Giải mã các khái
niệm bị đánh tráo
Nguyễn Hữu Đổng
Khái niệm bị đánh tráo là hiện tượng ngôn từ được con người sử dụng chưa
khoa học, xét cả về mặt hình thức (mục tiêu, học thuật), nội dung
(phương pháp, nghệ thuật) hay bản chất (nguyên tắc, sự thật). Trên thế
giới không hiếm trường hợp các nhà hoạt động chính trị, xã hội sử dụng
khái niệm bị đánh tráo một cách có chủ ý, hoặc không chủ ý do nhận thức
chưa sâu sắc, chưa khoa học. Đặc biệt, những người có quan điểm tôn thờ
“chủ nghĩa”, dạng theo chủ nghĩa “duy tâm”, hay chủ nghĩa “duy vật” như
một số người có quan điểm mác-xít, hoặc những người mắc các căn bệnh “mù
chữ”, “giáo điều”, “ấu trĩ”, “kiêu ngạo” có thể được coi là những nhà lý
luận, thực tiễn chính trị điển hình về sử dụng các khái niệm liên quan
đến chính trị bị đánh tráo.
Thế nào là khái niệm
bị đánh tráo?
Khái niệm (hiện
tượng) là sự vật tồn tại ở dạng “phi vật thể” (phi vật chất) - hiện
tượng mang tính “đối lập” với “vật thể” (vật chất).
Nhiều nhà khoa học trên thế giới ngay từ thời cổ đại đã nêu ra các mặt
đối lập của sự vật, hiện tượng.
C. Mác đã
từng viết rằng: “ở trong thời đại chúng ta, mọi sự vật đều tựa hồ như
bao hàm mặt đối lập của nó”
[1]. Các mặt đối lập cơ bản của mọi sự vật, hiện tượng đều có cấu trúc
theo mô hình: “vật thể” - “phi vật thể” - “thực thể” (mặt đứng ở “giữa”
- sự thật).
Hiện
tượng mang tính đối
lập được hiểu là
các tư tưởng hay quan điểm, quan niệm tồn tại
“ở phía đối ngược lại”
[2]
với tư tưởng,
quan điểm, quan niệm kia.
Hiện tượng đối lập mang tính vật thể là muốn nói đến “vật chất” (hình thức - mục tiêu), tức sự
vật mà con người
có thể nhìn, cảm thấy được bằng giác quan thường;
chẳng hạn, con người có thể nhìn thấy cái nhà, vật dụng, hay thể trạng
con người. Hiện tượng đối lập mang tính
phi vật thể
là muốn nói đến
“phi vật
chất” (nội
dung - phương pháp), tức hiện tượng mà con người
khó có thể nhìn, cảm thấy được bằng giác quan thường;
chẳng hạn,
con người khó
có thể nhìn thấy
âm thanh,
quan niệm,
hay
khái niệm.
Hiện tượng đối lập mang tính thực
thể là muốn nói đến “bản chất” (thực chất - nguyên tắc), tức sự vật,
hiện tượng mà con người có thể hoặc không có thể nhìn, cảm thấy được
bằng giác quan thường; chẳng hạn, con người có thể nhìn thấy “tượng
Phật”, nhưng khó có thể nhìn thấy “Phật”; hoặc con người có thể nhận
biết về hình thức, nội dung của khái niệm “xã hội chủ nghĩa”, nhưng khó
có thể nhận thấy bản chất đã
bị đánh tráo của khái niệm này.
Khái niệm hay hiện tượng mang tính đối lập được hình thành bởi “vòng
quay đối lập” của Trái Đất tự quay xung quanh nó và quay xung quanh Mặt
Trời [3]. Hiện tượng đối lập tồn tại ở dạng “hoàn hảo” (đầy đủ) và chưa
hoàn hảo. Hiện tượng đối lập hoàn hảo được hiểu là vòng quay của Trái
Đất tự quay xung quanh nó trọn một ngày đêm (24 tiếng), hoặc Trái Đất tự
quay xung quanh Mặt Trời trọn một năm (365 ngày).
Trong ngôn ngữ tiếng Việt, khái niệm hoàn hảo là muốn nói tới một “danh
từ” hoặc cụm danh từ, tức khái niệm đó phải bao hàm mặt đối lập. Chẳng
hạn, khái niệm phải bao hàm “mục tiêu” (nói), “phương pháp” (làm) và
nguyên tắc (nói và làm). Nếu không bao hàm mặt đối lập, khái niệm sẽ
chưa hoàn hảo, tức nó chưa “chính danh” (chưa khoa học); điều đó cũng
tương tự như con người chỉ nói
mà chưa làm, hay chính sách
mới chỉ có mục tiêu mà chưa có phương pháp, nguyên tắc thực hiện. Không
chính danh thì ngôn (ngôn từ) không thuận, tức khái niệm đã bị đánh
tráo.
Khái niệm bị đánh tráo được thể hiện ở rất nhiều vẻ, do có sự đa dạng
của ngôn ngữ, hay đa dạng của các chữ số, các số. Chẳng hạn, về hình
thức, chữ số 2 nếu được quay ngược đầu trên xuống dưới sẽ thành chữ số
5; chữ số 6 quay ngược trên dưới, phải trái sẽ thành chữ số 9; xếp chữ
số 1 trong số 17 sang phía sau chữ số 7 thì số 17 sẽ biến thành số 71;
xếp chữ số 0 trong số 10 sang phía trước chữ số 1 thì số 10 sẽ trở thành
chữ số 1; chuyển chữ số dương ở bên trái phương trình đại số sang bên
phải thì chữ số dương đó sẽ biến thành chữ số âm; viết thêm một chữ số
lớn hơn 0 vào trước “phân số” thì phân số sẽ trở thành “hỗn số”; hoặc
xếp chữ số 2 trong phân số ½ vào tử số thì phân số đó trở thành vô
nghĩa;..v..v..
Theo
đó, khái niệm bị đánh tráo là xuất phát bởi nhiều nguyên nhân, như có
thể do chủ ý hay không chủ ý, do yếu kém về nhận thức, hiểu biết, hay do
“nghệ thuật”, tính “thiển cận”, hoặc “thủ đoạn” khi sử dụng ngôn từ, như
sắp xếp, thay đổi, thêm, bớt không khoa học vị trí, vai trò của các
thuật ngữ, khái niệm trong cụm từ hoặc câu. Việc sử dụng khái niệm bị
đánh tráo của các nhà hoạt động chính trị, tức trong tư tưởng, đạo đức
và hành động của họ không bảo đảm mục tiêu công bằng, bình đẳng về giá
trị (độc lập, tự do, học thuật,…), quyền lợi (quyền lực, quyền uy, lợi
ích,…) hoặc tinh thần (hạnh phúc, niềm tin, công lý,…) giữa các cá nhân,
nhóm, cộng đồng, có thể được coi là sử dụng khái niệm chưa khoa học
(chưa chân thật - giả dối).
Trong thực tế, các nhà lý luận, thực tiễn chính trị khi sử dụng khái
niệm bị đánh tráo do kém hiểu biết lại thường hay có các lập luận theo
lối “ngụy biện” để bảo vệ các quan điểm, tư tưởng, hành vi sai trái,
lệch lạc của mình. Đây được coi là “rào cản” nguy hiểm của “ý thức” hệ
(phi vật chất) đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, xuất phát từ các
căn bệnh “sùng bái chủ nghĩa”,
“tham quyền”, “tham tiền”, “tham danh”, vì quyền lợi của cá nhân và của
“nhóm” (đảng phái) chứ không vì quyền lợi chung của cộng đồng quốc gia.
Các khái niệm bị
đánh tráo điển hình trong hoạt động chính trị
1)
Khái niệm bị đánh tráo điển hình
nhất
trong hoạt động chính trị là khi các nhà lý luận, thực tiễn chính trị sử
dụng khái niệm gắn với cụm từ “xã hội chủ nghĩa”. Khái niệm
xã hội chủ nghĩa được ghép lại bởi hai danh từ là “xã hội” và “chủ
nghĩa”. Xã hội là muốn nói đến
cộng đồng người (nhiều nhóm) đối lập với cá nhân (nhóm); còn
chủ nghĩa là muốn nói đến “lý luận cơ bản hướng dẫn mọi mặt hoạt
động” [4]. Tuy nhiên, xã hội chủ nghĩa lại chỉ là một tính từ, bởi danh
từ chủ nghĩa chỉ là yếu tố
“ghép sau để cấu tạo tính từ” [5]. Điều đó có nghĩa, khi xếp khái niệm
chủ nghĩa trong cụm danh từ “chủ nghĩa xã hội” sang phía sau khái
niệm xã hội, thì khái niệm mới
(xã hội chủ nghĩa) đã bị đánh tráo thành khái niệm không rõ nghĩa (vô
nghĩa), tương tự sau khi lấy toàn bộ các chữ số ở
mẫu số của một phân số ghép
vào tử số, thì số mới biến
thành một số vô nghĩa như đã được phân tích ở phần trên. Còn trong thực
tế, con người cũng chỉ xây dựng được xã hội
thịnh vượng, dân chủ, công bằng,
văn minh, chứ không thể xây dựng được xã hội
chủ nghĩa. So sánh một cách
hình ảnh với vòng quay đối lập hoàn hảo nêu ở trên thì khái niệm xã hội
chủ nghĩa là không hoàn hảo (không khoa học), tương tự Trái Đất mới chỉ
quay được ½ vòng xung quanh nó hay ½ vòng xung quanh Mặt Trời.
Điều đó cho thấy, các khái niệm có đuôi ‘xã hội chủ nghĩa’ là đều không
khoa học, xét về mặt học thuật. Chẳng hạn, các khái niệm sau đây đang sử
dụng rộng rãi ở Việt Nam được coi là các danh từ, cụm danh từ không khoa
học, tức chưa chính danh về ngôn từ (chưa rõ nghĩa), đó là:
Tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam gắn với sự “mong muốn” của các nhà hoạt động chính trị kiên
định theo lập trường của “chủ nghĩa xã hội khoa học” (năm hình thái kinh
tế - xã hội), tức theo quan điểm chính trị mác-xít, là xây dựng một nước
Việt Nam có xã hội công bằng, bình đẳng (không còn người bóc lột người),
xã hội văn minh hơn các xã hội “tư bản chủ nghĩa” - khái niệm cũng thuộc
loại bị đánh tráo như khái niệm xã hội xã hội chủ nghĩa đã được phân
tích. Do đó, cụm danh từ cộng hòa xã hội chủ nghĩa là không rõ nghĩa,
tức không khoa học - bị đánh tráo.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với sự mong muốn của các nhà chính trị
mác-xít, là xây dựng một chế độ “dân chủ vô sản” (đa số), tiến bộ hơn
nhiều lần “dân chủ tư sản” (thiểu số) - các khái niệm cũng thuộc loại bị
đánh tráo. Bởi vì khái niệm dân
chủ là khoa học, nhưng sau khi xếp thêm khái niệm vô sản hoặc tư sản
vào đằng sau nó thì bản thân khái niệm dân chủ đó lại trở thành không
khoa học. Điều đó có nghĩa, dân chủ vô sản hay dân chủ tư sản đều chỉ là
các khái niệm bị đánh tráo từ dân chủ là khoa học thành dân chủ không
khoa học, tức dân chủ “một chiều” không có đối lập.
Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa
gắn với sự mong muốn của các nhà chính trị mác-xít, là xây dựng một nhà
nước “vô sản” (nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân) khác với
nhà nước “tư sản” (nhà nước của giai cấp tư sản). Nhưng nhân dân lại gồm
“bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử
khác yêu nước” [6], tức nhân dân bao gồm nhiều nhóm mang tính chất đối
lập, như Cụ Hồ (Hồ Chí Minh) đã từng nói. Do vậy, nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa về thực chất, chỉ là nhà nước dân chủ có một nửa (nửa
vời), nhà nước chỉ riêng của “giai cấp vô sản” - khái niệm phản khoa
học, tức khái niệm vô nghĩa (bị đánh tráo).
Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
gắn với sự mong muốn của các nhà chính trị mác-xít, là phát triển nền
kinh tế thị trường nhưng không hướng tới xã hội “tư bản chủ nghĩa” - xã
hội có khái niệm bị đánh tráo như xã hội xã hội chủ nghĩa đã được phân
tích ở trên. Về thực chất, kinh tế thị trường ở quốc gia nào cũng đều
muốn hướng tới xã hội tiến bộ, công bằng, dân chủ và giàu mạnh. Tức mọi
khái niệm gắn với xã hội chủ nghĩa trong nhiều trường hợp khác, như chế
độ xã hội chủ nghĩa, tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ
nghĩa, thi đua xã hội chủ nghĩa, yêu nước xã hội chủ nghĩa, văn hóa xã
hội chủ nghĩa… đều chỉ là các khái niệm không khoa học - vô nghĩa
(bị đánh tráo).
Các danh từ có gắn với khái niệm xã hội chủ nghĩa nêu trên đều dựa trên
cơ sở lập trường, quan điểm theo thiên hướng “chủ nghĩa”, tức “chủ nghĩa
xã hội” - chủ nghĩa gắn với sự
mong muốn đạt được các mục tiêu xã hội tốt đẹp. Do vậy, về thực
chất, tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là muốn nói đến thể
chế cộng hòa “có tính chất của chủ nghĩa xã hội” [7], hay thể chế cộng
hòa theo quan điểm chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là một danh từ,
tức tồn tại hiện tượng đối lập giữa mục tiêu và phương pháp. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy, nội dung (phương pháp), bản chất (nguyên tắc) của thể
chế trong chủ nghĩa xã hội chuyên chính (một đảng cầm quyền) lại không
muốn áp dụng nguyên tắc “pháp quyền” (nguyên tắc bảo đảm công bằng, bình
đẳng về giá trị, quyền lợi, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân) và
không muốn áp dụng thiết chế nhà nước dân chủ “kiểu tư sản” [8] như
Lênin đã từng nhận ra điều sai lầm này, tức những người theo chủ nghĩa
xã hội chuyên chính là không muốn áp dụng thể chế nhà nước “tam quyền
phân lập”.
Điều đó có nghĩa, thể chế cộng hòa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
là mới chỉ đề cập đến mục tiêu tốt đẹp, chứ không thật sự đề cập đến
việc sử dụng phương pháp dân chủ, nguyên tắc pháp quyền, tức không sử
dụng “thần linh pháp quyền” [9] một cách thật sự để bảo đảm giá trị,
quyền lợi, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân trong quốc gia như Cụ Hồ
đã từng nêu trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới trưởng đoàn
các nước tham dự Hội nghị Vécxây cách đây gần một thế kỷ.
Tức về thực chất, thể chế quốc gia cộng hòa xã hội chủ nghĩa gắn với
hình thức chuyên chính (một đảng) ở Việt Nam hiện nay là thuộc về thể
chế quân chủ (phi dân chủ) của một “nhóm” (Vua tập thể) [10] đảng viên
bảo thủ (giáo điều) trong Đảng cộng sản, tức thể chế “không dựa vào pháp
luật” [11] để quản trị quốc gia, mà dựa vào “sức mạnh” của chính quyền
nhà nước như Lênin đã từng áp dụng vào thời kỳ đầu cầm quyền của mình -
thời kỳ có nhiều “sai lầm của chúng ta” [12]. Do vậy, có thể thấy rằng,
thể chế cộng hòa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là thiếu dân chủ, tức dân
chủ mới chỉ ở mục tiêu (lời nói) - dân chủ “một nửa”.
2)
Các khái niệm bị đánh tráo khá
điển hình
trong hoạt động chính trị là khi các nhà lý luận, thực tiễn chính trị
theo quan điểm chủ nghĩa “duy vật” mác-xít, như ở Trung
Quốc, Việt Nam, đã sử dụng một số khái niệm chưa khoa học, như
“diễn biến hòa bình”, “quân đội làm kinh tế”, “bộ chính trị”, hay “đảng
lãnh đạo nhà nước”. Các khái niệm này về thực chất chỉ là con đẻ của
khái niệm xã hội chủ nghĩa bị đánh tráo.
Trong khái niệm
diễn biến hòa bình, diễn
biến là muốn nói đến phát triển theo một chiều hướng nào đó, như bằng
bạo lực, chiến tranh hay hòa bình, theo con đường xã hội chủ nghĩa hay
chệch hướng sang tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, xã hội chủ nghĩa hay tư
bản chủ nghĩa đều chỉ là các khái niệm bị đánh tráo; tức diễn biến hòa
bình là khái niệm không rõ nghĩa, ẩn chứa điều giả dối. Khi chuyển cụm
từ diễn biến trong khái niệm
diễn biến hòa bình sang phía
sau cụm từ hòa bình, thì khái
niệm mới (hòa bình diễn biến) lại biểu hiện tính chất nhân văn của con
người. Bởi hòa bình là muốn nói đến phát triển trong “hài hòa”, “thanh
bình” không có chiến tranh; tức con người mong muốn có hòa bình diễn ra
trong xã hội luôn có những mâu thuẫn, biến động khách quan. Trong thực
tế, không ai muốn chiến tranh diễn ra suốt hàng ngàn năm nay trên thế
giới, hay người Việt Nam chẳng ai muốn chiến tranh cứ diễn ra mãi cho
đến tận ngày nay vẫn chưa chấm dứt - đó là chiến tranh “ý thức” hệ giữa
những người đi theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa và những người không đi
theo xã hội chủ nghĩa. Đây thực sự đang là một bi kịch, thảm họa cho Dân
tộc Việt Nam mà nguyên nhân dẫn đến chính là chủ nghĩa xã hội (chủ nghĩa
cộng sản) chuyên chính (một
đảng) - xã hội trong đó không tồn tại các lực lượng, chính kiến mang
tính đối lập khách quan, đồng thời pháp luật không được tôn trọng trong
xây dựng và thực thi.
Trong khái niệm
quân đội làm kinh tế,
thuật ngữ quân đội là muốn nói đến những người cùng một đội ngũ của
“quân vương” (nhóm - nhà nước) trong quốc gia, có chức năng bảo vệ đất
nước, chứ không phải làm “kinh tế” - hoạt động kinh doanh kiếm lợi
nhuận. Do vậy, bản chất quân đội là không được làm kinh tế, mà chỉ có
thể tham gia sản xuất phi lợi nhuận; hơn nữa, quân đội chỉ có thể “trung
với nước” (quốc gia - nhiều nhóm) chứ không phải trung với đảng chính
trị (một nhóm) trong quốc gia. Nhìn nhận một cách hình ảnh quân đội và
kinh tế trong các chữ số nguyên hay quốc gia cho thấy, quân đội tương tự
như các chữ số “âm và dương” (nhiều nhóm - quốc gia), còn kinh tế như
chữ số “0” (nhóm trong quốc gia); các chữ số âm, dương không thể làm
thay chức năng chữ số 0 - chữ số trung gian; tương tự, quân đội không
thể làm chức năng kinh tế. Thực tế hiện nay, quân đội ở Việt Nam làm cả
chức năng kinh tế, đã và đang dẫn đến tình trạng quân đội “bóc lột” sức
lao động của nhân dân, tức “nhà nước - quân đội” đã trở thành lực lượng
cấu kết với nhau thống trị xã hội.
Trong khái niệm
bộ chính trị, thì thuật
ngữ “bộ” về thực chất là muốn nói đến cơ quan có chức năng quản trị của
nhà nước chứ không phải của đảng phái; “chính trị” là muốn nói đến chính
sách và cách thức quản trị quốc gia như thế nào để nhằm đạt được phúc
lợi chung cho cồng đồng. Điều đó có nghĩa, chính trị là hiện tượng bao
hàm mặt đối lập như Mác đã nêu ra, nhưng khi thêm thuật ngữ “bộ” trước
khái niệm chính trị, thì cụm từ bộ chính trị lại không có đối lập rõ
ràng (công khai); tức bộ chính trị
là khái niệm không khoa học (không hoàn hảo) - biểu tượng của sự độc
đoán về quyền lực trong xã hội có đối lập khách quan, nhưng bị
bộ này “trấn áp” (không cho
tồn tại). Nhìn nhận một cách hình ảnh khái niệm chính trị tương tự như
một phân số cho thấy, khi thêm một chữ số vào trước phân số đó thì nó đã
biến thành “hỗn số”, tức phi chính trị (không khoa học); hay nói cách
khác, hiện tượng chính trị như vậy đã trở thành “thủ đoạn”, vì lúc này
chính trị đã không còn “bao hàm mặt đối lập” một cách công khai, khách
quan như Mác đã nêu ra. Khái niệm bộ chính trị về thực chất là muốn nói
tới cơ quan của nhà nước - quốc gia chứ không phải cơ quan riêng của
đảng phái chính trị. Trên thế giới, các đảng chính trị trong quốc gia
tồn tại xã hội dân chủ, chỉ lập ra ban chấp hành trung ương chứ không
lập ra bộ chính trị. Tức khái niệm bộ chính trị trong đảng phái ở các
nước theo chủ nghĩa xã hội chuyên chính đã được sử dụng không khoa học
về vị trí, chức năng, hay đã bị đánh tráo trong quá trình sử dụng từ
ngữ.
Trong khái niệm
đảng
lãnh đạo nhà nước, cụm từ
“lãnh đạo” bao hàm các thuật ngữ “lãnh” và “đạo”.
Lãnh là muốn nói tới sự đảm
nhận một công việc nào đó của chủ thể, đồng thời chủ thể phải có trách
nhiệm với việc đó, tức là nói đến “lệ”, “luật”; còn
đạo là muốn nói tới đường lối
mà chủ thể phải thực hiện
Khi khái niệm lãnh đạo được
ghép sau vào một danh từ thì
sẽ xảy ra hai trường hợp: khái niệm mới sẽ là danh từ hoặc là
động từ. Chẳng hạn,
đảng lãnh đạo sẽ có thể là
danh từ hoặc động từ.
Trong trường hợp là danh từ, thì đảng lãnh đạo được hiểu là đảng phải
đạt được hai tiêu chí cơ bản: 1) đảng “tiên phong” (đi đầu, gương mẫu)
về đạo đức, lối sống của các cá nhân đảng viên (người lãnh đạo); 2) đảng
tiên phong (đúng đắn) về cương
lĩnh, chính sách của đảng do các cá nhân đảng viên cùng nhau xây dựng
nên trong các đại hội đảng, trong nghị viện. Trong các trường hợp này,
đảng hoặc các đảng viên sẽ có thể là lãnh đạo, nhưng cũng có thể là “bị
lãnh đạo” khi không có vai trò tiên phong trong tư tưởng, đạo đức lối
sống, hay đưa ra các đường lối, chính sách không khoa học; tức với tư
cách là danh từ, đảng hay những người lãnh đạo không có vai trò tiên
phong đã biến thành “phản” lãnh đạo - khái niệm gắn với uy tín của đảng,
đảng viên đã bị mất trong xã hội.
Trong trường hợp là động từ, thì đảng lãnh đạo được hiểu là cá nhân các
đảng viên có chức trách thực hiện công việc “lãnh đạo - quản lý” trong
nội bộ của đảng, hoặc trong cơ quan hành pháp của bộ máy nhà nước - quốc
gia, khi đảng đó trở thành đảng cầm quyền. Trong các trường hợp này,
đảng hoặc các đảng viên sẽ có thể giữ vị trí cầm quyền “chính đáng”,
nhưng cũng có thể là “tiếm quyền” (cầm quyền không chính đáng) khi không
có vai trò tiên phong trong tư tưởng và hành động; tức với tư cách là
động từ, các nhà chính trị thực tiễn không tiên phong đã biến thành “bị”
lãnh đạo - khái niệm gắn với uy quyền (cầm quyền hay quyền lãnh đạo) của
đảng, đảng viên đã bị mất trong xã hội.
Điều đó có nghĩa, trong cả hai trường hợp, đảng lãnh đạo là muốn nói đến
hoạt động không sử dụng quyền lực của các cá nhân đảng viên trong xây
dựng và thực hiện các đường lối, chính sách. Tuy nhiên, trong thực tế
nhiều năm ở Việt Nam, các nhà cầm quyền của quốc gia (Đảng Cộng sản) lại
sử dụng chưa minh bạch, rõ ràng khái niệm
lãnh đạo - quản lý (chỉ đạo)
trong cụm từ “Đảng lãnh đạo Nhà nước” (Đảng phục vụ Nhà nước), tức
tập thể đảng (Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương) chưa rõ chức
năng của mình là chỉ đạo hay
lãnh đạo (phục vụ) nhà nước, tương tự như sử dụng sai lầm cụm từ “chính
trị phục vụ bộ máy” [13] nhà nước trong thời kỳ ngay sau Cách mạng tháng
Mười Nga (1917). Cụm từ “đảng lãnh đạo nhà nước” (chính trị phục vụ bộ
máy) được Lênin nêu ra, và sau đó chính Cụ đã nhận thấy cụm từ này chưa
khoa học (thiếu tính học thuật), nhưng chưa kịp sửa sai. Điều đó có
nghĩa, các nhà cầm quyền ở Việt Nam hiện đang sử dụng khái niệm bị đánh
tráo nhưng đã không nhận ra, hay do “bảo thủ” mà không dám nhìn thẳng
vào sự thật này. Về thực chất, Đảng lãnh đạo ở Việt Nam do áp dụng
phương pháp chuyên chính (quản
lý, chỉ đạo - dùng quyền lực của một đảng) nên đã ngày càng thoái hóa
dần, trở thành “bị lãnh đạo”, tức không có vai trò lãnh đạo. Cụm từ
Đảng lãnh đạo Nhà nước (bắt đầu đưa vào Hiến pháp năm 1980) đang sử
dụng trong các văn bản nghị quyết của Đảng, Hiến pháp năm 2013, về cả
hình thức và nội dung đều cho thấy rằng, những người
tiên phong (tiến bộ) trong nhân dân lại đang phải “làm đầy tớ” (phục
vụ) nhà nước (chính phủ), chứ không đúng theo quan điểm “chính phủ phải
là đầy tớ”, và “nhân dân là ông chủ nắm chính quyền” như Cụ Hồ đã từng
nói đến [14], [15]. Nói cách khác, hiện nay Đảng cộng sản là không xứng
đáng giữ vai trò lãnh đạo, và đang cầm quyền không chính đáng (chính
danh) ở Việt Nam.
Do vậy, thể chế cộng hòa xã hội chủ nghĩa gắn với mô hình Đảng lãnh đạo
Nhà nước là thiếu dân chủ. Về thực chất, thể chế này là mô hình độc đoán
của “tập thể” (nhóm) trong việc thống trị cộng đồng (quốc gia), đang làm
chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không chỉ dẫn đến
đất nước bị xâm lược “mềm” từ
giặc ngoại xâm, tức bị quốc gia khác xâm chiếm vùng biển, đảo, khoảng
“không gian” (phi vật thể), con
người Việt Nam bị “bóc lột” kiểu mới một cách kín đáo bởi quốc nạn
tham nhũng, lãng phí, mà còn dẫn đến
đất nước bị đồng nhất về văn hóa
bởi “chủ nghĩa bá quyền” ý thức hệ tư tưởng trái với trào lưu tiến bộ xã
hội loài người. Lúc sinh thời, Cụ Hồ đã từng có lần cảnh báo rằng: “Lúc
nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái
lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [16]. Mất
đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam hiện nay chính là do xuất
phát từ thể chế mang tính độc đoán của Đảng cộng sản - tiêu biểu của ý
thức hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa - tư tưởng phản khoa học (bị đánh
tráo). Và do đó, khái niệm “suy thoái tư tưởng”, “thế lực thù địch”, hay
“lực lượng phản động”… mà Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương Đảng
nêu ra, về thực chất, lại chính là nói đến những đảng viên cao cấp trong
các cơ quan này đang có tư tưởng suy thoái hay “thoái bộ” [17] (bảo thủ,
không muốn tiếp thu ý kiến phê bình, phản biện), trở thành những phần tử
có các quan điểm phản động (phản tiến bộ) đối với Dân tộc Việt Nam.
Thay cho lời kết
Sử dụng khái niệm bị đánh tráo thường gắn với thực tế hoạt động của các
nhà lý luận, thực tiễn chính trị thiếu tư duy sáng suốt và sáng tạo, mắc
căn bệnh “quan liêu” bắt nguồn từ các quan điểm, ý thức hệ tư tưởng mang
tính phi vật chất, như “ấu trĩ”, “giáo điều”, “dốt nát”, “bảo thủ”, “kiêu
ngạo”; điều đó tạo nên các hoạt động, hành vi mang tính
vật chất, như “cách mạng” bạo
lực, “thù hằn” và “đấu tranh” giai cấp trong nội bộ cộng đồng dân tộc,
dẫn đến tác hại vô cùng lớn cho tổ quốc và nhân dân. Tác giả bài viết
này nhận thấy rằng, việc sử dụng các khái niệm bị đánh tráo ở Việt Nam
hiện nay là cực kỳ nghiêm trọng, nhưng không hẳn là do chủ ý. Đây chủ
yếu là do nguyên nhân xuất phát từ “kẻ thù nguy hiểm” bởi “tính kiêu
ngạo cộng sản chủ nghĩa” [18] như Lênin đã nhận ra sau những sai lầm
trong thời gian cầm quyền của mình, do nạn “mù chữ” (giặc dốt) chưa bị
đẩy lùi như các Cụ Hồ (Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh), Cụ Phan (Phan Châu
Trinh) đã từng nêu ra cách đây gần một thế kỷ [19]. Do vậy, các nhà khoa
học còn có lương tri, đại biểu Quốc hội, các nhà cầm quyền của quốc gia
hiện nay cần phải thật sự “tỉnh táo”, nhận thức rõ
thể chế xã hội chủ nghĩa là thiếu
dân chủ, và vô cùng nguy hiểm cho Dân tộc Việt Nam; hãy sáng suốt,
và dám nhìn thẳng vào sự thật sai lầm như cách đây 30 năm, khi bắt đầu
“đổi mới” (sửa sai) về kinh tế, cần tiếp tục đổi mới thật sự cả về kinh
tế, chính trị và văn hóa, tức loại bỏ hệ tư tưởng giáo điều, chưa khoa
học của chủ nghĩa xã hội chuyên
chính có một đảng “toàn trị”, xây dựng
chủ nghĩa xã hội dân chủ của
nhiều đảng “quản trị” đất nước thông qua phát triển nền kinh tế thị
trường hiện đại, hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
và xã hội dân chủ thật sự - xã hội trong đó, có các đảng phái, tổ chức
hội được tự do thành lập, hoạt động, đồng thời biết tôn trọng và hợp
tác, đoàn kết với nhau, đưa Việt Nam sánh vai cùng với các nước dân chủ
trên thế giới hướng tới các mục tiêu quốc gia thịnh vượng, dân chủ, công
bằng và văn minh trong xã hội loài người.
…………. [1]
C. Mác và Ph. Ăngghen
(1993), Toàn tập, Tập 12, Nxb
CTQG, Hà Nội, tr.40.
[2], [4], [5], [7] Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ
điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, tr. 1049, 174, 174, 1140. [3] Xem:
http://kienthuc.net.vn/giai-ma/vi-sao-so-0-duoc-ky-hieu-bang-hinh-tron-huyen-bi-673093.html
[6], [15]
Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 7,
Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 219, 218-219.
[8] V.I.Lênin, Toàn tập,
t. 33, Nxb Tiến bộ, M, 1977, tr. 121.
[9] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 1,
tr. 438.
[10] Xem:
http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/hoc_gia_viet_nam_sup_do_lien_xo_tien_do_chu_nghia_xa_hoi-2.html
[11] V.I. Lênin, Sđd, t. 41,
tr. 446.
[12], [18] V.I. Lênin, Sđd, t. 44, tr. 196, 217.
[13] V.I.Lênin, Sđd, t. 43,
tr. 87, 447.
[14] Hồ Chí Minh,
Sđd, t. 12, tr. 222.
[16] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 3,
tr. 217.
[17] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 9,
tr. 290.
[19] Xem:
http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tai-sao-con-nguoi-can-phai-hoc.html
|