Andrew Nathan:
What Is Xi Jinping Afraid Of? Người dịch: Huỳnh Hoa
Tập Cận Bình sợ điều gì?
Andrew J. Nathan (*)
Ông Tập Cận Bình (Xi Jinping)
sợ điều gì? Trong mấy năm trước khi diễn ra đại hội lần thứ 19 của đảng
Cộng sản Trung Quốc tháng 10 vừa qua, chính phủ của ông Tập đã siết chặt
sự kiểm soát các luật sư, học giả, người hoạt động xã hội dân sự và trí
thức công. Chính phủ Trung Quốc cũng gia tăng quản lý báo chí truyền
thông trong lúc nâng cao mức độ tuyên truyền về sự xuất sắc của sự lãnh
đạo của ông Tập và đòi hỏi các đảng viên và cán bộ nhà nước phải trung
thành nhiều hơn nữa. Chiến dịch chống tham nhũng đã tiếp tục nhổ bật gốc
nhiều quan chức cao cấp, những người tỏ ra không đủ trung thành cá nhân
với ông Tập.
Trường hợp gần đây gây ngạc nhiên nhất là vụ ngã ngựa hồi tháng 9 của
ông Tôn Chính Tài (Sun Zhengcai),
một ủy viên bộ chính trị và bí thư thành ủy đảng Cộng sản Trung Quốc của
đại đô thị Trùng Khánh vùng tây nam Trung Quốc. Giống như tất cả các
quan chức cao cấp bị hạ bệ khác, Tôn bị cáo buộc tội tham nhũng, dâm
loạn về tính dục và nhiều tội lỗi khác – những cáo buộc mà hầu như đồng
chí đồng nghiệp nào của ông cũng đều phạm phải – nhưng tội lỗi thật của
ông ta có lẽ là đã không nỗ lực đầy đủ để khuếch trương sự ủng hộ ông
Tập ở thành phố Trùng Khánh, nơi cựu đối thủ của ông Tập – cựu bí thư
Bạc Hy Lai (Bo Xilai) – được
cho là vẫn còn được ủng hộ nhiều hơn so với ông Tập dù 5 năm đã trôi qua
kể từ khi ông Bạc bị tước mất quyền lực một cách ngoạn mục. Ông Tôn đã
bị thay thế bởi ông Trần Mẫn Nhi
(Chen Min’er), mà nhiệm vụ hàng đầu là xóa bỏ di sản của ông Bạc
khỏi đất Trùng Khánh.
Tại đại hội đảng mới đây, ông Tập bố trí vào ủy ban trung ương và hai cơ
quan lãnh đạo cấp cao hơn – bộ chính trị và ủy ban thường vụ bộ chính
trị - những người trung thành với ông. Mười lăm trong số 25 ủy viên bộ
chính trị có lịch sử giao du với ông Tập từ những ngày ông bắt đầu sự
nghiệp chính trị ở các tỉnh Phúc Kiến và Chiết Giang (thậm chí có một
trường hợp đã quen với ông trong những ngày ông còn là thanh niên bị đưa
xuống nông thôn tỉnh Thiểm Tây trong thời Cách mạng Văn hóa). Mười ủy
viên còn lại gồm các nhà kỹ trị, một phụ nữ làm kiểu, và hai sĩ quan
quân đội theo tiêu chuẩn là những người mang ơn ông Tập đã phong hàm cho
họ - không có ai đại diện cho một thách thức chính trị có ý nghĩa. Và
không ai trong số bảy ủy viên ủy ban thường vụ có cấp bậc hoặc tuổi tác
phù hợp để kế vị ông Tập, cho thấy ông có ý định phục vụ nhiều hơn hai
nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ 5 năm, thường thấy của vị trí tổng bí thư. Việc
đưa vào cương lĩnh của đảng một hệ tư tưởng có vai trò dẫn dắt mới, gọi
là Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc điểm Trung Quốc
trong kỷ nguyên mới, càng cho thấy rằng ngay cả khi ông Tập cuối cùng sẽ
bước xuống thì ông vẫn tiếp tục thống trị.
Bài diễn văn của ông Tập trước đại hội – một diễn văn kéo dài ba tiếng
rưỡi đồng hồ chỉ nhắc lại hết câu khẩu hiệu này đến câu khẩu hiệu khác
mà không giải thích được chúng có ý nghĩa gì – huênh hoang rằng cán bộ
đảng và quan chức chính phủ sẽ được thăng tiến dựa trên thành tích.
Nhưng nó định nghĩa thành tích như là “tuân theo sự lãnh đạo của hạt
nhân [tức là ông Tập], đi theo sự lãnh đạo của trung ương đảng [ông
Tập]” và “ủng hộ quyền uy của ủy ban trung ương [ông Tập]”. Ông Tập đã
định nghĩa lại chế độ trọng dụng nhân tài
(meritocracy) thành chế độ đi
theo (followocracy). Trong
các cuộc thảo luận tổ suốt thời gian đại hội, các đại biểu đảng tranh
nhau vươn tới các đỉnh cao mới về nhiệt tình tôn vinh sự lãnh đạo của
ông Tập.
Tại sao lại có sự tập trung quyền lực mạnh mẽ và nhấn mạnh vào sự tuân
phục như vậy? Ông Tập tuyên bố rằng, Trung Quốc đang sắp hoàn thành giấc
mộng vĩ đại là trẻ hóa dân tộc. Nhưng nhiều động thái mà ông đã thực
hiện như là dấu hiệu về sức mạnh của ông lại là những chứng cớ bộc lộ
nỗi âu lo của ông Tập. Như chính ông Tập đã thổ lộ trong bài diễn văn
trước đại hội đảng: “Triển vọng rất tươi sáng nhưng thách thức rất
nghiêm trọng”.
NHỮNG THẬP NIÊN NGUY HIỂM NHẤT
Thách thức đầu tiên là sự phản kháng đối với sự vươn lên của Trung Quốc
mà Bắc Kinh dự đoán từ phía Washington. Các nhà chiến lược Trung Quốc
gần như đều bám vào lối suy nghĩ thực tế gắn liền với tư tưởng của John
Mearsheimer và Graham Allison, vốn cho rằng một thế lực thống trị được
kỳ vọng sẽ chống lại sự trỗi dậy của một đối thủ cạnh tranh cùng trang
lứa. Mười năm về trước, khi ông Tập vẫn còn là người chuẩn bị kế vị mà
chưa phải là tổng bí thư đảng, ông đã nói rõ cái lý thuyết về một “kiểu
quan hệ mới giữa các cường quốc quan trọng”, với hy vọng thuyết phục các
nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ tạo điều kiện thuận lợi cho cái mà
Trung Quốc miêu tả là “lợi ích cốt lõi” của nước này. Nhưng thay vì vậy,
dưới thời tổng thống Barack Obama và ngoại trưởng Hillary Clinton,
Washington lại theo đuổi chính sách “xoay trục sang châu Á”, xoay quanh
các chính sách như đàm phán một hiệp định thương mại Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP), phục hồi các liên minh quân sự trong khu vực và vun
đắp mối hợp tác quốc phòng với các đối tác châu Á chưa phải là đồng minh
chính thức của Hoa Kỳ. Đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, các chính
sách như vậy đại diện cho một nỗ lực làm suy yếu sức mạnh của Trung Quốc
và duy trì mãi mãi vị thế thống trị của Hoa Kỳ.
Sự xuất hiện của ông Donald Trump đã mang lại cho Trung Quốc một nỗi nhẹ
nhõm khỏi áp lực của Hoa Kỳ. Trump đã rút ra khỏi TPP, làm lung lay niềm
tin của các đồng minh vào cam kết bảo vệ an ninh của Hoa Kỳ và đóng một
vai trò hỗ trợ trong việc xây dựng sự sùng bái ông Tập. Nhưng là những
người Marxist hiện đại, các nhà lãnh đạo Trung Quốc nghĩ rằng, những lợi
ích thuộc về cấu trúc thì quan trọng hơn nhiều so với các cá nhân. Chẳng
sớm thì muộn, bằng cách này hay cách khác, có hoặc không có ông Trump,
Hoa Kỳ vẫn sẽ cố gắng chặn đứng đà vươn lên của Trung Quốc. Trong mắt
nhìn của họ, những thập niên cuối cùng sẽ tới trong động lực vươn tới
một quốc gia vĩ đại (mà ông Tập xác định thời điểm vào năm 2049), là đặc
biệt nguy hiểm. Ngay cả bây giờ, cái mà Trung Quốc nhìn thấy như là sự
xử trí sai lầm của Hoa Kỳ đối với tình hình Bắc Hàn – cường điệu cuộc
khủng hoảng và đe dọa chiến tranh thay cho giảm căng thẳng và đàm phán –
được các nhà phân tích Trung Quốc coi như một âm mưu xảo quyệt của Mỹ.
Lối suy nghĩ này cho rằng, căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên có nghĩa
là buộc Trung Quốc phải từ bỏ vùng đệm Bắc Hàn cách ly lực lượng Hoa Kỳ
và kích thích các đồng minh của Hoa Kỳ ở châu Á nâng cấp khí tài quân sự
và thậm chí còn có thể thủ đắc vũ khí hạt nhân.
Với những mối lo sợ như vậy trong tâm trí, ông Tập nhắc đi nhắc lại
trong bài diễn văn của ông tại đại hội đảng cái nhu cầu “thực hiện chính
sách ngoại giao nước lớn với đặc điểm Trung Quốc, [một chính sách ngoại
giao] nhắm tới việc nuôi dưỡng một kiểu mới của quan hệ quốc tế và xây
dựng một cộng đồng cùng chia sẻ tương lai của nhân loại”. Nói cách khác,
hãy tiếp tục cố gắng để Washington chấp nhận một cách hòa bình sự trỗi
dậy của Trung Quốc càng lâu càng tốt.
THÊM LUẬT LỆ, THÊM KẺ CẮP
Một thách thức khác cho chế độ của ông Tập là thách thức nội bộ. Như ông
đã nói trong bài diễn văn trước đại hội, “Những gì chúng ta đang đối mặt
bây giờ là mâu thuẫn giữa một bên là sự phát triển không cân bằng, không
cân đối và một bên là nhu cầu ngày càng tăng của người dân về một đời
sống tốt đẹp hơn”. Ông đã đề cập tới cuộc cách mạng của các kỳ vọng dâng
trào – kỳ vọng có không khí sạch hơn, nhà cửa vừa túi tiền hơn, sản phẩm
an toàn hơn và dịch vụ công tốt hơn – từ phía tầng lớp trung lưu đang
gia tăng nhanh chóng, từ các giai cấp nông dân và lao động khao khát
vươn lên của Trung Quốc. Cuộc cách mạng này xảy đến giữa lúc tăng trưởng
kinh tế đang chậm lại và một nhu cầu khẩn cấp phải thực hiện những cuộc
cải cách khó khăn để làm giảm nợ nần của ngân hàng và chính quyền địa
phương, phục hồi các doanh nghiệp nhà nước và tái tạo nền kinh tế năng
lượng của Trung Quốc.
Nhiều xã hội đã từng trải qua những áp lực và căng thẳng nội bộ mà chế
độ cai trị không hề bị sụp đổ. (Xã hội Mỹ ngày nay là một ví dụ tốt,
trong đó gần như mọi người đều tức giận về tình trạng của nền chính trị
và kinh tế). Nhưng ở Trung Quốc, ngay cả một biểu hiện nhỏ của sự bất
mãn cũng bị coi là mối đe dọa sống còn cho đảng cầm quyền. Chuyện này
được minh họa rõ nét vài tuần trước đây khi chính phủ nhanh chóng dập
tắt sự biểu lộ nỗi giận dữ của công chúng trước vụ bạo hành trẻ em tại
một nhà trẻ ở Bắc Kinh. Cần thiết phải triệt tiêu những biểu hiện giận
dữ không dự liệu trước của dân chúng trước khi chúng lan tràn, bởi vì
như ông Tập nói trước đại hội, “Yếu tố xác định chủ nghĩa xã hội mang
đặc điểm Trung Quốc là sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Trung Quốc”.
Sách Đạo đức kinh của đạo Lão
khuyên bảo, “Càng có nhiều luật lệ, nhiều mệnh lệnh thì càng có nhiều kẻ
cắp và kẻ cướp”. Bằng cách nhấn mạnh vào sự độc chiếm quyền lực, đảng
Cộng sản Trung Quốc đã biến mọi tiếng nói độc lập thành một mối đe dọa
sinh tử. Ấy thế nhưng mục đích được tự xác định cho sự tồn tại của đảng
là tạo ra một xã hội hiện đại, và trong cái xã hội hiện đại ấy, các
tiếng nói độc lập sẽ liên tục vang lên. Sự cai trị đang diễn ra của ông
Tập – cho dù nó được kéo dài thêm 5 năm, 10 năm hoặc thậm chí lâu hơn
nữa – sẽ thử nghiệm những gì mà mọi người bắt đầu gọi là “mô hình Trung
Quốc”, một mô hình hoàn toàn phụ thuộc vào niềm tin rằng công cuộc hiện
đại hóa tiên tiến có thể tương thích với một chính quyền chuyên chế và
đàn áp.
(*) Andrew J. Nathan: giáo sư
khoa học chính trị, trường đại học Columbia, đồng tác giả với Andrew
Scobell viết cuốn sách “China’s Search for Security” (Trung Quốc tìm
kiếm an ninh). |