NỖI SỢ HÃI TRUNG QUỐC MỚI
Fareed Zakaria[1]
Dịch và chú giải: Một thân hữu của Viet-studies.
Trong vài tháng sau đó, Truman đã làm đúng điều ấy. Ông ta đã biến cuộc
nội chiến ở Hy Lạp thành một phép thử về khả năng của Mỹ đối đầu với chủ
nghĩa cộng sản quốc tế. Khi ngẫm tới lời hùng biện mở rộng của Truman về
việc trợ giúp các nền dân chủ ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, Acheson thú
nhận trong hồi ký của mình rằng chính quyền đã đưa ra một lập luận 'còn
rõ hơn cả sự thật'.
Một cái gì đó tương tự thế đang xảy ra ngày nay trong cuộc tranh luận
của người Mỹ về Trung Quốc. Một sự đồng thuận mới, bao gồm cả hai đảng,
nhóm nắm quyền quân sự và các thành tố chính của truyền thông, cho rằng
Trung Quốc hiện là mối đe dọa sống còn đối với Mỹ cả về kinh tế lẫn
chiến lược, rằng chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc đã thất bại, và
Washington cần một chiến lược mới, cứng rắn hơn nhiều để ngăn chặn nó.
Sự đồng thuận này đã làm dịch chuyển lập trường của công chúng về phía
một sự thù địch gần như có tính bản năng: theo thăm dò ý kiến, 60% người
Mỹ hiện có quan điểm bất lợi về nước Cộng hòa Nhân dân này, một mức cao
kỷ lục kể từ khi Trung tâm nghiên cứu Pew bắt đầu đặt câu hỏi đó vào năm
2005. Nhưng giới tinh hoa Washington đã làm cho lý lẽ của họ 'còn rõ hơn
cả sự thật'. Bản chất của thách thức từ Trung Quốc khác xa và phức tạp
hơn nhiều so với những gì đám gieo rắc hoang mang mới miêu tả. Về vấn đề
chính sách đối ngoại quan trọng nhất độc nhất vô nhị trong vài thập kỷ
tới đây, nước Mỹ đang tự sắp đặt cho mình một thất bại đắt giá.
Hãy nói cho rõ: Trung Quốc là một chế độ đàn áp sử dụng các chính sách
hoàn toàn hẹp hòi, từ việc cấm tự do ngôn luận đến giam giữ các nhóm
thiểu số tôn giáo. Trong năm năm qua, nó đã tăng cường kiểm soát chính
trị và tập trung quyền lực kinh tế trong nước. Ở nước ngoài, nó đã trở
thành người cạnh tranh và ở một số nơi thì là đối thủ của Mỹ. Nhưng câu
hỏi chiến lược cốt yếu cho người Mỹ ngày nay là liệu những thực tế này
có khiến Trung Quốc trở thành một mối đe dọa sống còn [với Mỹ] hay
không, và tới mức mà các thực tế ấy như thế, mối đe dọa đó nên được giải
quyết như thế nào?
Các hậu quả của việc phóng đại mối đe dọa của Liên Xô đã là rất lớn:
những lạm dụng thô bạo trong nước trong thời kỳ McCarthy; một cuộc chạy
đua vũ khí hạt nhân nguy hiểm; một cuộc chiến dài, vô ích và không thành
công ở Việt Nam; và vô số các can thiệp quân sự khác ở nhiều quốc gia
được gọi là Thế giới thứ ba. Các hậu quả của việc không nắm được cái
thách thức Trung Quốc ngay hôm nay sẽ còn lớn hơn. Mỹ có nguy cơ phung
phí những lợi ích đã giành được một cách khó nhọc từ bốn thập kỷ can dự
với Trung Quốc, khuyến khích Bắc Kinh áp dụng các chính sách đối đầu của
riêng nó, và đưa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới vào một cuộc xung đột
nguy hiểm với quy mô và phạm vi không biết được mà nó sẽ gây ra nhiều
thập kỷ bất ổn và không an toàn. Một cuộc chiến tranh lạnh với Trung
Quốc có thể sẽ kéo dài và tốn kém hơn nhiều so với chiến tranh lạnh đối
với Liên Xô, với một kết cục không chắc chắn.
Henry Kissinger đã lưu ý rằng Mỹ đã tham gia vào tất cả các can dự quân
sự lớn của mình kể từ năm 1945 - tại Hàn Quốc, Việt Nam, Afghanistan và
Iraq - với sự nhiệt tình và hỗ trợ lưỡng đảng to lớn. 'Và sau đó, khi
chiến tranh phát triển', Kissinger nói, 'sự hỗ trợ trong nước cho nó bắt
đầu tan rã'. Một cách mau chóng, mọi người đều đã tìm kiếm một chiến
lược [để] thoát ra.
Để tránh đi lại cái con đường đó, Mỹ nên dành thời gian để xem xét kỹ
các giả định đằng sau sự đồng thuận mới [về] Trung Quốc. Theo nghĩa
rộng, chúng là như sau. Thứ nhất, sự tham dự đã thất bại vì nó đã không
'làm chuyển đổi được sự phát triển bên trong và hành vi bên ngoài của
Trung Quốc', như các cựu quan chức Mỹ Kurt Campbell và Ely Ratner đã
viết trong tạp chí này vào năm 2018. Thứ hai, chính sách đối ngoại của
Bắc Kinh hiện là mối đe dọa đáng kể nhất đối với lợi ích của Mỹ, và bằng
cách bành trướng, là mối đe dọa quan trọng nhất tới trật tự quốc tế dựa
trên quy tắc mà Mỹ tạo ra sau năm 1945. Ngoại trưởng Mỹ, Mike Pompeo, đã
đi còn xa hơn, khi nói trong một bài phát biểu năm 2019 tại Viện Hudson
rằng 'Đảng Cộng sản Trung Quốc là một đảng Marx-Lenin tập trung vào đấu
tranh và thống trị quốc tế'. Và thứ ba, một chính sách đối đầu chủ động
với Trung Quốc sẽ chống lại mối đe dọa đó tốt hơn là một sự tiếp tục
cách tiếp cận trước đó.
Sự đồng thuận lưỡng đảng này đã hình thành để đáp lại những thay đổi
đáng kể và đáng lo ngại theo nhiều cách ở Trung Quốc. Kể từ khi chủ tịch
Tập Cận Bình trở thành người cầm quyền tối cao của đất nước, tự do hóa
kinh tế của Trung Quốc đã chậm lại và cải cách chính trị của nó - trong
mọi trường hợp đều hạn chế - đã bị đảo ngược. Bắc Kinh giờ đây kết hợp
sự đàn áp chính trị với tuyên truyền dân tộc chủ nghĩa tương tự như
trong thời đại của Mao. Ở nước ngoài, Trung Quốc đầy tham vọng và quyết
đoán. Những thay đổi này là có thật và đáng lo ngại. Nhưng chúng nên làm
thay đổi chính sách của Mỹ như thế nào?
Thành hình nên một phản ứng hiệu quả thì đòi hỏi phải bắt đầu với một sự
hiểu biết rõ ràng về chiến lược [về] Trung Quốc của Mỹ cho tới thời điểm
này. Điều mà sự đồng thuận mới đang bỏ lỡ là trong gần 5 thập kỷ kể từ
việc mở cánh cửa vào Bắc Kinh của tổng thống Mỹ Richard Nixon, chính
sách của Mỹ đối với Trung Quốc chưa bao giờ đơn thuần là cam kết tham dự
cả; nó đã là sự kết hợp của tham dự và răn đe. Vào cuối những năm 1970,
các nhà hoạch định chính sách của Mỹ đã kết luận rằng việc tích hợp
Trung Quốc vào hệ thống kinh tế và chính trị toàn cầu tốt hơn là để nó
ngồi ngoài, bực bội và quậy phá. Nhưng Washington đã kết hợp nỗ lực đó
với sự hỗ trợ nhất quán cho các quốc gia quyền lực châu Á khác - bao
gồm, tất nhiên, tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan. Cách tiếp cận đó, đôi
khi được mô tả như là một 'chiến lược phòng ngừa rủi ro', đảm bảo rằng
khi Trung Quốc trỗi dậy, sức mạnh của nó đã được kiểm tra và các nước
láng giềng của nó cảm thấy an toàn.
Trong những năm 1990, không còn kẻ thù Liên Xô nào để mà ngăn chặn nữa,
Lầu Năm Góc đã cắt giảm chi tiêu, đóng cửa các căn cứ và giảm số quân
trên khắp thế giới - ngoại trừ ở châu Á. Chiến lược châu Á-Thái Bình
Dương 1995 của Lầu Năm Góc, được gọi là Sáng kiến Nye, đã cảnh báo về
các tham vọng chính sách đối ngoại và xây dựng quân đội của Trung Quốc
và tuyên bố rằng Mỹ sẽ không giảm sự hiện diện quân sự tại khu vực này.
Thay vào đó, ít nhất 100 ngàn lính Mỹ sẽ ở lại châu Á trong tương lai
gần. Việc bán vũ khí cho Đài Loan sẽ tiếp tục vì lợi ích hòa bình ở eo
biển Đài Loan - nghĩa là răn đe Bắc Kinh sử dụng vũ lực chống lại hòn
đảo tự trị ấy mà chính phủ đại lục coi là một phần của Trung Quốc.
Cách tiếp cận phòng ngừa rủi ro này được duy trì bởi các tổng thống của
cả hai đảng. Chính quyền George W. Bush đã lật ngược hàng thập kỷ chính
sách lưỡng đảng và ôm lấy Ấn Độ như một cường quốc hạt nhân, phần lớn để
thêm một kiểm tra khác về Trung Quốc. Dưới thời tổng thống Barack Obama,
Mỹ đã tăng cường răn đe, mở rộng dấu chân ở châu Á bằng các thỏa thuận
quân sự mới với Úc và Nhật Bản, và nuôi dưỡng mối quan hệ gần gũi hơn
với Việt Nam. Đó cũng là mục đích của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương, được thiết kế để cung cấp cho các nước châu Á một nền tảng kinh
tế cho phép họ chống lại sự thống trị của thị trường Trung Quốc. (Chính
quyền Trump đã rút khỏi thỏa thuận đó vào đầu năm 2017). Cá nhân Obama
đã đối đầu với ông Tập về vấn đề không gian mạng của Trung Quốc và áp
thuế nhập khẩu lốp xe để trả đũa các chính sách thương mại không công
bằng của Trung Quốc.
Nói rằng [chiến lược] bảo hiểm rủi ro đã thất bại thì toát lên tính
thiếu quan điểm lịch sử. Đầu những năm 1970, trước khi Nixon mở cánh cửa
vào Trung Quốc, Bắc Kinh đã là chế độ đểu cáng vĩ đại nhất thế giới. Mao
Trạch Đông bị ám ảnh bởi ý tưởng rằng ông ta là người cầm lái một phong
trào cách mạng sẽ hủy diệt thế giới tư bản phương Tây. Đã chẳng có biện
pháp nào là quá cực đoan cho mục đích đó - kể cả sự hủy diệt hạt nhân
cũng không loại trừ. 'Trong trường hợp xấu nhất và nếu một nửa nhân loại
đã chết', Mao giải thích trong một bài phát biểu tại Moscow năm 1957,
'nửa còn lại sẽ còn lại trong khi chủ nghĩa đế quốc sẽ bị san phẳng tới
tận mặt đất và cả thế giới sẽ trở thành xã hội chủ nghĩa'. Trung Quốc
của Mao đã xúi bẩy và tài trợ cho các cuộc nổi dậy chống phương Tây, các
phong trào du kích và các phong trào tư tưởng trên khắp thế giới, từ Mỹ
Latinh đến Đông Nam Á. Theo một ước tính, Bắc Kinh đã chi từ 170 triệu
đến 220 triệu USD từ năm 1964 đến 1985 chỉ riêng ở Châu Phi, đào tạo 20
ngàn chiến binh từ ít nhất 19 quốc gia.
Để so sánh, Trung Quốc ngày nay là một quốc gia có trách nhiệm đáng kể
trên mặt trận địa chính trị và quân sự. Nó đã không tham chiến từ năm
1979. Nó đã không sử dụng lực lượng quân sự giết chóc ở nước ngoài kể từ
năm 1988. Nó cũng đã không tài trợ hoặc hỗ trợ cho các lực lượng ủy
nhiệm hay các cuộc nổi dậy vũ trang ở bất cứ đâu trên thế giới kể từ đầu
những năm 1980. Kỷ lục không can thiệp đó là độc nhất vô nhị trong số
các cường quốc trên thế giới. Tất cả các thành viên thường trực khác của
Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc (LHQ) đều đã sử dụng vũ lực nhiều lần ở
nhiều nơi trong vài thập kỷ qua - một danh sách, tất nhiên, do Mỹ dẫn
đầu.
Trung Quốc cũng đã đi từ chỗ tìm cách làm suy yếu hệ thống quốc tế đến
chi một khoản lớn để củng cố nó. Bắc Kinh hiện là nhà tài trợ lớn thứ
hai của LHQ và chương trình gìn giữ hòa bình của LHQ. Nó đã triển khai
2500 nhân viên gìn giữ hòa bình, nhiều hơn tất cả các thành viên thường
trực khác của Hội đồng bảo an cộng lại. Từ năm 2000 đến 2018, Trung Quốc
đã ủng hộ 182 trong số 190 nghị quyết của Hội đồng bảo an áp đặt các
biện pháp trừng phạt đối với các quốc gia được coi là đã vi phạm các quy
tắc hoặc chuẩn mực quốc tế. Hẵng cứ cho là như thế này, các nguyên tắc
neo giữ chính sách đối ngoại của Bắc Kinh hiện nay - 'tôn trọng chủ
quyền', 'toàn vẹn lãnh thổ', và 'không can thiệp' - được cổ vũ phần lớn
bởi một mong muốn chống lại sự can thiệp của phương Tây. Tuy nhiên,
chúng nhấn mạnh một sự chuyển dịch đáng chú ý từ một chương trình nghị
sự cách mạng cấp tiến sang một mối quan tâm bảo thủ về sự ổn định. Ai đó
đã dự đoán vào năm 1972 rằng Trung Quốc sẽ trở thành người bảo vệ nguyên
trạng quốc tế, song ít ai đã tin được điều đó là có thể.
Sự đồng thuận mới về hành vi kinh tế của Trung Quốc thì cho rằng Trung
Quốc đã buộc các công ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ của họ, đã
trợ cấp cho 'các công ty thành công nhất của quốc gia' và đặt các rào
cản chính thức và không chính thức trên con đường các công ty nước ngoài
tìm cách thâm nhập thị trường Trung Quốc. Nói tóm lại, Bắc Kinh đã sử
dụng nền kinh tế quốc tế mở để củng cố hệ thống trung ương tập quyền và
chủ nghĩa trọng thương của riêng mình.
Đúng là những chính sách không công bằng này đòi hỏi phải chú ý và hành
động từ phần còn lại của thế giới. Chính quyền Trump xứng đáng nhận được
một sự tín nhiệm nhất định nào đó cho việc giải quyết vấn đề này - đặc
biệt là trong bối cảnh Tập đã ôm lấy [kinh tế] trung ương tập quyền sau
nhiều thập kỷ tự do hóa. Nhưng sự đảo ngược này lớn và lâu dài đến thế
nào? Các tập quán của Trung Quốc thì khác với các nước thị trường mới
nổi khác hiện nay ra sao? Và một lần nữa, phản ứng đúng của người Mỹ là
gì?
Hầu hết tất cả các nhà kinh tế đều đồng ý rằng Trung Quốc có được nhiều
thành công kinh tế của mình nhờ ba yếu tố cơ bản: chuyển đổi từ kinh tế
học cộng sản sang cách tiếp cận dựa trên thị trường hơn, một tỷ lệ tiết
kiệm cao giúp đầu tư vốn lớn, và tăng năng suất. Trong ba thập kỷ qua,
nước này cũng đã mở cửa đáng kể cho đầu tư nước ngoài - nhiều hơn so với
nhiều thị trường mới nổi lớn khác - cho phép vốn đổ vào. Trung Quốc là
một trong chỉ có hai nước đang phát triển được xếp hạng trong 25 thị
trường hàng đầu đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài kể từ năm 1998.
Trong nhóm BRICS gồm các thị trường mới nổi lớn (bao gồm Brazil, Nga, Ấn
Độ, Trung Quốc và Nam Phi), Trung Quốc luôn được xếp hạng là nền kinh tế
mở và cạnh tranh nhất. Còn như tác động của các chính sách trọng thương
của Trung Quốc đối với nền kinh tế Mỹ, cựu Bộ trưởng tài chính Mỹ,
Lawrence Summers, đã lưu ý rằng 'không thể tranh luận một cách nghiêm
túc rằng các thực tế thương mại không công bằng của Trung Quốc đã ảnh
hưởng đến tăng trưởng của Mỹ thậm chí là 0,1% mỗi năm'.
Điều đáng chú ý là trên mặt trận kinh tế, hầu hết mọi trách nhiệm đổ cho
Trung Quốc ngày nay - chuyển giao công nghệ bắt buộc, thực hành thương
mại không công bằng, việc tiếp cận hạn chế đối dành cho các công ty nước
ngoài, thiên vị pháp lý cho các công ty địa phương - cũng đã được đổ cho
Nhật Bản trong những năm 1980s và 1990s. Vào thời điểm đó, cuốn sách đầy
ảnh hưởng 'Địa vị thương mại: Nước Mỹ đang nhượng tương lai của mình lại
cho Nhật Bản như thế nào và Làm thế nào để giành lại nó' (Trading
Places: How America Is Surrendering Its Future to Japan and How to Win
It Back) của Clyde Prestowitz đã giải thích rằng Mỹ chưa bao giờ tưởng
tượng ra được việc giao dịch với một quốc gia mà 'công nghiệp và thương
mại [có lẽ được] tổ chức như một phần của một nỗ lực nhằm đạt được các
mục tiêu quốc gia cụ thể'. Một cuốn sách được đọc rộng rãi khác của thời
đại đó có tựa đề 'Cuộc chiến sắp tới với Nhật Bản'. Khi tăng trưởng của
Nhật Bản giảm dần, những nỗi sợ hãi thái quá này cũng vậy.
Trung Quốc hôm nay đặt ra một số thách thức mới, đặc biệt là quyết tâm
của Tập Cận Bình để nhà nước đóng vai trò hàng đầu trong việc giúp nước
này giành được địa vị thống trị về kinh tế trong các lĩnh vực quan
trọng. Nhưng trong lịch sử rộng lớn với nhiều điều ít được để ý, lợi thế
lớn nhất của Trung Quốc trong hệ thống thương mại toàn cầu không đến từ
việc họ sẵn sàng vi phạm các quy tắc mà chỉ từ quy mô/kích cỡ của nó.
Các quốc gia và công ty muốn tiếp cận với Trung Quốc và sẵn sàng nhượng
bộ để có được nó. Điều này hầu như không làm cho Trung Quốc trở nên bất
thường. Các quốc gia khác có ảnh hưởng tương tự thường đi xa nữa với
hành vi tương tự hoặc tệ hơn - không ai khác hơn là chính Mỹ cũng vậy.
Một báo cáo năm 2015 của gã khổng lồ về dịch vụ tài chính, Credit
Suisse, cung cấp một danh sách hữu ích về các rào cản chống lại hàng hóa
nước ngoài đã được các nước lớn đưa ra từ năm 1990 đến 2013. Với tổng số
gần 450 rào cản, Mỹ là một liên minh riêng mình. Tiếp theo là Ấn Độ, sau
đó là Nga. Trung Quốc đứng ở vị trí thứ 5, với chỉ một phần ba các rào
cản phi thuế quan được áp đặt so với Mỹ. Bức tranh đã không thay đổi mấy
trong những năm kể từ đó.
Hầu hết các thay đổi gần đây trong chính sách
kinh tế của Bắc Kinh đã là tiêu cực, nhưng thậm chí cái đó cũng vẫn chưa
phải là toàn bộ câu chuyện. Trung Quốc đang thay đổi theo một số đường
lối, đôi khi mâu thuẫn nhau. Ngay cả với việc quay trở lại sự kiểm soát
nhà nước lớn hơn dưới thời Tập, thì một thị trường tự do hoang dã cũng
đã phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực rộng lớn như hàng hóa tiêu dùng
và dịch vụ. Cũng đã có việc tự do hóa trong lập quy thực sự nào đó -
thậm chí là cải cách hành chính và tư pháp, như nhà khoa học chính trị
Yuen Yuen Ang[2]
đã nêu chi tiết. Sự hỗ trợ của chính phủ cho các doanh nghiệp thuộc sở
hữu nhà nước lớn hơn so với vài năm trước, nhưng Bắc Kinh đã từ bỏ cái
một thời đã từng là một phần trung tâm của chiến lược trọng thương của
mình: sử dụng một đồng tiền được [có chủ ý] định giá thấp để thúc đẩy
tăng trưởng. Nhà kinh tế học Nicholas Lardy[3]
đã tính toán rằng sự kết thúc của chủ nghĩa trọng thương tiền tệ chiếm
'khoảng một nửa sự chậm lại tăng trưởng của Trung Quốc kể từ cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu'.
Hoặc xem đó là cái gì, cái nói theo Peter Navarro, cố vấn thương mại
hàng đầu của tổng thống Mỹ Donald Trump, vấn đề số một trong tranh chấp
thương mại của Mỹ với Trung Quốc: 'hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ của
chúng ta'. Việc Trung Quốc tham gia vào chuyện trộm cắp tràn lan sở hữu
trí tuệ là một thực tế được chấp nhận rộng rãi - ngoại trừ trong số các
công ty Mỹ đang kinh doanh tại Trung Quốc. Trong một cuộc khảo sát gần
đây về các công ty như vậy do Hội đồng doanh nghiệp Mỹ-Trung (U.S.-China
Business Council) thực hiện, bảo vệ sở hữu trí tuệ đứng thứ 6 trong danh
sách các mối quan tâm cấp bách, đã giảm xuống từ vị trí thứ 2 trong năm
2014. Các công ty này lo ngại nhiều hơn về tài trợ của nhà nước cho các
công ty đối thủ và việc trì hoãn phê duyệt giấy phép cho sản phẩm của
họ. Tại sao sự thay đổi này lại từ năm 2014? Năm đó, Trung Quốc đã tạo
ra các tòa án chuyên ngành đầu tiên để xử lý các vụ án sở hữu trí tuệ.
Năm 2015, các nguyên đơn nước ngoài đã đưa 63 vụ ra Tòa án Sở hữu trí
tuệ Bắc Kinh. Tòa án đã phán quyết cho các công ty nước ngoài thắng kiện
trong tất cả 63 vụ.
Tất nhiên, những cải cách như thế này thường chỉ được thực hiện khi đối
mặt với áp lực của phương Tây và, mặc dù thế, bởi vì chúng phục vụ lợi
ích cạnh tranh của chính Trung Quốc - công ty nộp đơn xin cấp bằng sáng
chế lớn nhất trên toàn thế giới năm ngoái là gã khổng lồ viễn thông
Trung Quốc Huawei. Nhưng cũng đúng là nhiều nhà kinh tế và nhà hoạch
định chính sách cấp cao của Trung Quốc đã lập luận rằng nước này sẽ hiện
đại hóa và phát triển kinh tế chỉ khi nó theo đuổi cải cách hơn nữa.
Không làm thế, họ đã cảnh báo, sẽ khiến đất nước bị mắc kẹt trong 'bẫy
thu nhập trung bình' - số phận chung của các quốc gia thoát nghèo nhưng
vấp phải bức tường với mức GDP khoảng 10 ngàn USD trên đầu người, đã
thất bại trong việc hiện đại hóa nền kinh tế, hệ thống pháp quy và pháp
lý của họ hơn nữa.
Chừng nào sự phát triển chính trị của Trung
Quốc còn đáng quan ngại, phán quyết này vẫn còn không rõ ràng. Trung
Quốc đã không mở cửa chính trị của mình đến mức như nhiều người đã dự
đoán; trong thực tế nó đã tiến tới sự đàn áp và kiểm soát lớn hơn. Đối
xử tồi tệ của Bắc Kinh với người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, một khu vực ở
tây bắc Trung Quốc, đã tạo ra một cuộc khủng hoảng nhân quyền. Nhà nước
cũng đã bắt đầu sử dụng các công nghệ mới, như phần mềm nhận dạng khuôn
mặt và trí tuệ nhân tạo, để tạo ra một hệ thống kiểm soát xã hội kiểu
Orwell[4].
Những thực tế này là một thảm kịch đối với người dân Trung Quốc và là
một trở ngại cho đất nước tham gia lãnh đạo toàn cầu. Tuy nhiên, sẽ là
một sự cường điệu khi thêm chúng vào làm bằng chứng cho sự thất bại của
chính sách của Mỹ. Trong thực tế, rất ít quan chức Mỹ từng lập luận rằng
sự tham dự sẽ dẫn một cách không thể lay chuyển nổi tới nền dân chủ tự
do ở Trung Quốc. Họ hy vọng rằng nó sẽ diễn ra như vậy, thậm chí mong
đợi điều ấy, nhưng trọng tâm của họ luôn đặt vào việc tiết chế hành vi
bên ngoài của Trung Quốc, điều mà họ đã đạt được.
Băng qua lằn ranh
Dưới thời Tập, chính sách đối ngoại của Trung
Quốc đã trở nên tham vọng và quyết đoán hơn, từ việc theo đuổi vai trò
lãnh đạo của nó trong các cơ quan của LHQ cho tới Sáng kiến Vành đai và
Con đường (BRI, Belt and Road Initiative) mênh mông và việc xây dựng
các hòn đảo ở Biển Đông. Những động thái này đánh dấu một bước đột phá
đối với sự thụ động xưa của đất nước trên trường quốc tế, bị kìm giữ bởi
câu ngạn ngữ của nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đây là Đặng Tiểu Bình
'Giấu sức mạnh, chờ thời'[5].
Đặc biệt, việc xây dựng quân đội của Trung Quốc là quy mô và được thiết
kế theo cách gợi ý rằng một kế hoạch dài hạn đang được thực hiện một
cách có hệ thống. Nhưng mức độ ảnh hưởng chấp nhận được đối với Trung
Quốc sẽ là gì, với trọng lượng kinh tế của nó trên thế giới? Nếu
Washington không đặt câu hỏi này trước tiên, họ không thể đưa ra những
tuyên bố nghiêm túc về những việc sử dụng quyền lực nào của Trung Quốc
là vượt qua lằn ranh.
Trung Quốc, theo một số thước đo, đã là nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Trong vòng 10 đến 15 năm nữa, nó có thể sẽ chiếm vị trí này theo mọi
thước đo. Đặng đã đưa ra lời khuyên của mình 'chờ thời' đến khi nền kinh
tế của đất nước chiếm khoảng 1% GDP toàn cầu. Ngày nay, nó đang đại diện
cho hơn 15%. Trung Quốc thực sự đã chờ đợi đến thời của mình, và giờ
đây, một Trung Quốc mạnh mẽ hơn nhiều một cách tự nhiên sẽ tìm kiếm một
vai trò khu vực và toàn cầu lớn hơn.
Hãy xem trường hợp của một quốc gia khác đang
trỗi dậy mạnh mẽ, điều này trở lại vào thế kỷ XIX, mặc dù không gần như
trên quy mô của Trung Quốc ngày nay. Mỹ vào năm 1823 đã là nước mà bây
giờ gọi là một quốc gia đang phát triển - thậm chí không nằm trong số 5
nền kinh tế hàng đầu thế giới - ấy vậy mà với Học thuyết Monroe, nó đã
tuyên bố yêu sách toàn bộ bán cầu Tây cấm không được bén mảng đối với
các cường quốc ở châu Âu. Trường hợp của Mỹ là một sự tương tự không
hoàn hảo, nhưng nó như một lời nhắc nhở rằng khi các nước có được sức
mạnh kinh tế, chúng sẽ tìm kiếm sự kiểm soát và ảnh hưởng lớn hơn đối
với môi trường của mình. Nếu Washington xác định mọi nỗ lực như vậy của
Trung Quốc là nguy hiểm, thì nó sẽ khiến Mỹ chống lại các động lực tự
nhiên của đời sống quốc tế và rơi vào cái mà học giả Graham Allison đã
gọi là 'cái bẫy Thucydides'[6]
- nguy cơ của một cuộc chiến giữa một cường quốc đang trỗi dậy và một
nước bá chủ lo lắng.
Đối với Mỹ, đối phó với một đối thủ cạnh tranh như vậy là một thách thức
mới và độc nhất vô nhị. Kể từ năm 1945, các quốc gia lớn vươn lên giàu
có và nổi bật đều là những đồng minh thân cận nhất của Washington, nếu
không phải là những nước gần như là được bảo hộ: Đức, Nhật Bản và Hàn
Quốc. Một đặc tính thường gây rối trong cuộc sống quốc tế - các cường
quốc mới đang trỗi dậy - do đó đều cực kỳ lành tính đối với Mỹ. Tuy vậy,
Trung Quốc không chỉ lớn hơn nhiều so với các cường quốc đang trỗi dậy
trước đó; nó cũng luôn nằm ngoài cấu trúc liên minh và phạm vi ảnh hưởng
của Mỹ. Kết quả là, nó chắc chắn sẽ tìm kiếm một phạm vi ảnh hưởng độc
lập lớn hơn. Thách thức đối với Mỹ, và phương Tây nói chung, sẽ là xác
định phạm vi có thể chấp nhận được đối với ảnh hưởng ngày càng tăng của
Trung Quốc và thích ứng với nó - để có được sự tín nhiệm khi các hành
động của Bắc Kinh vượt qua lằn ranh.
Cho đến nay, hồ sơ theo dõi của phương Tây về việc thích nghi với sự
trỗi dậy của Trung Quốc rất kém. Thí dụ, cả Mỹ và Châu Âu đều miễn cưỡng
nhượng lại bất kỳ mảnh đất nào cho Trung Quốc trong các thể chế cốt lõi
quản trị kinh tế toàn cầu, Ngân hàng thế giới WB (World Bank) và Quỹ
tiền tệ quốc tế IMF (International Monetary Fund), vẫn là các câu lạc bộ
Âu-Mỹ. Trong nhiều năm, Trung Quốc đã tìm kiếm một vai trò lớn hơn trong
Ngân hàng phát triển Châu Á ADB (Asian Development Bank), nhưng Mỹ đã
chống lại. Kết quả là vào năm 2015, Bắc Kinh đã thành lập tổ chức tài
chính đa phương của riêng mình, Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á
AIIB (Asian Infrastructure Investment Bank) (mà Washington chống lại
song không có kết quả).
Pompeo đã khẳng định - trong một tuyên bố kiểu bề trên mà chắc chắn sẽ
chọc giận bất cứ công dân Trung Quốc nào - rằng Mỹ và các đồng minh phải
giữ Trung Quốc ở 'đúng chỗ của nó'. Tội lỗi của Trung Quốc, theo Pompeo,
là họ chi nhiều cho quân đội hơn mức cần thiết cho quốc phòng của mình.
Nhưng điều tương tự vậy, tất nhiên, cũng có thể nói về Mỹ - và của Pháp,
Nga, Vương quốc Anh và hầu hết các nước lớn khác. Trong thực tế, một
định nghĩa hữu ích về một cường quốc là một nước có liên quan tới nhiều
hơn là chỉ liên quan tới an ninh riêng của mình.
Trật tự cũ - trong đó các nước châu Âu nhỏ đóng vai trò những đối thủ
nặng ký toàn cầu trong khi những con hà mã to vật như Trung Quốc và Ấn
Độ lại bị loại khỏi những thứ hạng hàng đầu của các tổ chức toàn cầu -
không thể duy trì được nữa. Trung Quốc sẽ phải được dành một vị trí bên
bàn và phải được tích hợp một cách thành thật vào các cấu trúc ra quyết
định, hoặc họ sẽ tự do và đơn phương tạo ra các cấu trúc và các hệ thống
mới của riêng mình. Sự thăng tiến của Trung Quốc tới quyền lực toàn cầu
là yếu tố mới quan trọng nhất trong hệ thống quốc tế trong nhiều thế kỷ.
Nó phải được công nhận như vậy.
Đối với nhiều người, sự trỗi dậy của Bắc Kinh đã báo hiệu về hồi chuông
báo tử của trật tự quốc tế tự do - tập hợp các chính sách và các định
chế, được rèn dập phần lớn bởi Mỹ sau Thế chiến thứ II, tạo nên tổng thể
một hệ thống dựa trên luật lệ, trong đó chiến tranh giữa các nước đã mất
dần tầm quan trọng trong khi thương mại tự do và nhân quyền đã phát
triển mạnh mẽ. Đặc điểm chính trị trong nước của Trung Quốc - một quốc
gia độc đảng không cho phép sự phản đối hay bất đồng chính kiến - và
một số hành động quốc tế của nó khiến nó trở thành một người chơi không
dễ dàng gì trong hệ thống này.
Tuy nhiên, đáng ghi nhớ là trật tự quốc tế tự do chưa bao giờ là tự do,
quốc tế, hay có trật tự như bây giờ vẫn được mô tả một cách luyến tiếc
cả. Ngay từ đầu, nó đã vấp phải sự khăng khăng phản đối từ Liên Xô, tiếp
theo sau là một loạt các đổ vỡ trong hợp tác giữa các đồng minh (qua
cuộc khủng hoảng Suez năm 1956, qua Việt Nam một thập kỷ sau) và sự đào
ngũ phần nào đó của Mỹ dưới thời Nixon, người vào năm 1971 đã chấm dứt
thực tiễn bảo lãnh của Washington đối với trật tự tiền tệ quốc tế bằng
việc sử dụng dự trữ vàng của Mỹ. Một hình ảnh thực tế hơn là một trật tự
quốc tế tự do non trẻ, đã hư hỏng từ đầu bởi những ngoại lệ, sự bất hòa
và tính mong manh. Nước Mỹ, về phần mình, lại thường hành động ra ngoài
các quy tắc của trật tự này, khi thực hiện các can thiệp quân sự thường
xuyên có hoặc không có sự chấp thuận của LHQ; trong những năm từ 1947
đến 1989, khi Mỹ được cho là đang xây dựng trật tự quốc tế tự do, nó đã
cố gắng thay đổi chế độ 72 lần trên khắp thế giới. Nó bảo lưu quyền hành
giống như vậy trong lĩnh vực kinh tế, tham gia vào chủ nghĩa bảo hộ ngay
cả khi nó chống lại các biện pháp khiêm tốn hơn được áp dụng bởi các
quốc gia khác.
Sự thật về trật tự quốc tế tự do, như với tất cả các khái niệm như vậy,
là chưa từng bao giờ thực sự có một thời kỳ hoàng kim, nhưng cũng không
có thứ trật tự bị phân rã quá như nhiều người tuyên bố. Các thuộc tính
cốt lõi của trật tự này - hòa bình và ổn định - vẫn còn tồn tại, với sự
suy giảm rõ rệt do chiến tranh và thôn tính kể từ năm 1945. (Hành vi của
Nga ở Ucraina là một ngoại lệ quan trọng). Về mặt kinh tế, đó là một thế
giới thương mại tự do. Thuế quan trung bình giữa các nước đã công nghiệp
hóa là dưới 3%, giảm từ 15% trước Vòng đàm phán thương mại quốc tế
Kennedy trong thập niên 1960. Thập kỷ vừa qua đã chứng kiến sự thụt
lùi về một số độ đo mức toàn cầu hóa nhưng từ mức cơ bản cực kỳ cao.
Toàn cầu hóa từ năm 1990 có thể được mô tả là đã tiến lên ba bước và chỉ
lùi một bước.
Trung Quốc hầu như không đủ điều kiện là một mối nguy hiểm chết người
đối với trật tự không hoàn hảo này. Hãy so sánh hành động của nó với Nga
- một quốc gia mà trong nhiều đấu trường chỉ đơn giản là kẻ phá hoại, cố
gắng phá vỡ thế giới dân chủ phương Tây và các mục tiêu quốc tế của nó,
thường được hưởng lợi trực tiếp từ sự bất ổn do nó tăng giá dầu (nguồn
tài sản lớn nhất của Kremlin). Trung Quốc không có vai trò như vậy. Khi
nó bẻ cong các quy tắc và, thí dụ như, tham gia vào chiến tranh mạng,
thì nó đánh cắp các bí mật quân sự và kinh tế thay vì cố gắng phá hoại
tính hợp pháp của các cuộc bầu cử dân chủ ở Mỹ hoặc Châu Âu. Bắc Kinh lo
ngại sự bất đồng quan điểm và sự phản đối và đặc biệt đau thần kinh với
các vấn đề của Hongkong và Đài Loan, sử dụng ảnh hưởng kinh tế của mình
để kiểm duyệt các công ty phương Tây trừ khi họ theo đúng đường lối của
đảng. Nhưng đây là những nỗ lực để bảo tồn những gì Bắc Kinh coi là chủ
quyền của mình - không có gì giống như Moscow, những nỗ lực có hệ thống
nhằm gây trở ngại và phá vỡ nền dân chủ phương Tây ở Canada, Mỹ và Châu
Âu. Nói tóm lại, Trung Quốc đã hành động theo các cách can thiệp, trọng
thương và đơn phương - nhưng thường ít hơn rất nhiều so với các cường
quốc khác.
Sự trỗi dậy của một nhà nước độc đảng mà nó tiếp tục bác bỏ các khái
niệm cốt lõi về quyền con người thì thể hiện một thách thức. Ở một số
khu vực nhất định, các chính sách đàn áp của Bắc Kinh đã đe dọa các
thành tố của trật tự quốc tế tự do, như thể các nỗ lực của nó nhằm làm
suy yếu các tiêu chuẩn nhân quyền toàn cầu cũng như hành vi của nó ở
Biển Đông và các phần 'nước ngoài gần' khác của nó. Những trường hợp đó
cần được kiểm tra một cách trung thực. Đối với vấn đề đầu, chẳng mấy
điều có thể nói được để giảm nhẹ trách nhiệm. Trung Quốc thì rất muốn né
tránh/thoát khỏi [vấn đề về] các hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng
của mình, và chương trình nghị sự đó cần được phơi bày và chống lại.
(Quyết định của chính quyền Trump rút khỏi Hội đồng nhân quyền LHQ đã
đạt được điều hoàn toàn ngược lại bằng cách nhượng lại lĩnh vực này cho
Bắc Kinh).
Nhưng trật tự quốc tế tự do đã có thể thích ứng với nhiều chế độ khác
nhau - từ Nigeria tới Saudi Arabia cho đến Việt Nam - và vẫn cung cấp
một khung khổ dựa trên các quy tắc mà chúng khuyến khích hòa bình, ổn
định và ứng xử văn minh giữa các quốc gia. Quy mô và các chính sách của
Trung Quốc đặt ra một thách thức mới đối với việc mở rộng quyền con
người chủ yếu đã diễn ra từ năm 1990. Nhưng chuyện một lĩnh vực thoái
trào tiềm năng thì không nên được xem là mối đe dọa chết người đối với
công cuộc lớn hơn nhiều của một hệ thống quốc tế thương mại tự do, dựa
trên quy tắc và rộng mở.
Giả định cuối cùng ủng hộ sự đồng thuận mới là chuyện một hình thức đối
đầu dai dẳng nào đó với Trung Quốc sẽ răn đe được chủ nghĩa phiêu lưu
của nó ra nước ngoài và tạo tiền đề cho một sự chuyển đổi trong nội bộ.
Rất ít người hào hứng chấp nhận thuật ngữ 'ngăn chặn' của thời chiến
tranh lạnh, nhưng nhiều người chấp nhận một phiên bản logic nào đó của
nó. Lý thuyết là một đường lối cứng rắn chống lại Trung Quốc sẽ buộc
nước này phải cư xử đàng hoàng và thậm chí cải cách. Không nói ra nhưng
rõ ràng trung tâm của chiến lược diều hâu ấy là ý niệm rằng ngăn chặn
Trung Quốc sẽ sớm làm sụp đổ chế độ của nó, giống như đã xảy ra với Liên
Xô.
Nhưng Trung Quốc không phải là Liên Xô, một đế chế bất tự nhiên được xây
dựng dựa trên sự bành trướng thô bạo và thống trị quân sự. Với Trung
Quốc, Mỹ sẽ đối đầu với một nền văn minh, và một quốc gia, với ý thức
mạnh mẽ về sự đoàn kết và niềm tự hào dân tộc đã vươn lên để giành lấy
vị trí trong số các cường quốc của thế giới. Trung Quốc đang trở thành
một quốc gia ngang hàng về kinh tế, thực sự là một nhà lãnh đạo công
nghệ trong một số lĩnh vực. Dân số của nó làm cho dân số Mỹ thành nhỏ bé
và thị trường lớn nhất thế giới cho hầu hết mọi hàng hóa thì hiện đang
nằm ở Trung Quốc. Nó sở hữu một số máy tính nhanh nhất hành tinh và nắm
giữ lượng dự trữ ngoại hối lớn nhất trên trái đất. Ngay cả khi nó trải
qua một số loại thay đổi chế độ, các đặc điểm rộng lớn hơn về sự trỗi
dậy và sức mạnh của nó sẽ vẫn cứ tồn tại.
Lầu năm góc đã ôm lấy ý niệm Trung Quốc là
'đối thủ cạnh tranh chiến lược' hàng đầu của Mỹ. Từ một quan điểm quan
liêu, chỉ định này có ý nghĩa hoàn hảo. Trong 20 năm qua, quân đội Mỹ đã
chiến đấu chống lại các cuộc nổi dậy và du kích ở các quốc gia yếu ớt,
và hết lần này đến lần khác phải giải thích tại sao bộ máy đắt tiền của
nó đã thất bại trước những kẻ thù thiếu tiền bạc, được trang bị kém này.
Ngược lại, để làm kẻ thù của Trung Quốc là quay trở lại những tháng ngày
hoàng kim của chiến tranh lạnh, khi Lầu năm góc có thể tăng ngân sách
thật lớn bằng cách gợi lên bóng ma của một cuộc chiến tranh chống lại
một quân đội giàu có, hiện đại với công nghệ tiên tiến của riêng mình.
Suốt thời gian ấy, logic của răn đe hạt nhân và sự thận trọng của các
cường quốc đã đảm bảo rằng một cuộc chiến tổng lực giữa hai bên sẽ không
bao giờ xảy ra. Tuy nhiên, bất kể lợi thế thế nào về ngân sách của Lầu
Năm Góc, chi phí cho một cuộc chiến tranh lạnh như vậy với Trung Quốc sẽ
là vô cùng lớn, làm biến dạng nền kinh tế Mỹ và làm phình thêm tổ hợp
công nghiệp-quân sự[7]
mà tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower từng cảnh báo chống lại.
Hãy thêm vào đó là mức độ phụ thuộc lẫn nhau lớn giữa Mỹ và Trung Quốc.
Xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc tăng 527% kể từ năm 2001 và vào năm
2018, Trung Quốc là nhà cung cấp hàng hóa lớn nhất cho Mỹ. Cũng còn có
sự phụ thuộc lẫn nhau của con người - hàng trăm ngàn sinh viên Trung
Quốc học tập tại Mỹ, cùng với gần năm triệu công dân và người định cư Mỹ
gốc Hoa. Mỹ đã được hưởng lợi rất nhiều từ việc là nơi tập trung những
bộ óc thông minh nhất để thực hiện nghiên cứu tiên tiến nhất rồi sau đó
áp dụng nó vào mục đích thương mại. Nếu Mỹ cấm các cửa người tài năng
như vậy vì tài năng đó đi với hộ chiếu không hợp lệ, nó sẽ nhanh chóng
mất vị trí đặc quyền trong thế giới công nghệ và đổi mới.
Cách tiếp cận hiện nay với Trung Quốc của chính quyền Trump, chạy dọc
theo hai đường riêng biệt và mâu thuẫn, cùng một lúc tránh sự phụ thuộc
lẫn nhau lẫn đi theo nó. Về thương mại, mục tiêu của Washington nói rộng
ra là hội nhập: để Trung Quốc mua thêm từ Mỹ, đầu tư nhiều hơn vào Mỹ và
cho phép người Mỹ bán và đầu tư nhiều hơn vào Trung Quốc. Nếu thành
công, nỗ lực này sẽ tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn giữa hai
nước. Đó là một nỗ lực đáng khen ngợi, mặc dù té ra là thuế quan thường
gây phí tổn cho bên áp đặt thuế nhiều hơn bên người bị áp thuế. Theo một
số ước tính, thuế quan lốp xe của chính quyền Obama làm tốn khoảng 1
triệu USD cho mỗi việc làm mà Mỹ tiết kiệm được. Cách tiếp cận tổng thể,
tuy vậy, là khôn ngoan, ngay cả khi được thực hiện nhằm theo đuổi chương
trình nghị sự 'nước Mỹ trên hết', vì sự phụ thuộc lẫn nhau mang lại cho
Mỹ đòn bẩy lớn hơn đối với Trung Quốc.
Trong các vấn đề về công nghệ, mặt khác, cách tiếp cận của chính quyền
Trump là nhất quyết phân rã. Chiến lược ở đây là cắt đứt quan hệ với
Trung Quốc và buộc phần còn lại của thế giới phải làm điều tương tự -
tạo ra một thế giới bị chia cắt giữa hai phe. Chiến dịch toàn cầu của
chính quyền Trump chống lại Huawei đã tuân theo logic này; kết quảnghèo
nàni của chiến dịch đó cho thấy các lỗ hổng logic. Phần còn lại của thế
giới không đi theo sự dẫn dắt của Mỹ (mà nó thiếu công nghệ thay thế để
cạnh tranh với các chào mời 5G của Huawei). Chính quyền Trump đã yêu cầu
61 quốc gia cấm công ty ấy. Cho đến nay, chỉ có ba nước tham gia, cả ba
nước trong số đó đều là đồng minh của Mỹ.
Tỷ lệ thành công ảm đạm này là một dấu hiệu chỉ báo sớm cho thấy chiến
lược 'tách rời nhau' rộng hơn sẽ ra như thế nào. Trung Quốc là đối tác
thương mại lớn nhất của nhiều quốc gia ngoài Mỹ, bao gồm nhiều người
chơi chủ chốt ở Tây bán cầu, chẳng hạn như Brazil. Khi được hỏi họ sẽ
phản ứng thế nào với việc tách rời [giữa Mỹ và Trung Quốc], các nhà lãnh
đạo cấp cao trên toàn thế giới hầu như đều đưa ra một phiên bản nào đó
của câu trả lời mà một người đứng đầu chính phủ đã đưa ra cho tôi: 'Xin
đừng yêu cầu chúng tôi phải chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Bạn sẽ không
thích câu trả lời bạn nhận được đâu'. Điều này không có nghĩa là họ nhất
thiết phải đứng về phía Trung Quốc - nhưng họ có thể thích ở lại không
vào phe nào, hoặc chơi ván bài hai cường quốc đó chống lại nhau. Còn hơn
thế, một Trung Quốc bị cô lập mà nó sẽ xây dựng chuỗi cung ứng và công
nghệ nội địa của riêng mình thì sẽ không bị áp lực bởi Mỹ nữa.
Sự vắng mặt kỳ lạ trong hầu hết các cuộc thảo luận về chính sách của Mỹ
đối với Trung Quốc là câu hỏi về phản ứng của Trung Quốc. Bắc Kinh cũng
vậy, có những người tạo lập đường lối cứng rắn, những người đã cảnh báo
trong suốt nhiều năm rằng Mỹ tìm cách giữ cho Trung Quốc yếu và rằng bất
kỳ dấu hiệu tham vọng nào của Trung Quốc cũng sẽ gặp phải một chiến lược
ngăn chặn. Còn hơn thế nhiều nữa, thái độ của Mỹ đối với Trung Quốc đang
cho phép những tiếng nói đó đòi phải được minh oan, từ đó cho họ đòn bẩy
để thúc đẩy chính loại hành vi quyết đoán và gây bất ổn mà chính sách
của Mỹ nhắm tới ngăn ngừa.
Mỹ đang trong cuộc đua tranh với Trung Quốc - đó là một thực tế và sẽ
vẫn như vậy trong phần lớn thế kỷ này. Vấn đề là liệu Mỹ có nên cạnh
tranh trong khuôn khổ quốc tế ổn định hay không, tiếp tục cố gắng hội
nhập Trung Quốc [với thế giới hay không] thay vì cố gắng cô lập nó bằng
mọi giá. Một trật tự quốc tế bị phá vỡ, phân mảnh, được đánh dấu bởi
những hạn chế được đặt ra bởi chính phủ và các loại thuế đối với thương
mại, công nghệ và du lịch, sẽ dẫn đến sự thịnh vượng giảm sút, sự bất ổn
dai dẳng và triển vọng thực sự của xung đột quân sự đối với tất cả các
bên liên quan.
Sự sụp đổ của toàn cầu hóa, tất nhiên, là mục tiêu của nhiều trong số
những quan niệm hàng đầu của chính quyền Trump. Bản thân tổng thống đã
công khai chỉ trích 'chủ nghĩa toàn cầu' và coi thương mại tự do là cách
để các nước khác cướp bóc ngành công nghiệp Mỹ. Ông coi các liên minh
của Mỹ là lỗi thời, còn những định chế và chuẩn mực quốc tế là những
ràng buộc hạn chế không đáng có đối với chủ quyền quốc gia. Những người
dân túy cánh hữu đã ôm chặt lấy những quan điểm này trong nhiều năm. Và
nhiều người trong số họ - đặc biệt là ở Mỹ - hiểu chính xác rằng cách dễ
nhất để phá vỡ toàn bộ kiến trúc quốc tế tự do sẽ là gây ra một cuộc
chiến tranh lạnh với Trung Quốc. Khó hiểu hơn nữa nằm ở chỗ những người
đã dành hàng thập kỷ để xây dựng cái kiến trúc đó đang sẵn sàng hỗ trợ
một chương trình nghị sự chắc chắn sẽ phá hủy nó.
Một chính sách khôn ngoan hơn của Mỹ, hướng đến việc biến Trung Quốc
thành một 'cổ đông có trách nhiệm', vẫn có thể đạt được. Washington nên
khuyến khích Bắc Kinh phát huy ảnh hưởng lớn hơn trong khu vực của mình
và xa hơn, miễn là họ sử dụng ảnh hưởng này để củng cố hệ thống quốc tế.
Sự tham gia của Trung Quốc vào những nỗ lực giải quyết [các vấn đề của
loài người] sự nóng lên toàn cầu, phổ biến hạt nhân, rửa tiền và khủng
bố nên được khuyến khích - và đánh giá cao. Sáng kiến Vành đai và Con
đường của Bắc Kinh có thể là một lợi ích cho thế giới đang phát triển
nếu được theo đuổi một cách cởi mở và minh bạch, ngay cả khi hợp tác với
các nước phương Tây ở bất cứ nơi nào có thể. Về phần mình, Bắc Kinh sẽ
cần chấp nhận sự chỉ trích của Mỹ về các vấn đề nhân quyền, tự do ngôn
luận và tự do nói một cách tổng quát hơn.
Những điểm bắt cháy nguy hiểm nhất có thể là
Hongkong và Đài Loan, nơi hiện trạng rất mong manh và cán cân quyền lực
thì ủng hộ Bắc Kinh. Lầu năm góc đã ban hành 18 bài tập mô phỏng chiến
tranh chống lại Trung Quốc trên Đài Loan và lần nào thì Trung Quốc cũng
đã thắng. Washington nên làm rõ rằng bất kỳ chiến thắng nào như vậy cũng
sẽ là chiến thắng kiểu Pyrros[8],
dẫn đến sự sụp đổ kinh tế ở Hongkong hoặc Đài Loan, sự di cư hàng loạt
từ các đảo đó và sự lên án của quốc tế. Nếu Bắc Kinh hành động một cách
mau lẹ [nguyên văn: dốc/dựng đứng] ở Hongkong hoặc Đài Loan, chính sách
hợp tác của Mỹ sẽ trở nên không thể biện hộ được trong nhiều năm.
Sự đồng thuận mới về Trung Quốc bắt nguồn từ nỗi sợ hãi rằng một lúc nào
đó nước này có thể chiếm lấy toàn cầu. Nhưng có lý do để có niềm tin vào
sức mạnh và mục đích của Mỹ. Cả Liên Xô lẫn Nhật Bản đều không thể chiếm
lĩnh thế giới, bất chấp những lo ngại tương tự về sự trỗi dậy của họ.
Trung Quốc đang trỗi dậy nhưng phải đối mặt với một loạt thách thức nội
bộ, từ sự suy vi nhân khẩu học đến hàng núi nợ nần. Nó đã thay đổi trước
đó và sẽ buộc phải thay đổi một lần nữa nếu các lực tích hợp và răn đe
tiếp tục đè lên nó. Giới tinh hoa Bắc Kinh biết rằng đất nước của họ đã
thịnh vượng trong một thế giới cởi mở và ổn định. Họ không muốn phá hủy
thế giới đó. Và mặc dù có một thập kỷ trì trệ chính trị trên đại lục,
mối liên hệ giữa sự trỗi dậy của tầng lớp trung lưu và đòi hỏi mở cửa
chính trị lớn hơn nữa là có thật, như đối với hai xã hội Trung Quốc vẫn
được Bắc Kinh theo dõi sát sao - Hồng Kông và Đài Loan.
Một số nhà quan sát Mỹ nói về quan điểm lâu dài của Trung Quốc, về kế
hoạch bí mật, kiên nhẫn của nó thống trị thế giới, liên tục được thực
hiện kể từ năm 1949, nếu không phải là từ trước đó. Học giả và cựu quan
chức Bộ quốc phòng Mỹ, Michael Pillsbury, đã gọi nó là 'cuộc đua
marathon trăm năm' của Trung Quốc trong một cuốn sách thường được chính
quyền Trump ca ngợi. Nhưng một bức tranh chính xác hơn là về một đất
nước đã chần chừ một cách phù hợp từ một liên minh chặt chẽ với Liên Xô
đến sự chia rẽ Trung-Xô, từ Đại nhảy vọt tới Cách mạng văn hóa đến một
câu chuyện thành công tư bản, và từ sự thù địch sâu sắc đối với phương
Tây tới quan hệ chặt chẽ với Mỹ rồi quay trở lại việc tán tỉnh với thái
độ thù địch. Nếu đây là một cuộc đua marathon, nó đã thực hiện một số
bước ngoặt kỳ lạ, nhiều trong số đó có thể đã chấm dứt nó hoàn toàn.
Trong khi đó, kể từ năm 1949, Mỹ đã kiên nhẫn đưa ra các cấu trúc và
chính sách để tạo ra một thế giới ổn định, cởi mở và hội nhập hơn; đã
giúp các nước bước vào thế giới đó; và đã răn đe những kẻ tìm cách phá
hủy nó - tất cả đều thành công đáng kinh ngạc. Washington đã là cái đối
ngược với sự do dự/dao động hay tập trung quá mức xét về ngắn hạn. Vào
năm 2019, quân đội Mỹ vẫn ở bên bờ sông Rhine, họ vẫn đang bảo vệ Seoul
và họ vẫn ở Okinawa.
Trung Quốc đưa ra một thách thức mới và lớn. Nhưng nếu Washington có thể
giữ bình tĩnh và kiên nhẫn tiếp tục theo đuổi chính sách cam kết cộng
với răn đe, buộc Trung Quốc phải điều chỉnh, trong khi [Mỹ] cũng tự điều
chỉnh để tạo không gian cho nó, một học giả nào đó trong nhiều thập kỷ
từ bây giờ có thể viết về kế hoạch không có gì là bí mật của Mỹ nhằm mở
rộng khu vực hòa bình, thịnh vượng, cởi mở và quản trị tốt trên toàn cầu
- một chiến lược marathon đã có kết quả.
[1]
Fareed Zakaria: Nhà báo Mỹ gốc Ấn Độ, năm nay mới 55 tuổi song
đã rất thành công trong sự nghiệp báo chí. Tốt nghiệp ĐH Yale và
lấy bằng PhD tại ĐH Harvard, F. Zakaria giữ nhiều mục cho các
kênh tivi như CNN hay các tạp chí danh tiếng như Foreign
Affairs, Washington Post, Newsweek... Khá nổi tiếng, mặc dù còn
khá trẻ, với những suy nghĩ tự do, độc đáo và độc lập.
[2]
Yuen Yuen Ang: Nhà khoa học chính trị người gốc Singapore, PGS
về khoa học chính trị tại ĐH Michigan, trước khi về làm PGS cho
ĐH Michigan (2011) cô đã là trợ lý giáo sư tại ĐH Columbia. Tốt
nghiệp loại xuất sắc nhất (Summa Cum Laude) ĐH Colorado, lấy
bằng thạc sĩ (2003) và PhD (2009) về khoa học chính trị. Là một
chuyên gia am hiểu về Trung Quốc, diễn giảng nhiều và viết nhiều
cho các tạp chí/báo (như Bloomberg, Foreign Affairs, Project
Syndicate, Wall Street Journal...) về Trung Quốc. Các tác phẩm
(sách, bài báo...) của cô được nhiều giải thưởng và được nhiều
hãng tin, báo, tạp chí trích dẫn.
[3]
Nicholas Lardy: Nhà kinh tế học, thành viên cao cấp danh hiệu
Anthony M. Solomon tại PIIE (Peterson Institute for
International Economics, Viện Peterson về kinh tế quốc tế,
Washington D.C.), chuyên gia giỏi về kinh tế Trung Quốc, tác giả
của vài chục đầu sách về Trung Quốc. N. Lardy đồng thời là thành
viên và là biên tập viên trong ban biên tập của Asia Policy và
China Review, Hội đồng quan hệ quốc tế CFR (Council on Foreign
Relations, một think-tank hàng đầu thế giới về quan hệ quốc tế,
có ảnh hưởng nhất ở Mỹ). N. Lardy tốt nghiệp ĐH Wisconsin (1968)
và lấy bằng PhD tại ĐH Michigan (1975), đều về kinh tế học.
[4]
Hệ thống kiểu Orwell: Mang tên nhà văn, nhà báo và nhà phê bình
người Anh từng mô tả một kiểu điều kiện xã hội 'biểu thị một
thái độ và chính sách tàn bạo kiểm soát hà khắc bằng công tác
tuyên truyền, giám sát, thông tin sai, chối bỏ sự thật và thao
túng quá khứ'.
[5]
Tiếng Việt thường được dịch là 'Giấu mình chờ thời'. Nguyên bản
tiếng Trung Quốc của câu ngạn ngữ đó là
韜光養晦 (thao quang dưỡng hối),
nghĩa đen là 'giấu ánh sáng nuôi dưỡng bóng tối', do Đặng Tiểu
Bình sử dụng để ẩn dụ về chính sách đối ngoại của Trung Quốc khi
đó.
[6]
Cái bẫy Thucydides (Thucydides trap): Thucydides (nhà sử học
thực chứng đầu tiên trên thế giới) đã viết từ hơn 2400 năm trước
trong cuốn 'Lịch sử chiến tranh Peloponnesus' về nguyên nhân của
cuộc chiến tranh: 'sự lớn mạnh của cường quốc Athens và nỗi lo
sợ mà nó gây ra ở Sparta'. Nói một cách khác, khi một cường quốc
trỗi dậy, một cường quốc đã sẵn có sẽ lo ngại và chuẩn bị chiến
tranh, với cái này biến thành một vòng luẩn quẩn thì rút cục sẽ
dẫn đến chiến tranh. Khái niệm 'cái bẫy Thucydides' đã được G.
T. Allison (GS nổi tiếng về khoa học chính trị tại Trường hành
chính Kennedy, ĐH Harvard) đặt ra và sử dụng để ám chỉ rằng sự
lo ngại của Mỹ trước sức mạnh đang tăng lên của Trung quốc có
thể chuyển hóa thành chiến tranh (nóng hay lạnh). Trong bài báo
có tựa đề 'The Thucydides Trap', Foreign Policy 9-6-2017, G.
Allison đã tổng kết rằng 'trong 500 năm qua đã có 16 trường hợp
trong đó một cường quốc đang nổi lên đe doạ sẽ thay thế một
cường quốc cầm quyền. Mười hai trong số này đã kết thúc trong
chiến tranh.' Bốn trường hợp còn lại, theo G. Allison là 'Tây
Ban Nha vượt qua Bồ Đào Nha vào cuối thế kỷ 15, Mỹ vượt qua Anh
vào đầu thế kỷ 20, và sự trỗi dậy của Đức ở châu Âu từ năm 1990
- sự đi lên của Liên bang xô viết là một bài học độc nhất vô nhị
ngày hôm nay. Mặc những khoảnh khắc mà một cuộc đụng độ dữ dội
dường như đã chắc chắn diễn ra, một sự dâng trào trí tưởng tượng
chiến lược đã giúp cả hai bên phát triển các cách cạnh tranh mà
không xảy ra một cuộc xung đột thảm khốc. Cuối cùng, Liên bang
xô viết đổ ụp và Chiến tranh lạnh kết thúc với một tiếng rên chứ
không phải bằng một tiếng nổ.'
[7]
Tổ hợp công nghiệp-quân sự (MIC, Military-Industrial Complex):
Liên minh nhằm những mục đích chung giữa những nhân vật hoạch
định chính sách, các tướng lĩnh quân đội với các công ty sản
xuất/cung ứng đồ quân sự cũng như những tầng lớp trong xã hội
quan tâm tới ngân sách quốc phòng, bao gồm cả những người vận
động hành lang. Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower, đưa ra khái
niệm này lần đầu vào năm 1961 trong diễn văn từ biệt đọc trước
quốc hội, cảnh báo về nguy cơ có thể gây hại cho xã hội của liên
minh công nghiệp-quân phiệt móc ngoặc và thao túng đó. Xin lưu ý
không nên nhầm lẫn với khái niệm Tổ hợp công nghiệp quốc phòng
(DIC, Defence-Industrial Complex, trong tiếng Nga là
Военно-Промышленный Комплекс, nếu được dịch sát từng chữ cũng sẽ
là 'Tổ hợp công nghiệp-quân sự' nên hay gây nhầm lẫn) vẫn được
các nhà nghiên cứu lịch sử thiên về kinh tế của các nước phương
Tây sử dụng để chỉ Phức hợp công nghiệp-quân sự trong quá trình
nghiên cứu về công nghiệp quân sự Liên xô trước đây - bao gồm
công nghiệp quốc phòng, các đơn vị nghiên cứu và sản xuất của
nó, lực lượng lao động và hệ thống quản lý, các nhà máy và các
nhà lãnh đạo, không bao hàm các lãnh đạo Đảng, nhà nước, quân
đội chuyên nghiệp cũng như một số thành phần khác.
[8]
Chiến thắng kiểu Pyrros (Pyrrhic victory): Là chiến thắng mang
tính hủy diệt đối phương song bên chiến thắng cũng tổn thất nặng
nề, có thể dẫn tới diệt vong. Pyrros là vua và là chỉ huy quân
sự kiệt xuất xứ Ipiros (Hy Lạp cổ đại), từng chiến thắng, đánh
tan tác quân La Mã trong các trận đánh tại Heraclea (280 TCN) và
Asculum (279 TCN) song mất rất nhiều binh lực và tướng tài, bản
thân nhà vua cũng bị thương. Sau chiến thắng Asculum, quần thần
dâng lời tôn vinh chiến công, nhà vua nói rằng 'Thêm một trận
thắng như vậy thì sự nghiệp của trẫm cũng đi đời'. Thực tế thì,
mặc dù quân La Mã bị tổn thất nặng hơn quân Ipiros rất nhiều
trong các trận Heraclea và Asculum song La Mã có tiềm lực hơn
hẳn Ipiros (các thiệt hại không bù đắp được) nên tới năm 275 TCN
thì La Mã đánh bại Ipiros. |