tức “đôi chân” (thể chế kinh tế)
khó có thể đi được nếu không có sự giúp đỡ, “định hướng” đường đi bởi
các “giác quan” (thể chế văn hóa), không có sự giúp sức để loại bỏ các
rào cản, hay “mở đường” đi bởi “đôi tay” (thể chế chính trị)” [13].
Hai là,
các đảng viên cộng sản trong Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương cần
phải biết khiêm tốn, “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói
rõ sự thật” [14], tức dám thừa nhận các sai lầm, khuyết điểm của Đảng
cộng sản trước nhân dân về tư tưởng, hành động từ khi thành lập cho đến
nay; biết hy sinh lợi ích của nhóm mình (Đảng cộng sản), tức chống “chủ
nghĩa nhóm” (lợi ích nhóm vị kỷ); biết hy sinh lợi ích của cá nhân mình
(người đảng viên cộng sản), tức chống “chủ nghĩa cá nhân” (lợi ích cá
nhân vị kỷ). Chẳng hạn, như: không thể để tình trạng một mình Đảng cộng
sản độc đoán lãnh đạo, cầm quyền trong quốc gia Việt Nam; không thể để
tình trạng có trường hợp đảng viên là Tổng bí thư, ủy viên Bộ chính trị
sử dụng cả trăm, nghìn mét vuông đất của “quốc dân” (nhân dân trong quốc
gia) làm nơi thờ tự, tưởng niệm, chôn cất “thi hài” khi qua đời (chết).
Đồng thời, Đảng cộng sản (đảng cầm quyền hiện nay) cần phải tổ chức một
hội nghị “Hòa giải dân tộc” thật sự để bàn bạc cùng với các trí thức
chân thật (trí thức của nhân dân) người Việt Nam trong và ngoài nước,
mọi tổ chức chính trị, xã hội dân sự trong quốc gia, xây dựng các “đảng
chính trị” tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân; đồng thời, thông
qua bầu cử dân chủ thật sự, hình thành nên một
đảng chính trị tiên phong
(lãnh đạo) để đóng vai trò “đi đầu” (gương mẫu) “phục vụ cách mạng, phục
vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân” [1, t. 15, tr. 623] nhằm xây dựng, thực
hiện chủ nghĩa xã hội dân chủ
pháp quyền phát triển ở Việt Nam [12].
Hiện nay, Đảng cộng sản Việt Nam không phải là một đảng chính trị, mà
chỉ là “đảng cai trị” (đảng thống trị), bởi vì cụm từ “cộng sản” đã
không biểu hiện sự chân thật để bảo đảm tính khoa học của đảng chính
trị; hơn nữa, khi tình trạng tham nhũng hiện nay đã trở thành “quốc
nạn”, tức là trong quốc gia Việt Nam “còn có thể hối lộ được, thì cũng
không thể nói đến chính trị được” [5, tr. 218]. Điều đó có nghĩa,
quốc gia có Đảng cộng sản lãnh đạo, cầm quyền là quốc gia không
tồn tại “con đường chính trị đúng” [1, t. 5, tr. 625] để nhân dân có thể
đi tới các mục tiêu công bằng (độc lập), bình đẳng (tự do) và công lý
(hạnh phúc).
………………..
Tài liệu trích dẫn:
[1]
CD-ROM Hồ Chí Minh, Toàn tập,
Xuất bản lần thứ ba, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.
[2]
Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb
Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
[5]
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va - 1978.
[6]
http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_ViSaoCachMangNgaThatBai.html
[7]
https://www.trithucvn.net/khoa-hoc/tuyen-ngon-ve-mot-nen-khoa-hoc-hau-duy-vat.html
[8]
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/co-can-bao-chi-tu-nhan-o-viet-nam.html
[9] Điều 4 Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
[12]
http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_BaoVeChuQuyen.html
[13]
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-bat/item/1736-van-hoa-chinh-tri.html
[14]
Đảng cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 64.
|