Bảo vệ chủ quyền
quốc gia: cần tư duy “thật” của nhà cầm quyền
Nguyễn Hữu Đổng
Bảo vệ chủ quyền quốc gia Việt Nam phụ thuộc trước hết vào các nhà cầm
quyền phải có tư duy “thật” (tư duy khoa học, tư tưởng tiến bộ). Cũng
như muốn đánh thắng kẻ thù xâm hại chủ quyền quốc gia thì cần phải hiểu
biết thực chất thật của kẻ
thù đó. Tức hiểu biết rõ và phòng chống kẻ thù “nội xâm” (bên trong: bản
chất sự thật), kẻ thù “ngoại xâm” (bên ngoài: tính chất thật sự), kẻ thù
“trong lòng” (toàn diện: thực chất thật) thì các nhà cầm quyền mới có
thể quy tụ được sức mạnh đoàn kết của nhân dân để bảo vệ vững chắc chủ
quyền quốc gia.
Chủ quyền quốc gia
là gì?
Quốc gia là khái niệm biểu hiện hệ thống tri thức “học thuật” (tri thức
khoa học do học tập, nghiên cứu mà có) [1, tr. 454] về bản chất nhóm
(tập thể), tính chất cá nhân (cá thể), thực chất cộng đồng người (xã
hội) – quốc gia, nhân dân trong một “nước”. Tức quốc gia là nói về “nhân
dân” – lực lượng bao gồm tất cả các cá nhân, nhóm, cộng đồng, hay tất cả
“công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước”
[2, t. 8, tr. 264]. Cá nhân là khái niệm nói về công dân, người dân
thường; nhóm là khái niệm nói về tổ chức đảng phái, chính quyền, xã hội
dân sự; cộng đồng là khái niệm nói về dân tộc, giới, tôn giáo.
Chủ quyền là khái niệm nói về “quyền làm chủ của một nước trong các quan
hệ đối nội và đối ngoại” [1, tr. 179]. Tức chủ quyền có thể được nhìn
nhận là khái niệm biểu hiện hệ thống tri thức học thuật về bản chất chủ
quyền lãnh hải (biển, khí trời), tính chất chủ quyền lãnh thổ (đất nước,
đảo), thực chất chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải (đất nước, biển đảo, khí
trời) của nhân dân. Tức chủ quyền quốc gia là khái niệm biểu hiện hệ
thống tri thức học thuật về quyền “là chủ” (tính chất), làm chủ (bản
chất), dân chủ (thực chất) của nhân dân – chủ quyền nhân dân trong quốc
gia. Mô hình cấu trúc thực chất của chủ quyền quốc gia được biểu thị như
sau: “công quyền” (bản chất: quyền hạn của đại biểu dân cử, nhân viên,
thẩm phán trong chính quyền dân sự) – “nhân quyền” (thực chất: quyền lực
của nhân dân trong quốc gia) – “dân quyền” (tính chất: quyền lợi của
công dân, người dân trong xã hội dân sự).
Tư duy “thật” về chủ
quyền quốc gia là gì?
Thật
là khái niệm “gốc”
(nguồn gốc) hình thành nên các khái niệm “khoa học” – khái niệm “thật”
(khái niệm hoàn chỉnh). Khái niệm
thật có mô hình cấu trúc theo quy luật, hiện thực khách quan như
sau: “bản chất sự thật – thực
chất thật – tính chất
thật sự” [3]. Bản chất sự
thật là nói tới hiện tượng bên trong (chuyển động cân đối); tính chất
thật sự là nói tới sự vật bên ngoài (bất động cân bằng); còn thực chất
thật là nói tới sự vật, hiện tượng ở giữa (vận động hài hòa) phát triển
trong thế giới tự nhiên và xã hội loài người.
Tức tư duy
thật là khái niệm biểu hiện
thực chất hệ thống tri thức học thuật về
mối liên hệ theo quy luật, hiện thực khách quan giữa tính chất (mục tiêu
phát triển), bản chất (phương pháp thực hiện mục tiêu phát triển) và
thực chất (nguyên tắc bảo đảm đạt được mục tiêu phát triển) của tư duy
phát triển.
Con người tư duy thật sẽ nhận thức được thực chất “con đường dân chủ”
[2, t. 4, tr. 471], “con đường phát triển” [2, t. 10, tr. 272] của quốc
gia là phải có “mục
tiêu hướng tới độc lập mang
tính “nhân quả” (đầu - cuối), có phương pháp thực hiện mang tính
đối lập “song hành” (phải -
trái) và nguyên tắc thực hiện mang tính
đối lập, độc lập “trung gian”
(ở giữa)” [4]. Tức tư duy thật về chủ quyền quốc gia là công dân nói
chung, nhà cầm quyền nói riêng biết nhận thức rõ về khái niệm
nhân quyền
hay “chủ quyền nhân dân” trong quốc gia.
Bảo vệ chủ quyền
quốc gia được hiểu như thế nào?
Bảo
vệ chủ quyền quốc gia là bảo vệ đất nước, biển đảo, khí trời; bảo vệ
công quyền, nhân quyền, dân quyền. Bảo vệ công quyền là bảo vệ chính
quyền của nhân dân; bảo vệ dân quyền là bảo vệ quyền con người; bảo vệ
nhân quyền là bảo vệ chủ quyền nhân dân, hay bảo đảm “quyền làm chủ của
nhân dân” [2, t. 13, tr. 67]. Tuy nhiên, khi “chính phủ” (chính quyền
trung ương) làm hại nhân dân, không bảo đảm thật sự là của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân thì cần phải thay đổi
chính quyền đó; tức nhân dân
“có quyền đuổi Chính phủ”, thay bằng chính phủ khác để trong đó có
“những người đày tớ” thật trung thành cho mình [2, t. 5, tr. 75].
Do vậy, để bảo vệ chủ quyền quốc gia, trước hết, các nhà cầm quyền cần
phải biết bảo vệ nhân quyền, tức bảo đảm “mọi quyền lực đều là
của nhân dân” (quyền lực của
cộng đồng các dân tộc, giới, tôn giáo) [2, t. 8, tr. 262]. Mối liên hệ
giữa quyền hạn, quyền lợi, quyền lực trong quốc gia được biểu thị theo
mô hình cấu trúc như sau: quyền hạn của chính quyền (nhóm: công quyền) –
quyền lực của nhân dân (cộng đồng: nhân quyền) – quyền lợi của công dân,
người dân (cá nhân: dân quyền).
Quyền lực là của nhân dân thì trong các văn bản pháp luật không thể sử
dụng khái niệm “quyền lực nhà nước” (quyền lực của Nhà nước) như Điều 2,
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã xác định; hay không thể tư duy phản khoa
học, như: “nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, luật pháp” [5] mà Tổng
Bí thư – Chủ tịch nước đã có lần nêu ra. Tức là, cần phải tư duy đúng
đắn khái niệm khoa học về “quyền lực”; đồng thời tư duy lại cụm từ “nhà
nước” đang được sử dụng rộng rãi trong các văn bản pháp luật, chính sách
của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền các cấp ở Việt Nam.
Nhà nước bao gồm các từ “nhà” và “nước”. Từ
nhà trong cụm từ nhà nước là
nói tới “Tập hợp những vua cùng một dòng họ kế tiếp nhau trị vì” [1, tr.
699]; từ nước trong cụm từ
nhà nước là nói tới “quốc gia” (nước nhà, tổ quốc) [1, tr. 811]. Tức nhà
nước là cụm từ gắn với chế độ phong kiến kiểu mới; bởi vì vẫn còn từ
“nhà” - khái niệm nói về “nhà vua” (dòng họ nhà vua truyền ngôi cho con,
cháu để cai trị). Do vậy, nhà nước là một khái niệm không thật (giả dối
- không khoa học). Về thực chất, cụm từ nhà nước (the State) là nói tới
“chính quyền dân sự” của một nước (quốc gia) [6]. Chính quyền “dân sự”
(chính quyền của nhân dân) là khác với chính quyền “quân sự” (chính
quyền của một nhóm độc đoán cầm quyền). Điều đó có nghĩa là, không thể
sử dụng các khái niệm có liên quan tới cụm từ nhà nước, như: “bí mật nhà
nước”, “kinh tế nhà nước”, “doanh nghiệp nhà nước”, “lợi ích nhà nước”,
“ngân sách nhà nước”, hay “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
được ghi nhận trong các văn bản Luật, Hiến pháp Việt Nam.
Cụm từ liên quan tới nhà nước
trong các văn bản pháp luật nêu trên là biểu hiện thực chất về khái niệm
thiếu liêm chính học thuật, hay vấn nạn “đạo văn” (ăn cắp) tri thức của
con người. Đây chính là một trong các nguyên nhân (thủ phạm) dẫn đến
nhiều tệ nạn xã hội, đặc biệt về giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Chẳng
hạn, như dẫn đến căn bệnh “quan liêu” (làm “quan cách mạng”, tư tưởng
chủ quan, “kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa”), làm cho văn hóa Việt Nam hiện
nay “xuống cấp” [7]; quốc nạn “tham nhũng” (quan tham, nhũng nhiễu để ăn
cắp, chiếm đoạt đất, quyền lợi, giá trị, môi trường sống của người dân),
làm cho kinh tế Việt Nam có tăng trưởng nhưng đất nước vẫn “không chịu
phát triển” [8]; tệ nạn “lãng phí” (mất đất, nước, biển, đảo, bầu trời,
khí quyển, chủ quyền), làm mất niềm tin của nhân dân vào chế độ, vào “sự
thực và công lý” [2, t. 4, tr. 82]. Do vậy, các cụm từ liên quan tới nhà
nước không khoa học nêu trên cần phải được thay đổi bằng các khái niệm,
như: bí mật quốc gia, kinh tế quốc gia (kinh tế quốc dân), doanh nghiệp
hoạt động công ích, lợi ích quốc gia, ngân sách quốc gia, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa hay quốc gia Việt Nam Cộng hòa.
Thực chất chủ quyền
quốc gia Việt Nam hiện nay
Qua hàng nghìn năm, chủ quyền đất nước (quốc gia) Việt nam luôn được bảo
vệ, giữ vững. Tuy nhiên, từ sau Hiệp định Giơneve (năm 1954) đến nay,
chủ quyền quốc gia Việt Nam luôn bị đe dọa, xâm hại và đang bị mất (gặm
nhấm) dần: Năm 1956 và năm 1974 toàn bộ quần đảo Hoàng sa của Việt Nam
bị chính quyền Trung Quốc (CQTQ) xâm chiếm (nhân dân Trung Quốc chỉ là
nạn nhân bị bắt phải cầm vũ khí đi xâm chiếm). Năm 1979, CQTQ mở đầu đợt
xâm lược, lấn chiếm lãnh thổ đất liền ở các tỉnh biên giới phía bắc. Năm
1988, một số đảo chìm và đảo Gạc Ma bị CQTQ cưỡng chiếm. Năm 2009, CQTQ
tuyên bố công khai với thế giới về sự xâm lược “mềm” đối với
nước Việt Nam và một số nước
trong khu vực bằng cách áp đặt chủ quyền phi pháp “đường chín đoạn” trên
biển Đông. Năm 2014, CQTQ chính thức gây chiến (chiến tranh kinh tế)
bằng đưa Giàn khoan HD981 vào sâu trong thềm lục địa Việt Nam, tạo “hỏa
mù” nhằm củng cố căn cứ quân sự (xây dựng các đảo nhân tạo) làm bàn đạp
tiếp tục xâm chiếm toàn bộ biển Đông của Việt Nam và các nước trong khu
vực. Năm 2019, CQTQ mở đầu đợt xâm chiếm vùng biển Việt Nam bằng việc
đưa các dàn khoan thăm dò vào bãi Tư chính sau khi xây dựng xong căn cứ
quân sự tại các đảo nhân tạo.
Do vậy, về thực chất, chủ quyền quốc gia Việt Nam đã và đang bị CQTQ xâm
hại (gây chiến tranh) vừa theo kiểu cũ, vừa theo kiểu mới. Chiến tranh
kiểu cũ (tính chất: truyền thống) là nói về chiến tranh bằng bạo lực
(quân sự) của “đế chế” (vương quốc) này thực hiện giết người trên lãnh
thổ, đất liền, hải đảo của vương quốc khác. Chiến tranh kiểu mới (bản
chất: phi truyền thống) là nói về chiến tranh bằng phi bạo lực (chính
trị, kinh tế, văn hóa, pháp lý) của “chủ nghĩa bá quyền” (cường quốc
xưng bá), tức chính quyền quốc gia này làm hại nhân dân quốc gia khác.
Chiến tranh vừa kiểu cũ, vừa kiểu mới (thực chất: cai trị bằng sự ràng
buộc ý thức hệ phản tiến bộ, uy hiếp bằng sức mạnh quân sự, tạo sự phụ
thuộc về kinh tế, áp đặt lối sống) là nói về chiến tranh bằng “thực
lực”, như chiến tranh mềm (xâm phạm nước, biển, đảo), chiến tranh không
gian (xâm phạm khí, trời), chiến tranh kinh tế (ăn cắp sở hữu trí tuệ,
đất ở, bẫy nợ), chiến tranh tư tưởng (tôn thờ chủ nghĩa, tuyên truyền tư
tưởng áp đặt, vu khống, bịa đặt, nói một đằng, làm một nẻo), chiến tranh
pháp lý (tôn thờ sức mạnh của vũ khí, tiền bạc, quân đội nhằm răn đe đối
phương, bất chấp luật pháp).
Chủ quyền quốc gia Việt Nam bị xâm hại thì quyền lực của nhân dân hay
chủ quyền nhân dân (nhân quyền), quyền hạn, quyền lợi của công dân,
người dân (dân quyền, công quyền) trong chính quyền, quốc gia Việt Nam
cũng bị xâm hại. Hiện nay quyền lực ở Việt Nam là không thuộc về nhân
dân (cộng đồng, xã hội) mà chủ yếu thuộc về cá nhân, nhóm (các thành
viên có vị trí chủ chốt trong Đảng, Chính phủ, chính quyền các cấp), hay
thuộc về “quyền lực nhà nước” – cụm từ tương tự như quyền lực của “nhà
vua” được biến tướng thành quyền lực của “nhà quan” (ông quan, bà quan)
thời phong kiến kiểu mới. Bởi thời phong kiến kiểu cũ, thì “con vua lại
làm vua” (chỉ có vua ông); còn ngày nay, thì “con quan dễ được làm quan”
(có cả quan ông, quan bà).
Hãy nhìn thẳng vào sự thật để thấy rằng, ở Việt Nam trong nhiều thập kỷ
gần đây, chính quyền đã chưa bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Càng
tăng cường sự “lãnh đạo” (làm đày tớ, phục vụ) của Đảng đối với nhân dân
trong quốc gia thì quyền làm chủ của nhân dân lại càng bị xâm hại; niềm
tin của nhân dân vào Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát,
chính quyền các cấp càng bị mất dần. Vì sao như vậy? Bởi vì: “Cách lãnh
đạo của ta không được dân chủ…. Nếu ai nói chúng ta không dân chủ, thì
chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như
thế…. , cán bộ dù có ý kiến cũng
không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ,
không dám phê bình” [2, t. 5,
tr. 283].
Cần thay đổi cách
thức tư duy về bảo vệ chủ quyền quốc gia
Cách thức tư duy được biểu thị theo mô hình cấu trúc như sau: tư duy
chưa thật, chưa khoa học (sai, chưa tiến bộ) – tư duy thật, khoa học
(đúng, tiến bộ) – tư duy không thật, không khoa học (giả dối, phản tiến
bộ). Hiện nay, các nhà cầm quyền ở Việt Nam đang tư duy không thật
(không khoa học), tức có tư tưởng chủ quan, kiêu ngạo, phản tiến bộ, tư
tưởng bị suy thoái hay “thoái bộ, xuống dốc” [2, t. 8, tr. 507]. Thực tế
cho thấy rằng, nhiều năm qua các nhà cầm quyền đã chưa hiểu rõ thế nào
là bản chất, tính chất, thực chất của tư duy, lý luận, lãnh đạo, cầm
quyền, nên đã dẫn tới “mù chính trị” [2, t. 8, tr. 280]. Các nhà cầm
quyền cấp cao nhất hiện nay cũng chủ yếu chỉ tư duy về mục tiêu (tính
chất: nói) bảo vệ chủ quyền
quốc gia, chứ không coi trọng phương pháp dân chủ (bản chất:
làm), nguyên tắc pháp quyền
(thực chất: nói phải đi đôi với
làm) để thực hiện, bảo đảm đạt được mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc
gia. Phương pháp dân chủ là nói tới thực hiện
con đường dân chủ, tức nhân
dân thật sự vừa là chủ (tính chất), vừa làm chủ (bản chất) theo nguyên
tắc pháp quyền (thực chất) trong quốc gia. Pháp quyền trong quốc gia là
nói tới các nhà cầm quyền sử dụng Hiến pháp, các đạo luật quốc gia để
bảo đảm “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [2, t.
4, tr. 1] của mỗi cá nhân, nhóm, cộng đồng - nhân dân.
Điều đó có nghĩa, cần phải thay đổi cách thức tư duy nói chung và tư duy
về bảo vệ chủ quyền quốc gia nói riêng. Tức là các nhà cầm quyền cần
phải nhận thức rõ thực chất chủ quyền về đất, nước, biển, đảo, khí,
trời; chủ quyền quốc gia, công quyền, nhân quyền, dân quyền, quyền con
người. Nói cách khác, các nhà cầm quyền cần phải thật sự bảo đảm dân
quyền (quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi công dân, người dân), công
quyền (xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các dân biểu, nhân viên,
thẩm phán trong chính quyền), và nhân quyền (bảo đảm mọi quyền lực đều
thuộc về nhân dân) – thực chất bảo đảm an ninh quốc gia (an ninh nhân
dân). Theo đó, cần phải sửa đổi lại Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và nội
dung chưa khoa học trong các đạo luật; xây dựng và thực thi các đạo luật
về biểu tình, lập hội, đảng chính trị phù hợp với quy luật và hiện thực
khách quan. Chẳng hạn, pháp luật cần phải xác định rõ tính “trung lập”,
không được làm kinh tế của quân đội trong quốc gia; bởi đảng chính trị
(đảng chân chính) là khác với đảng “thống trị” (đảng thống lĩnh) – đảng
nắm toàn diện, trong đó có quân đội. Đảng nắm quân đội là tư duy chính
trị phản khoa học. Bởi về thực chất, chính quyền của nhân dân, thì: “Các
đảng phái không được có quân đội riêng” [2, t. 4, tr. 173].
Kết luận
Chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Muốn bảo vệ vững
chắc chủ quyền quốc gia thì trước hết, mỗi công dân nói chung, các nhà
cầm quyền nói riêng ở Việt Nam cần phải biết tư duy khoa học, tôn trọng
sự thật và công lý trong quốc gia, xã hội loài người. Xã hội loài người
tồn tại lâu dài, bền vững không chỉ phụ thuộc vào
vật chất sống
(quyền lợi: công bằng), mà còn phụ thuộc vào
phi vật chất sống (giá
trị: bình đẳng) và
ý thức sống (tinh thần:
công lý) của con người trong cộng đồng các loài sinh vật, thực vật, động
vật, trong đó có loài người. Tức là, cần phải nhận thức rằng: “vật chất
không thể có trước ý thức”, hay vật chất không thể “quyết định ý thức”
như các nhà triết học duy vật đã nêu ra cách đây gần hai thế kỷ [9]. Mối
liên hệ giữa vật chất, phi vật chất và ý thức của con người được biểu
thị theo mô hình cấu trúc thực chất phát triển như sau:
phi vật chất sống (giá trị:
tự do) – ý thức sống (tinh
thần: hạnh phúc) – vật chất sống
(quyền lợi: độc lập). Trong mô hình phát triển này, vật chất sống là nói
về mục tiêu phát triển (chế độ xã hội: phát triển); phi vật chất sống là
nói về phương pháp dân chủ thực hiện mục tiêu phát triển (thiết chế
chính quyền: dân chủ); còn ý thức sống là nói về nguyên tắc pháp quyền
bảo đảm đạt được mục tiêu phát triển (chính thể quốc gia: cộng hòa).
Điều đó có nghĩa là, cần phải thay đổi tên nước hiện nay trở lại tên
nước đã được xác định trong Hiến pháp Việt Nam năm 1946: “nước Việt Nam
là một nước dân chủ cộng hòa” [10].
Từ các phân tích nêu trên, tác giả bài viết nhận thấy rằng, chủ quyền
quốc gia Việt Nam hiện nay chỉ có thể được bảo vệ vững chắc khi các nhà
cầm quyền thực hiện ba giải pháp chủ yếu sau đây:
1)
Thực hiện nguyên tắc pháp quyền
quốc tế để bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Pháp quyền quốc tế được chính thức thực hiện sau khi trên thế giới hình
thành Liên Hợp Quốc. Khái niệm này được bắt nguồn từ bản Hiến pháp của
nước Mỹ. Pháp quyền quốc tế là nói về pháp luật quốc tế (Hiến chương,
các công ước của Liên Hợp Quốc) bảo vệ quyền được độc lập, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc của các dân tộc, quốc gia trên thế giới. Do
vậy, việc khởi kiện chính quyền Trung Quốc ra Tòa án quốc tế để bảo vệ
chủ quyền quốc gia Việt Nam là việc rất cần thiết, cấp bách nhất hiện
nay.
2)
Thực hành dân chủ rộng rãi để bảo
vệ chủ quyền quốc gia.
Đây là nói về xây dựng “con đường dân chủ” - con đường của toàn thể nhân
dân có lòng yêu nước thật sự, cùng nhau đoàn kết thành một khối vững
chắc, thực hiện bảo vệ, giữ vững chủ quyền quốc gia, hướng tới một nước
“Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” [2, t. 15, tr. 623]. Để
xây dựng khối đại đoàn kết tất cả các dân tộc, cần phải thực hiện ba
giải pháp cụ thể là:
Thứ nhất,
thực hiện sự hòa giải giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng người Việt Nam
có chính kiến (tư tưởng) khác nhau về
con đường phát triển đất nước
nhanh và bền vững. Theo đó, cần tôn trọng các chính kiến khác biệt, tìm
ra “tư tưởng tiến bộ” (tư tưởng của đảng chính trị phù hợp với quy luật
phát triển khách quan), xây dựng “con đường hòa bình”, “con đường chính
trị của chúng ta” đúng đắn [2, t. 4, tr. 158], nhằm thực hiện các mục
tiêu phát triển con người, xã hội, quốc gia.
Thứ hai,
thay đổi chế độ từ mục tiêu “xã hội chủ nghĩa” (xã hội không dân chủ,
không chịu phát triển) sang
mục tiêu “xã hội phát triển” - xã hội dân chủ và giàu mạnh, công bằng,
bình đẳng, văn minh; bởi vì: “Cái gì phát triển thì nhất định thắng. Cái
gì thoái bộ thì nhất định chết” [2, t. 6, tr. 281].
Thứ ba,
thay đổi thiết chế chính quyền “quân sự” - chính quyền do Đảng thống
lĩnh trong quốc gia bằng pháp luật chưa khoa học - sang thiết chế chính
quyền “dân sự” (chính quyền của đảng chính trị tiên phong) thực hiện
quản trị quốc gia bằng pháp luật khoa học, pháp quyền chân thật. Nói
cách khác, các nhà cầm quyền cần phải xây dựng chính quyền thật sự của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện quản trị quốc gia bằng
Hiến pháp, các đạo luật đúng đắn để bảo đảm quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân, tức bảo đảm sự cân đối, cân
bằng, hài hòa về môi trường sống tồn tại, sự công bằng, bình đẳng, công
lý về quyền lợi (độc lập), giá trị (tự do), tinh thần (hạnh phúc) giữa
các cá nhân, nhóm, cộng đồng.
3)
Liên minh với các quốc gia dân
chủ, lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới để bảo vệ chủ quyền
quốc gia.
Việt Nam là quốc gia chưa có dân chủ rộng rãi (dân chủ thật sự). Dân chủ
thật sự có mô hình cấu trúc thực chất như sau: dân chủ trực tiếp (bản
chất: nhân dân làm chủ chưa thật) - dân chủ thật sự (thực chất: dân chủ
nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân) - dân chủ đại diện (tính chất:
nhân dân là chủ không thật). Dân chủ nhân dân là dân chủ thật sự, tức
mọi quyền lực “đều thuộc về nhân dân” [2, t. 12, tr. 375]. Tuy nhiên, ở
Việt Nam hiện nay, quyền lực lại không thuộc về nhân dân mà thuộc về
“nhà nước” – chính quyền “quân sự” của các ông, bà “quan cách mạng” [2,
t. 10, tr. 572] như đã được phân tích ở phần trên. Do vậy, cần phải thay
đổi chế độ, thiết chế chính quyền, đồng thời liên minh với các quốc gia
dân chủ, xây dựng khối đại đoàn kết với các dân tộc, nhân dân yêu chuộng
hòa bình trên thế giới để bảo vệ chủ quyền quốc gia khỏi bị chính quyền
Trung Quốc không dân chủ chèn ép, xâm hại.
……………..
Tài liệu trích dẫn:
[1]
Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb
Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
[2] CD-ROM Hồ Chí
Minh, Toàn tập, Xuất bản lần thứ ba, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2013.
[3]
lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/2651-doi-moi-tu-duy-nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay.html
[4]
tcnn.vn/news/detail/39680/Xay_dung_chinh_sach_quoc_gia_kien_tao_phat_trien_ben_vung_o_Viet_Namall.htm
[5]
www.dangcongsan.vn/thoi-su/phai-nhot-quyen-luc-vao-trong-long-co-che-luat-phap-463763.html
[6]
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Ngôn ngữ học, Từ
điển Anh-Việt, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr. 1719.
[7]
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/vi-sao-van-hoa-viet-nam-hien-nay-xuong-cap.html
[8]
https://vtc.vn/viet-nam-la-mo-hinh-ky-la-nhat-the-gioi-nuoc-khong-chiu-phat-trien-d218155.html
[9]
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/vi-sao-vat-chat-khong-the-co-truoc-y-thuc.html
[10]
Hiến pháp Việt Nam (năm1946, 1959, 1980 và năm 1992), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội - 1995.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 15-10-19 |