TẤM LÒNG CỦA
FIDEL CASTRO ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Nguyễn Đình Bin
FIDEL CASTRO RUZ là vị
Lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Cuba, một nhà cách mạng kiệt xuất, một chiến
sỹ quốc tế đầy nhiệt huyết, thật trong sáng và hào sảng, một vĩ
nhân lỗi lạc, một anh hùng huyền thoại, một nhà hùng biện lừng danh
trên thế giới, đồng thời cũng là một người thật giản dị, nhân hậu và
quần chúng. Ông đã hiến dâng trọn đời cho độc lâp, tự do, danh dự và
hạnh phúc của nhân dân Cuba, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và con
người, cho hòa bình, bình đẳng, tự do, bác ái và nhân phẩm, chống lại
mọi áp bức, bất công trên toàn thế giới.
Đối
với Việt Nam, Fidel Castro là người bạn lớn, người đồng chí chiến đấu và
người anh em vô cùng thân thiết. Nói đến Người
có lẽ không mấy ai không nghĩ ngay tới câu tuyên bố nổi tiếng
“ Vì Việt Nam Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”.
Những lời xuất phát từ trái tim này của ông đã làm rung động
mọi trái tim Việt Nam và tất cả những con tim nhân hậu trên
khắp thế gian này, là biểu trưng cao nhất tấm lòng của Fidel
đối với sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, vì
độc lập, tự do, thống nhất đất nước cũng như xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.
Nghĩa
cử vô cùng cao đẹp đó của Fidel đã được thể hiện thật sống
động trong các phát biểu của ông về Việt Nam trước công luận. Có
lẽ trong lịch sử thế giới, từ cổ chí kim, chưa thấy một lãnh
tụ của một quốc gia nào như Fidel, liên tục
suốt 42 năm từ 1964 đến 2005,
đã lên tiếng tại gần 100 diễn đàn công khai ở Cuba và
trên thế giới - trong đó, 10 năm Mỹ xâm lược Việt Nam từ
1965 đến 1975 ông đã phát biểu 66 lần, đặc biệt chỉ trong một
năm 1972 chiến tranh ác liệt nhất 19 lần -
để bầy tỏ mạnh mẽ tình đoàn kết chiến đấu, sự ủng hộ
hết lòng của cá nhân và dân tộc mình đối với sự nghiệp chính
nghĩa của Việt Nam, một quốc gia ở cách xa đất nước mình nửa
vòng trái đất mà trước đó chưa hề có mối giao lưu nào.
Những phát biểu đó của Fidel thực sự là một kho tư liệu lịch sử vô cùng
quý giá, độc nhất vô nhị, cần phải được lưu giữ lại và giới thiệu rộng
rãi cho công chúng Việt Nam. Với nhận thức như vậy,
và cũng là để bày tỏ lòng biết ơn, nghĩa tình sâu nặng đối
với Fidel và nhân dân Cuba anh em,
một nhóm cựu lưu học sinh ở Cuba chúng tôi
đã cùng nhau sưu
tầm, dịch sang tiếng Việt toàn bộ các phát biểu này, hầu hết
là ứng khẩu, và một bài viết của Fidel về Việt Nam.
Là người đã có may mắn
nhiều lần được trực tiếp nghe Fidel phát biểu về Việt Nam, không ít
lần trong đó đã dịch đồng thời, nay do làm nhiệm vụ hiệu đính các bản
dịch tôi đã có dịp
đọc toàn bộ các phát biểu của ông. Tôi vô cùng xúc động, đặc
biệt khi đọc những bài đã được trực tiếp nghe… Tôi như được sống lại
những giờ phút ấy! Giọng nói sang sảng, hùng hồn, dáng vóc uy
nghi, phong thái rất đỗi quen thuộc của Fidel mỗi khi diễn
thuyết, những hình ảnh, âm thanh sống động cùng các cảm xúc
mãnh liệt…lại dồn dập vang lên, sống lại trong tôi!
Đọc
toàn bộ các phát biểu của Fidel thấy rất rõ là trong suốt hơn bốn
thập niên, vị lãnh tụ tối cao của Cách mạng Cuba đã luôn luôn
dõi theo sát sao từng bước cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân
dân ta chống các thế lực xâm lược ngoại bang để giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, rồi bảo vệ biên giới Tây Nam và
biên giới phía Bắc; kịp thời lên tiếng tố cáo và kịch liệt
lên án mọi âm mưu, hành động phi nghĩa, tội ác tầy trời của
bọn xâm lược và bè lũ tay sai và báo trước thất bại không thể
tránh khỏi của chúng;
phân tích rõ, hết lòng ngợi ca và ủng hộ triệt để, kịp thời
từng bước đấu tranh cũng như bày tỏ niềm tin tuyệt đối vào
thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân
ta ; nêu cao ý nghĩa quốc tế to lớn của cuộc chiến đấu đó; ca
ngợi truyền thống oanh liệt và những phẩm chất tuyệt vời của
dân tộc Việt Nam; kêu gọi các lực lượng cách mạng và nhân dân
tiến bộ toàn thế giới đoàn kết, ủng hộ mạnh mẽ sự nghiệp
chính nghĩa của Việt Nam. Những phát biểu của Fidel ở Cuba luôn
được hệ thống truyền hình, phát thanh và báo chí quốc gia
phát trực tiếp và tuyên truyền rộng rãi, không chỉ trong toàn
quốc mà ra cả quốc tế, nên là một sự ủng hộ càng quý giá
đối với sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta.
Xin đơn cử một số thí dụ:
Ngay từ ngày 02/12/1964, Fidel đã sớm cảnh báo: “ Đế quốc Mỹ…thực
tế đã bị đánh bại nhưng vẫn hung hăng dọa dẫm, tuyên bố mở rộng chiến
tranh,…đe dọa can thiệp
vào miền Bắc Việt Nam”. Thực tế, đã xẩy ra đúng như vậy. Chỉ ba
tháng sau, tháng 02 – 1965, Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc và
tháng 3 – 1965 đổ quân xâm lược vào miền Nam.
Ngay sau đó, ngày 03 – 3 – 1965, Fidel đã cực lực lên án Mỹ đang
“ tàn phá và giết chóc…ở miền Nam Việt Nam,…miền Bắc Việt Nam, phạm
những tội ác không thua gì tội ác của Hít Le, ném bom ồ ạt một đất nước
không ở trong tình trạng chiến tranh với chúng...
Chúng ta tiếc không ở gần miền Bắc Việt Nam hơn để giúp họ với tất cả
những gì chúng ta có…Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa… có nghĩa
vụ không thể thoái thác… ủng hộ và giúp đỡ nhân dân Việt Nam.”
Và chỉ 10 ngày sau, 13 – 3 – 1965, ông lại tố cáo: Mỹ “đang lợi
dụng sự chia rẽ của những người cách mạng, lợi dụng sự bất hòa đáng tiếc
của phe xã hội chủ nghĩa…để đàn áp phong trào cách mạng ở miền Nam Việt
Nam, ném bom miền Bắc…Lập trường của chúng ta chỉ có một. Đó là: phải
dành cho Việt Nam tất cả sự hỗ trợ cần thiết!…phải hỗ trợ bằng cả vũ khí
và con người! …Phe xã hội chủ nghĩa phải chấp nhận tất cả mạo hiểm cần
thiết vì Việt Nam!”
Hơn một tháng sau, ngày 19 – 4 – 1965, Fidel lại tố cáo:
“Máy
bay của Mỹ đang ném
vô tội vạ
bom na-pan, phốt pho trắng, chất độc hóa học xuống làng mạc và những
vùng đã được các lực lượng yêu nước Việt Nam giải phóng. Rồi
cũng
bất chấp luật pháp
như vậy, chúng
vượt qua giới tuyến, tấn công miền Bắc Việt Nam,
vi phạm các hiệp định quốc tế”.
Ông khẳng định lại: “Chúng
ta đoàn kết bằng lời nói và bằng hành động với nhân dân Việt Nam, cả
miền Bắc và miền Nam Việt Nam…Chính phủ Cách mạng chúng ta đã tuyên bố
rằng nếu nhân dân Việt Nam yêu cầu thì chúng ta sẵn sàng cho phép đi
Việt Nam tất cả những ai muốn làm tình nguyện quân sang chiến đấu ở Việt
Nam”.
Ngày 13 – 3 -1966, Fidel lại khẳng định:
“Chúng ta cho rằng khi nổ ra cuộc tấn công vào Việt Nam thì sự chia rẽ
trong phe XHCN đã phải ngừng lại,…phải dành cho Việt Nam mọi sự hỗ trợ
về lực lượng phòng không và lực lượng không quân,…để bảo vệ chủ quyền
của Việt Nam,…biến miền Bắc Việt Nam thành một nghĩa địa máy bay Mỹ”.
Ngày 02 – 01 – 1966, tại Quảng trường Cách mạng Jose Marti ở Thủ
đô La Habana, trước nửa triệu quần chúng tham dự cuộc mít tinh
kỷ niệm lần thứ bẩy thắng lợi Cách mạng Cuba và chào mừng
các Đoàn đại biểu các nước Á, Phi, Mỹ La tinh tham dự Hội
nghị Đoàn kết ba châu lần thứ nhất do Cuba tổ chức,
Fidel đã dõng dạc tuyên bố:
“Vì
nhân dân Việt Nam, chúng ta sẵn sàng hiến dâng không chỉ đường mà còn cả
máu của mình, là thứ còn quý giá hơn rất nhiều so với đường!”. Tôi quên
sao được giây phút xúc động,
sung sướng đến run người khi nghe và dịch đồng thời cho trưởng đoàn
nước ta đang ngồi trên lễ đài lời tuyên bố hùng hồn đó của Fidel mà
sau này đã đi vào lịch sử như mọi người biết “Vì
Việt Nam Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”, trước tiếng vỗ
tay và tiếng hô vang dậy “Việt Nam muôn năm!”, “Việt Nam nhất định
thắng!” của biển người trước mặt.
Rồi, đúng một năm sau, cũng ngày 02 – 01, cũng trong bối cảnh và với
những xúc cảm tương tự, tại quảng trường lịch sử ấy, tôi lại được nghe
và dịch đồng thời lời tuyên bố dõng dạc của Fidel đặt tên năm 1967
là “Năm Việt Nam anh hùng!” để “ nói lên tất cả” tình đoàn kết
chiến đấu với Việt Nam, giữa tiếng hoan hô rền vang và rừng
cánh tay giơ lên trước mặt, đáp lại lời ông “Những ai đồng ý
hãy giơ tay lên!”( sau cách mạng thành công Cuba đều đặt tên cho mỗi
năm để thể hiện ý chí, quyết tâm… như “năm Diệt dốt”, “ năm Cải cách
ruộng đất”, “ “năm Nỗ lực quyết định”, “ năm Người du kích anh
hùng”, “ năm 10 triệu tấn” (đường) v.v..).
Ngày 17 – 7 – 1966, tại Hội nghị chính trị toàn quốc, Hồ Chủ
tịch đưa ra lời tuyên bố nổi tiếng « Không có gì quý
hơn Độc lập, Tự do », kêu gọi toàn dân, toàn quân ta đoàn kết
một lòng, quyết đưa sự nghiệp chống xâm lược Mỹ, cứu nước tới
thắng lợi hoàn toàn. Chưa đầy 10 ngày sau, tại cuộc mít tinh
quần chúng khổng lồ ở Quảng trường Cách mạng Jose Marti kỷ
niệm ngày Khởi nghĩa vũ trang 26-7, Fidel đã dành nửa giờ phát
biểu về Việt Nam, trích dẫn nhiều đoạn lời tuyên bố của Bác
Hồ mà ông cho là « chắc
chắn sẽ đi vào lịch sử” và bày tỏ sự ủng hộ hoàn toàn của
Đảng, Chính phủ và nhân dân Cuba.
Một lần nữa Fidel khẳng định hùng hồn: “ Việt Nam đã trở thành
vấn đề của toàn nhân loại...Việt Nam là nơi đế quốc Mỹ đã tự lột trần
hết dã tâm độc ác, phản động và man rợ của chúng…Chúng đã đi vào một
đường hầm không có lối thoát...Việt Nam đang tiến hành cuộc kháng chiến
anh dũng nhất mà không một dân tộc nào từng biết đến trong thời đương
đại,…đã trở thành tấm gương độc đáo và nổi bật nhất về chủ nghĩa anh
hùng, tấm gương cao quý nhất về tinh thần yêu nước và lòng quả cảm…Với
cuộc chiến đấu của mình, nhân dân Việt Nam đang bảo vệ quyền được độc
lập và tự do không chỉ của nhân dân Việt Nam mà còn của các dân tộc khác
có thể là nạn nhân tiềm tàng của đế quốc Mỹ”.
Fidel kết thúc bài phát biểu: “Chúng ta hãy dành ngày 26 tháng 7
này cho tình đoàn kết với nhân dân Việt Nam,… cho các chiến sĩ anh hùng
ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam…Chúng ta cũng dành cho nhân dân Việt Nam…câu
khẩu hiệu của chúng ta…đang
được họ thực hiện một cách thật mẫu mực và xứng đáng: “Tổ quốc hay là
chết! Chúng ta nhất định thắng!”
Sau đòn chí mạng do cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu
thân của quân dân ta, ngày 31 – 3 – 1968 Tổng thống Mỹ L. Johnson
tuyên bố đơn phương ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở
ra, chấp nhận nói chuyện với ta và không ra tranh cử nhiệm kỳ
hai. Chỉ ít ngày sau, tại cuộc mít tinh quần chúng ngày 19 – 4
-1968, Fidel tuyên bố : « Rõ ràng quyết định này là kết quả của những
thất bại thảm hại mà nhân dân Việt Nam đã gây cho chúng. Bọn đế quốc
đang âm mưu tìm cách làm cho thất bại của chúng bớt đau đớn, tìm cách
hạn chế thắng lợi của Việt Nam. Và giờ đây, hình như có khả năng mở ra
cuộc đàm phán. Chúng ta cần bầy tỏ lập trường của Đảng ta trước những sự
kiện này…Dân tộc Việt Nam là tấm gương phi thường nhất về chủ nghĩa anh
hùng…Đảng Cộng sản Việt Nam và Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam là
những tấm gương phi thường nhất về tổ chức cách mạng và tài năng…Chúng
ta cần bày tỏ niềm tin tưởng hoàn toàn và tuyệt đối đối với Chính phủ,
Đảng Cộng sản Việt Nam và Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam...Người
Việt Nam phải biết rất rõ cái họ cần làm, họ phải làm… Người Việt Nam đã
không để kẻ thù chiến thắng trong chiến tranh thì cũng sẽ không để kẻ
thù chiến thắng bằng các thủ đoạn ngoại giao…Họ sẽ có đầy đủ khả năng
chiến đấu chính diện với những thủ đoạn đó như đã có khả năng chiến đấu
trên chiến trường ».
Ngày 08 – 5 – 1969, Phái đoàn Mặt trận DTGP tại cuộc đàm phán
Paris đưa ra « Giải pháp toàn bộ 10 điểm » để giải quyết cuộc
chiến tranh xâm lược của Mỹ chống Viêt Nam. Chưa đầy một tháng
sau, ngày 03-6-1969, tại cuộc mít tinh quần chúng quen thuộc mỗi
khi có sự kiện trọng đại ở Quảng trường Cách mạng Jose Marti,
lần này chỉ để bầy tỏ tình đoàn kết với Viêt Nam nhân dịp
đón Đoàn đại biểu Mặt trận DTGP miền Nam Việt Nam do ông Trần
Bửu Kiếm, Ủy viên Đoàn Chủ tịch, Trưởng đoàn của Mặt trận
tại cuộc hòa đàm Paris dẫn đầu, Fidel đã dành một giờ mười
phút liền để phát biểu, bầy tỏ sự ủng hộ của Cuba đối với
lập trường đúng đắn đó của Viêt Nam. Fidel đã đọc lại toàn văn
tuyên bố của Mặt trận, đồng thời trích dẫn các điểm phản đề
nghị của tổng thống Mỹ L. Johnson. Với trí tuệ uyên bác và
tài năng xuất chúng của một vị lãnh tụ, một tiến sỹ luật,
một nhà hùng biện lừng danh trên thế giới, Fidel đã mổ xẻ,
phân tích sâu sắc, toàn diện về mặt đạo lý, pháp lý và thực
tiễn từng điểm một của hai bên, từ đó nêu bật lập trường của
Việt Nam là tuyệt đối chính nghĩa, đúng đắn, hợp lý, phù hợp
với thực tế, không gì bác bỏ được, bày tỏ
sự ủng hộ hoàn toàn, tuyệt đối của Đảng, Chính phủ và
nhân dân Cuba, kêu gọi toàn thế giới ủng hộ lập trường và cuộc
đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta; đồng thời vạch trần và
cực lực lên án, bác bỏ lập trường cực kỳ phi nghĩa, phi lý
cũng như âm mưu thâm độc và tội ác tầy trời của Mỹ.
Sau
khi thăm và ký kết với Trung Quốc thông cáo chung Thượng Hải
tháng 02 – 1972, Tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh ném bom, bắn phá
lại miền Bắc vô cùng ác liệt, phong tỏa các cảng, dùng máy
bay chiến lược B-52, hòng khuất phục nhân dân ta, Fidel càng thể
hiện mạnh mẽ tình đoàn kết, ủng hộ Việt Nam. Như trên đã nói,
ông đã 19 lần lên tiếng cực lực tố cáo, lên án cuộc chiến
tranh hủy diệt của Mỹ, kêu gọi cả loài người tiến bộ ủng hộ
Việt Nam. Đặc biệt, Fidel đã tranh thủ chuyến công du Algeria và
6 nước XHCN đông Âu vào tháng 5 và tháng 6 – 1972, phát biểu tại
tất cả 14 cuộc mít tinh, chiêu đãi trọng thể chào mừng ông ở
các nước để bầy tỏ lập trường trước sau như một của Cuba đối
với cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống xâm lược Mỹ.
Fidel đã tố cáo và lên án rất kịp thời những hành động tội
ác man rợ của Mỹ phong tỏa cảng Hải Phòng, đánh phá đê điều,
cầu cống, trường học, bệnh viện, khu dân cư với những số liệu,
địa danh cụ thể theo các bản tin mới nhất của ta và các hãng
thông tấn quốc tế danh tiếng.
Fidel luôn có một niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng
của nhân dân ta và chính trong những ngày chiến tranh ác liệt
nhất năm 1972 mà Mỹ muốn đưa Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá,
ông càng bầy tỏ mạnh mẽ niềm tin đó và bày tỏ sẵn sàng giúp
Việt Nam xây dựng lại đất nước, kêu gọi quốc tế cùng chung sức
trong sự nghiệp này. Trong một cuộc mít tinh quần chúng ngày 30
– 7 – 1972, Fidel đã tuyên bố :“Chúng
ta tin vào thắng lợi của nhân dân Việt Nam và càng ngày thắng lợi lại
càng đến gần…Chúng ta đang chứng kiến những sự kiện cuối cùng…Rõ ràng,
giờ đây Việt Nam đang và sẽ là một đất nước
cần tình đoàn kết quốc tế nhất, không phải chỉ bây giờ mà cả khi
đã giành thắng lợi, khi tới thời khắc xây dựng lại đất nước đã bị bom
đạn tàn phá với các hố bom có ở khắp mọi nơi…Việt
Nam có thể trông chờ vào sự giúp đỡ rộng lớn nhất từ nhân dân các nước
cách mạng...và trong sự giúp đỡ đó…có sự giúp đỡ của nhân dân chúng ta,
từ những đồng chí sẵn sàng sang đó làm việc với sức lực của mình tới các
máy móc, trang thiết bị phục vụ xây dựng, vật liệu, xi-măng, và
các thứ cần thiết khác… Chúng
ta vui lòng thiếu đi một trường học, một bệnh viện hoặc thiếu đi 2, hoặc
3 hoặc số lượng thiếu cần thiết để giúp xây dựng ở Việt Nam”.
Trong chuyến
thăm lịch sử đầu tiên tới Việt Nam 9/1973, Fidel đã 5 lần phát biểu
rất dài,
trực tiếp
bầy tỏ
tình cảm yêu mến, quý trọng nồng hậu nhất, sự ủng hộ hoàn
toàn, triệt để, mạnh mẽ nhất đối với sự nghiệp chính nghĩa
của nhân dân ta cũng như hết lời ca ngợi ý nghĩa quốc tế to
lớn của tấm gương, bài học Việt mà ông đã luôn luôn bầy tỏ
trước đó mỗi khi có cơ hội. Fidel cũng bầy tỏ những cảm xúc,
những ấn tượng vô cùng sâu sắc khi được gặp gỡ các chiến sỹ
và đồng bào ta, khi được trực tiếp chứng kiến những hậu quả
chiến tranh khủng khiếp do Mỹ đã gây ra, cũng như khi thăm những
chiến địa nơi quân và dân ta đã lập nên những chiến công hiển
hách. Trong chuyến thăm lịch sử ấy, Fidel đã
nhất quyết yêu cầu được đi thăm “thủ phủ” của Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Cam Lộ (Quảng Trị), mặc dù lãnh đạo
ta tỏ ý ngần ngại vì lý do an toàn.
Fidel đã trở thành vị nguyên thủ nước ngoài đầu tiên và duy
nhất thăm vùng giải phóng miền Nam Việt Nam. Đứng trên đồi 241 còn đầy
chiến tích, dáng vóc uy nghi, sừng sững giữa các chiến sĩ giải phóng
quây quần xung quanh, Fidel đã phất cao lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam, giọng dõng dạc: “Các đồng chí hãy đem lá cờ
bách chiến bách thắng này cắm giữa Sài Gòn!”.Và chưa đầy hai năm sau,
điều đó đã trở thành sự thật.
Dịp đó, Fidel đã tặng Việt Nam 5 công trình lớn trị giá 80 triệu USD:
khách sạn chất lượng quốc tế Thắng Lợi 150 phòng ở Hồ Tây, Hà
Nội, “để đón tiếp khách tới thăm và phục vụ Đại hội Đảng
sắp tới”, Bệnh viện đa khoa hiện đại Đồng Hới 500 giường ở Quảng
Bình – “để chữa chạy cho các chiến sĩ miền Nam và đồng bào vùng
chiến tranh ác liệt nhất”, trại bò đực giống Moncada ở Ba Vì cùng
trại bò sữa giống Mộc Châu và trại gà giống ở Tam Đảo với những con
giống tốt nhất và trang thiết bị hiện đại nhất để phát triển chăn nuôi
bò, gà phục vụ đời sống nhân dân và con đường đặc biệt Xuân Mai
vừa phục vụ cho giao thông và khi cần sẽ biến thành đường băng
cho máy bay chiến đấu, cùng một khoản ngoại tệ để ta mua thiết bị
hiện đại mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh, chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công
mùa Xuân 1975. Khi nghe và dịch cho Fidel thông báo với lãnh đạo
ta quyết định tặng 5 công trình nói trên tôi lại xúc động nhớ 6
năm trước đó, tôi đã có may mắn dịch cho Fidel khi ông đích thân
lái chiếc xe díp đưa và hướng dẫn Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị, trưởng
đoàn Đảng và Chính phủ ta sang kỷ niệm ngày Khởi nghĩa vũ trang
26-7-1967, đi thăm nông trường chăn nuôi bò Picadura ở La Habana, chỉ
dẫn tỉ mỉ kỹ thuật chăn nuôi bò năng suất cao như thế nào. Fidel đã nói
với Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị: Sau ngày thắng lợi Việt Nam phải phát
triển chăn nuôi đại gia súc và công nghiệp chăn nuôi gà…; sữa bò và
trứng gà là thực phẩm rất tốt, nhất là cho người cao tuổi và trẻ em.
Vậy là, từ những ngày chiến tranh đang diễn ra ác liệt, vị
lãnh tụ của nhân dân Cuba đã nghĩ tới sẽ giúp đỡ Việt Nam xây
dựng lại đất nước như thế nào!
Cũng như đối với đế quốc Mỹ, với sự nhậy bén của một nhà
lãnh đạo uyên bác, sắc sảo và tình yêu nồng cháy đối với
Việt Nam, Fidel đã sớm nhìn thấy và tố cáo, lên án các âm mưu
và hành động chống phá Việt Nam của các nhà lãnh đạo Bắc
Kinh trong thập niên 70 của thế kỷ trước. Ngay từ ngày 26-7-1978,
tại cuộc mít tinh kỷ niệm ngày Khởi nghĩa vũ trang, Fidel đã
tố cáo :
“Hiện
nay, Việt Nam, Angola, Cuba, những nước nhỏ đã giành được một
uy tín vững chắc được thừa nhận trên thế giới do đã và đang
viết nên những trang sử anh hùng trong cuộc đấu tranh kiên cường, bất
khuất chống đế quốc thì đang phải chịu đựng những đòn tấn công tàn bạo,
sự thù địch và vu khống từ tập đoàn cầm quyền phản bội ở Trung Quốc...
Trong những tội ác của tập đoàn lãnh đạo Trung Quốc, điều đáng phỉ nhổ
nhất là sự thù địch của họ đối với Việt Nam. Chẳng một ai không biết
rằng đằng sau chủ nghĩa cực đoan Căm-pu-chia là chủ nghĩa mao-it và bè
lũ cầm quyền Trung Quốc. Không một ai không biết là bè lũ cầm quyền ấy
đứng sau các cuộc khiêu khích chống phá Việt Nam. Không ai không biết là
bè lũ cầm quyền ấy đứng sau cái gọi là vấn đề người Hoa do chúng dựng
lên một cách giả tạo. Hiện nay, cả một chiến dịch tuyên truyền rộng lớn
kiểu vương triều đại Hán đang được đẩy mạnh ở Trung Quốc để chống phá
Việt Nam và mọi sự hợp tác kinh tế đều bị đình chỉ. Bằng lối xử sự đầy
tội ác và vô liêm sỉ này, mọi nỗ lực xây dựng lại đất nước Việt Nam bị
chiến tranh đế quốc tàn phá dã man đang bị phá hỏng…Việt Nam,Tổ quốc của
nhà Mác-xit Lê-nin-nit khiêm tốn và nhất quán nhất trong thời đại chúng
ta, là Chủ tịch Hồ Chí Minh thân yêu được mọi người nhớ mãi, Việt Nam,
dân tộc ngàn lần anh hùng với những công trạng ái quốc và cách mạng từng
làm thế giới kinh ngạc, ngày nay cũng là nạn nhân của sự tấn công xâm
lược và sự phản bội Trung Hoa.
Mấy hôm trước, các bản tin đưa thông báo về việc nhiều tốp máy bay quân
sự Trung Quốc xâm phạm biên giới Việt Nam.
Nếu không kịp thời ngăn chặn bàn
tay tội ác, chúng ta sẽ phải chứng kiến những cuộc khiêu khích quân sự
và những cuộc tấn công xâm lược nghiêm trọng nhất của Trung Quốc chống
Việt Nam anh hùng. Chính vì vậy, chúng ta phải dành cho nhân
dân Việt Nam tình đoàn kết và sự ủng hộ kiên quyết nhất.
Đảng ta quyết định phục hồi
hoạt động của các Ủy ban Đoàn kết với Việt Nam chống lại mối đe dọa xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc đang được đám đồng minh mới hăng tiết của
chúng trong phe phản cách mạng dàn dựng, một sự việc tưởng như phi
lý”.
Đúng như Fidel đã cảnh báo, ngày 17 - 02 - 1979, Trung Quốc ồ ạt
tiến công các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta, gây ra những tội
ác tầy trời. Lập tức hàng loạt cuộc mít tinh, biểu tình diễn
ra trên cả nước Cuba, cực lực lên án cuộc xâm lược man rợ đó,
bày tỏ tình đoàn kết chiến đấu với Việt Nam. Bốn ngày sau, 21
- 02, cuộc mít tinh cấp quốc gia được tổ chức.Theo chương trình,
Fidel chỉ tham dự còn Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư tỉnh ủy La
Habana Jaime Crombet là người phát biểu.Thế nhưng, sau khi ông J.
Crombet kết thúc, Fidel đã phát biểu liền nửa giờ.
Ông nói:
“ Một trong những hành vi ghê tởm nhất, hèn hạ nhất, khốn nạn nhất mà
chúng ta chưa từng chứng kiến - và nó sẽ khó lòng bị vượt qua bởi kẻ
khác - là cuộc xâm lược này chống Việt Nam…Kế hoạch này đã được ấp ủ
trong một thời gian dài,…từ những buổi đánh bóng bàn giữa người Trung
Quốc và người Mỹ, những chuyến đi của từ Kissinger đến Nixon tới Bắc
Kinh ... Người Trung Quốc thực sự không quan tâm đến một nước Việt Nam
độc lập, một Việt Nam thống nhất và cách mạng. … Khi miền Nam chưa
được giải phóng nhưng bọn Mỹ đã rút, thì họ đã tấn công và
chiếm các đảo của Việt Nam. Rồi sau đó, tập trung can thiệp
vào Campuchia dưới chiêu bài ủng hộ cách mạng Campuchia,…dựng
lên một trong những chế độ tàn ác nhất đã được biết đến trong thời gian
gần đây…Đó là chủ nghĩa Mao…, một thứ chủ nghĩa Mao mà người Trung Quốc
thậm chí không thực hiện ở Trung Quốc nhưng lại thực hiện ở
Campuchia. Đó là một cuộc diệt chủng thực sự...Họ đã xúi giục những kẻ
phát xít Campuchia tiến hành xâm lược Việt Nam…Ngay sau khi chế độ diệt
chủng đó bị lật đổ, họ đã phát động một chiến dịch toàn cầu mạnh mẽ
chống lại Việt Nam, vì sự đoàn kết của Việt Nam với phong trào cách mạng
Campuchia, ra sức trình diện Việt Nam trước dư luận quốc tế như một
kẻ xâm lược, một quốc gia đã xâm phạm độc lập của dân tộc khác…Trong bối
cảnh đó, Đặng Tiểu Bình đến thăm Mỹ, và ở đó gã siêu vô liêm sỉ ấy
đã tuyên bố rằng phải trừng phạt Việt Nam và Cuba…Trở về nước, ông ta
đã họp Quân ủy Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc,…quyết định
khẩn trương bổ sung một lượng lớn quân đội tới biên giới với Việt
Nam, và tấn công Việt Nam…Đế quốc Mỹ và giới lãnh đạo Trung Quốc là
cùng hội cùng thuyền trong cuộc xâm lược này…Cả Mỹ và Trung Quốc
đang tìm cách tái lập chế độ diệt chủng PolPot - Ieng Sary ở Campuchia.
Đây là mục tiêu chính trị: tấn công Việt Nam chính là để Việt Nam
chấm dứt tất cả sự hợp tác và tất cả sự đoàn kết với chính quyền cách
mạng Campuchia, để thiết lập lại chế độ diệt chủng và từ đó lại bao
vây Việt Nam từ hai phía, từ phía Nam và từ phía Bắc…Bây giờ, thật
là trơ tráo...Trung Quốc đã diễn giải: họ đã bị Việt Nam xâm lược, và
họ phải phản kích.
...Các lực lượng tiến bộ, các dân tộc trên thế giới cần phải chung tay
để chặn đứng cuộc phiêu lưu này, chặn đứng mối nguy hiểm này, chặn
đứng sự điên rồ này…Không một người yêu chuộng hòa bình nào, không một
người tiến bộ nào, không một người cách mạng, hoặc tự coi mình là người
cách mạng nào trên thế giới lại không thể lên án một cách mạnh mẽ
nhất, kịch liệt nhất cuộc phiêu lưu đầy tội ác này của chính phủ
Trung Quốc.
…Chúng ta không nên đánh giá quá cao sức mạnh của Trung Quốc… Chúng ta
cũng không nên coi thường sức mạnh của Việt Nam,...một Việt Nam có một
kinh nghiệm chiến đấu phi thường, một Việt Nam sở hữu những vũ khí tuyệt
vời, và một Việt Nam không đơn độc…Không có dân tộc nào trên thế giới
tinh thông hơn dân tộc Viêt Nam về chiến thuật và chiến lược trong các
cuộc chiến tranh giải phóng, bởi vì họ đã phải liên tục đối mặt với
những kẻ thù rất mạnh. Người Việt Nam hiểu biết về chiến thuật và chiến
lược hơn người Trung Quốc ... Người Việt Nam rất khôn ngoan, họ biết
những gì họ làm rất tốt, và họ có thể để cho kẻ thù tiến vào đến đâu,
rồi đánh lại nó thế nào và khi nào, bằng cách nào… Mặc dù lũ phát xít
mới đang cầm quyền ở Trung Quốc luôn mồm nói về dân số một tỷ người,
tôi cũng không hề ngạc nhiên là chúng sẽ phải chịu một thất bại to
lớn ở Việt Nam”.
Trở lại thăm Việt Nam, ngày 10-12-1995, phát biểu tại cuộc chiêu
đãi chào mừng ông tại Hội trường Thống nhất thành phố Hồ Chí
Minh, Fidel đã xúc động nhắc lại những ấn tượng sâu sắc trong
chuyến thăm lịch sử đầu tiên tháng 9 – 1973 và bày tỏ “Thực sự
người Cuba chúng tôi đã cảm thấy mình chính là dân tộc hạnh phúc nhất
trên trái đất” khi được tin Việt Nam toàn thắng, “giấc mơ của Hồ Chí
Minh khi Người nói “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do” và “Đến ngày
thắng lợi ta sẽ xây dựng đất nước một trăm lần to đẹp hơn” đã được thực
hiện…Nhân dân Việt Nam trong nhiều thập kỷ đã đổ biết bao xương máu,
trong khi có những nước đã kinh doanh trên máu của Việt Nam…Ngày nay,
rất nhiều trong số những dân tộc này công nhận Việt Nam, ngưỡng mộ Việt
Nam, thiết lập quan hệ hòa bình với Việt Nam và hợp tác với Việt
Nam…Việt Nam đang tăng trưởng nhanh hơn bất cứ quốc gia nào khác trong
khu vực. Giờ đây, những giọt máu cao quý và hào sảng của người Việt Nam
đang mang lại phúc lợi, thịnh vượng và hạnh phúc cho người dân của mình.
Bằng cả trái tim mình, tôi muốn ôm hôn tất cả các anh hùng có mặt hôm
nay, và cả những anh hùng đã được nhắc đến ở đây. Tôi muối ôm hôn từ
những người đã ném bom tòa nhà này, những người bị tù đày nhiều năm cho
đến những thân nhân và góa phụ của các liệt sĩ đã ngã xuống”.
Trong chuyến thăm Việt Nam cuối cùng, phát biểu ngày 22- 02 –
2003 tại Lễ chiêu đãi chào mừng ông, sau khi nhắc lại những ấn
tượng sâu sắc trong hai chuyến thăm trước, Fidel đã bầy tỏ:
“ Giờ
đây, tôi lại trở lại với một nước Việt Nam đang tự hào giới thiệu thành
quả của những nỗ lực tái thiết to lớn. Chỉ mới đến đây vài tiếng đồng hồ
nhưng tôi có thể nói rằng chúng tôi vô cùng ấn tượng về những gì được
chứng kiến.
Thật đáng thán phục những gì các đồng chí đạt được sau một quãng
thời gian tương đối ngắn, từ một đất nước bị chiến tranh tàn phá. Có lẽ
vẫn
có thể
còn nhiều khó khăn, khó khăn thì luôn luôn có,
nhưng chẳng khó khăn nào thắng nổi
ý chí quyết tâm, tính nhẫn nại, tinh thần lao động quên mình của dân tộc
tuyệt vời này...
Lịch sử Việt Nam chứng tỏ rằng, khi một dân tộc đã quyết tâm bảo vệ sự
sống của mình, bản sắc của mình và tương lai của mình bằng bất cứ giá
nào thì không một siêu cường nào có thể chống lại dân tộc đó.
Đó là tấm gương lớn nhất Việt Nam đã cống hiến cho thế giới.
Lúc nào các đồng chí cũng nói đến cảm ơn tình đoàn kết của Cuba và nhân
dân Cuba chúng tôi đối với cuộc đấu tranh anh hùng của nhân dân Việt
Nam. Nhưng thưa các đồng chí, chính chúng tôi mới là người phải cảm ơn
Việt Nam, vì Việt Nam đã viết nên thiên anh hùng ca đánh bại kẻ thù hùng
mạnh đó, vì công lao mà
Việt Nam,
với chiến thắng đó,
đã
cống hiến
cho các dân tộc bị áp bức và bóc lột trên thế giới, cho tất cả những
người khao khát một thế giới công bằng và nhân đạo hơn, hòa bình và bình
đẳng hơn”.
Tình yêu nồng cháy của Fidel đối với Việt Nam không chỉ thể
hiện qua gần một trăm bài phát biểu trước công chúng mà còn
được thể hiện qua những gì ông đã bày tỏ trong các cuộc tiếp
xúc với lãnh đạo và nhân dân ta.
Trước hết phải nhắc tới tình cảm đặc biệt của Fidel đối với
Bác Hồ. Mặc dù hai vị lãnh tụ đã không có dịp gặp mặt nhau,
nhưng có thể nói có một sự đồng nhất về lý tưởng, tư duy,
bản lĩnh, ý chí, quyết tâm, nhân cách, tình cảm... giữa hai vĩ
nhân. Không biết bao nhiêu lần Fidel đã bầy tỏ trước công chúng
tình yêu, sự kính trọng và ngưỡng mộ đặc biệt đối với Bác
Hồ. Fidel đã từng cử phái viên mang sang tận Việt Nam biếu Bác
những món quà đặc biệt như giống ếch khổng lồ của Cuba, những
máy làm kem tối tân nhất cùng nguyên liệu mà Cuba mới nhập…Tôi
không thể nào quên những giây phút tiếp đón Fidel đến viếng Bác
tại Đại sứ quán nước ta ở Cuba ngay sau khi được tin Bác qua
đời, chứng kiến
gương mặt ông thật sự đau buồn và xúc động. Ông ngồi lại rất lâu để hỏi
chuyện về Bác, tỏ vô cùng nuối tiếc vì chưa được gặp Bác. Fidel đã cử
hai người bạn chiến đấu thân thiết trong số năm nhà lãnh đạo
cao nhất Cuba là các Tư lệnh Cách mạng Juan Almeida và Ramiro
Valdes sang viếng Bác ở Hà Nội. Trong chuyến thăm Việt Nam đầu
tiên một lần nữa ông lại hết lời ca ngợi đạo đức, thiên tài
và công lao to lớn của Bác Hồ đối với Việt Nam cũng như đối
với sự nghiệp cách mạng, giải phóng dân tộc trên thế giới.
Rồi, giọng ông chùng xuống:
“Chúng
tôi chỉ có một nỗi đau lòng là đã không đến được Việt Nam trước ngày 3
tháng 9 năm 1969, không được có dịp và không có may mắn lớn được gặp
trực tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh mà chúng tôi vô cùng khâm phục. Nhưng
chúng tôi được đền bù là đã được gặp và tiếp xúc và gần gũi nhân dân
Việt Nam và được thấy phản chiếu trong nhân dân Việt Nam sự nghiệp của
Người, những lời giáo huấn của Người, sự giáo dục, công lao và tấm gương
của Người, chủ nghĩa anh hùng và đức tính khiêm tốn của Người”.
Có lẽ là người Việt Nam đã có diễm phúc được gặp, gần gũi Fidel nhiều
nhất nhờ vinh hạnh đặc biệt mà tôi đã rất may mắn có được trong đời là
trong gần 4 thập kỷ, từ năm 1965 khi còn là sinh viên năm thứ nhất Khoa
Văn học - Nghệ thuật, trường Đại học La Habana, tới khi là cán bộ ngoại
giao, tôi đã được phiên
dịch cho ông với các Đại sứ ta ở Cuba, các vị lãnh đạo ta, kể cả
lãnh đạo Lào, cũng như các đoàn Việt Nam thăm Cuba, nhất là trong
chuyến Fidel thăm Việt Nam lần đầu tiên, tháng 9/1973, và trải qua
những sự kiện lịch sử của đất nước ta cũng như trong quan hệ
giữa hai nước. Nhờ vậy mà tôi đã được trực tiếp chứng kiến,
cảm nhận, xúc động trước tình yêu đặc biệt nồng nàn, sự ủng
hộ hết lòng của ông đối với sự nghiệp chính nghĩa của nhân
dân ta, sự hiểu biết uyên thâm của ông về lịch sử, văn hóa, con
người Việt Nam cũng như cách mạng Việt Nam, tình cảm đặc biệt
của ông đối với Bác Hồ, các vị lãnh đạo và nhân dân ta. Tâm
khảm tôi còn in đậm tình cảm, sự đón tiếp đặc biệt nồng hậu Fidel
dành cho Việt Nam, cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong chuyến Thủ tướng
thăm Cuba tháng 3/1974. Fidel đã cho tổ chức một cuộc mít tinh
trên ba trăm ngàn người tham dự tại Quảng trường Cách mạng Jose
Marti ở Thủ đô để chào mừng và nghe Thủ tướng phát biểu, rồi
đích thân dẫn Thủ tướng thăm các nơi với sự chào đón nồng
nhiệt của quần chúng. Giây phút đặc biệt xúc động khi Fidel ôm
hôn nồng nhiệt Thủ tướng tại chân cầu thang máy bay khi đến
cũng như đầy lưu luyến khi tiễn. Rồi cuộc Fidel bất ngờ tới
thăm Thủ tướng tại nhà khách dành cho Nguyên thủ…Tôi cũng không
bao giờ có thể quên sự đón tiếp đặc biệt thân tình Fidel đã
dành cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chuyến thăm chính thức Cuba
và tham dự Đại hội lần thứ nhất Đảng Cộng sản Cuba cuối năm 1975 đầu
năm 1976, những câu chuyện thật thân tình chỉ có thể có giữa
hai vị Tổng tư lệnh dầy dạn trận mạc, hai người Anh hùng huyền
thoại, hai người anh em thân thiết! Chỉ ít ngày trước khi qua
đời, Fidel đã tiếp Chủ tịch nước ta là nguyên thủ nước ngoài
cuối cùng được gặp ông.
Trong trí nhớ tôi còn tươi rói hình ảnh sống động:
chiều tối 30/4/1975, ngay sau khi nghe tin ta hoàn toàn giải phóng
miền Nam, Fidel đã đến Đại sứ quán nước ta để chúc mừng. Fidel ôm hôn
nồng nhiệt Đại sứ Hà Văn Lâu và tất cả cán bộ Đại sứ quán có mặt. Ông
đặc biệt vui mừng và khẳng định đây không chỉ là thắng lợi vĩ đại của
nhân dân Việt Nam mà còn là thắng lợi của nhân dân Cuba và toàn thế
giới. Ông cho khui một chai rượu rum đặc biệt của Cuba đã được cất giữ
70 năm để chúc mừng. Cuộc diễu hành ngày mồng 1 tháng năm năm ấy mà
Fidel dẫn đầu tại Quảng trường Cách mạng José Marti đã biến thành cuộc
diễu hành khổng lồ chào mừng thắng lợi của Việt Nam. Và Fidel đã đến
tham dự ngay từ đầu, hồ hởi chia sẻ niềm vui thắng lợi của nhân dân ta
cho đến tận phút cuối cuộc chiêu đãi lịch sử do hai Đại sứ quán Việt Nam
cùng tổ chức.
Theo tin thần chỉ đạo của Fidel, Cuba luôn là nước đi tiên phong
và nổi bật nhất trong phong trào thế giới ủng hộ Việt Nam
chống ngoại xâm. Có thể khẳng định không có quốc gia nào lại
thể hiện tình đoàn kết chiến đấu, sự ủng hộ hết lòng sự
nghiệp chính nghĩa của Việt Nam bằng những hành động cụ thể,
phong phú về mọi phương diện, thật sự sôi nổi, nhiệt tình,
triệt để, thiết thực, liên tục, ngày càng mạnh mẽ từ trung
ương đến cơ sở trên khắp cả nước như Cuba. Chỉ xin nêu một số
thí dụ: Cuba là nước đầu tiên trên thế giới thành lập Ủy ban
đoàn kết với Việt Nam do bà Melba Hernandez, nữ anh hùng Moncada,
bạn chiến đấu của Fidel trực tiếp làm Chủ tịch, với hệ thống
tổ chức từ trung ương tới cơ sở, là nước đầu tiên công nhận
Mặt trận DTGP miền Nam Việt Nam, cho phép Mặt trận thành lập Cơ
quan đại diện ở La Habana với quy chế ngoại giao, cung cấp mọi
phương tiện cho hoạt động của Cơ quan (trụ sở, xe cộ, kinh phí
cho hoạt động và toàn bộ nhân sự). Cuba cũng là nước đầu tiên
và duy nhất cử Đại sứ tới trình quốc thư và nước đầu tiên cử
nhà báo tới thăm vùng giải phóng miền Nam. Trong suốt bao nhiêu
năm Cuba tặng ta mỗi năm 1 vạn tấn đường, giúp đỡ và chi phí
toàn bộ cho rất nhiều hoạt động của ta như tất cả các đoàn
Việt Nam thăm Cuba, các cuộc gặp gỡ ở Cuba của ta với thanh
niên, sinh viên…Mỹ phản chiến; dành làn sóng riêng, chu cấp toàn
bộ và giúp chuyên gia cho một tổ của Đài Tiếng nói Việt Nam
thường trú ở đó để hàng ngày phát thanh vào Mỹ và Tây bán
cầu, cũng như sau Hiệp định Paris giúp một nhóm kỹ thuật viên
ta sang tìm hiểu, học tập để chuẩn bị tiếp quản TV Sài Gòn.
Năm 1972, Cuba đã cử một đội y tế sang giúp ta; hai con tầu Cuba
El Jigue và Imias chở viện trợ đã cùng chia sẻ bom mìn với ta
tại cảng Hải Phòng. Hơn 1000 kỹ sư, kỹ thuật viên, công nhân Cuba
cùng toàn bộ trang thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu cần
thiết đã đến sát cánh cùng công nhân ta xây dựng 5 công trình
Fidel tặng…Cuba đã dành cho ta sự giúp đỡ hào hiệp, vô tư như
vậy trong khi còn nghèo, thiếu thốn, phải thực hiện chế độ tem
phiếu và nhận viện trợ nước ngoài. Không thể thống kê các
hoạt động thật đa dạng đoàn kết với Việt Nam đã được tố chức
ở Cuba từ trung ương đến các địa phương! Cũng không biết bao
nhiêu đường phố, trường học, nhà máy, công viên, khu phố, cơ
sở…ở Cuba mang tên về Việt Nam.
Có thể nói tình đoàn kết chiến đấu, sự ủng hộ và giúp đỡ hết lòng của
Fidel cũng như của nhân dân Cuba đối với Việt Nam là có một không hai
trong lịch sử, là hình mẫu cao đẹp cần được xây dựng trong quan hệ quốc
tế hiện đại./
Hà Nội, 29 – 3 – 2018
Đại
sứ Nguyễn Đình Bin Tác giả gửi cho viet-studies ngày 31-7-18
|