Andrew Nathan:
Self-interest shapes China’s policies toward the international order Người dịch: Huỳnh Hoa
Tư lợi định hình chính sách của
Trung Quốc
Andrew J Nathan (*)
Sự gia
tăng ngoạn mục về kinh tế, chính trị và quyền lực mềm của Trung Quốc từ
thập niên 1990 đã làm phát sinh mối quan tâm ngày càng tăng rằng Bắc
Kinh đang tìm cách lật đổ trật tự tự do quốc tế
(liberal international order).
Cái trật tự thời hậu chiến do Hoa Kỳ xây dựng bao gồm một bộ quy tắc và
các thiết chế (institutions)
thúc đẩy thương mại tự do và tương tác kinh tế “mở”, thiết lập những thủ
tục, trình tự giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia một cách hòa bình,
căn cứ theo luật lệ. Vài
người tin rằng, Trung Quốc đang tìm cách thay đổi trật tự này theo những
cách thức rất căn bản. Amitav Acharya chẳng hạn, đã viết “sẽ là ngụy
biện nếu cho rằng bởi vì Trung Quốc, Ấn Độ và những cường quốc đang nổi
lên khác là những người hưởng lợi từ trật tự tự do cho nên họ sẽ tuân
thủ các quy tắc và thiết chế của nó. Có lẽ họ sẽ không tìm cách đảo
ngược nó nhưng sẽ thúc đẩy những sự thay đổi làm biến cải sâu sắc những
quy tắc và thiết chế của trật tự ấy”. Nhưng
về căn bản quan hệ của Trung Quốc với trật tự tự do quốc tế cũng giống
hệt như quan hệ của các quốc gia quan trọng khác. Sở dĩ như vậy bởi vì ở
đa số phương diện trật tự này phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Trung Quốc
đã tham gia các hiệp định và các thiết chế tạo nên trật tự này và tuân
thủ đầy đủ như các quốc gia quan trọng khác. Trung Quốc có tìm cách gây
ảnh hưởng tới trật tự ấy - nhưng không phải để lật đổ nó hoặc biến đổi
nó một cách căn bản. Hàng
loạt lý thuyết được đưa ra để giải thích điều gì đang dẫn dắt chính sách
đối ngoại của Trung Quốc. Một trong những lý thuyết đó nhìn thấy Trung
Quốc đang thúc đẩy một hệ tư tưởng đặc biệt, một tầm nhìn về hệ thống
quốc tế và vai trò của Trung Quốc trong hệ thống đó, chẳng hạn như
nguyên lý về chủ quyền quốc gia, thế giới đa cực, giá trị châu Á hoặc sự
thống trị của Trung Quốc. Nhưng thay vì vậy, các chính sách của Trung
Quốc có thể được coi như những phản ứng thực dụng với những lợi ích quốc
gia đặc thù, chẳng hạn như bảo vệ phúc lợi vật chất, mở rộng ảnh hưởng
và làm suy yếu tác động của những cường quốc cạnh tranh như Hoa Kỳ. Việc
xem xét một số cơ chế quốc tế hỗ trợ quan điểm rằng lập trường đàm phán
của Trung Quốc dựa trên lợi ích chứ không dựa trên sự thay đổi dứt
khoát. Trong
đàm phán thương mại khu vực, Trung Quốc muốn thị trường thế giới mở cửa
thêm nữa cho xuất khẩu hàng công nghiệp. Khi hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP) đang được đàm phán, Trung Quốc tỏ ra quan tâm
nhưng không có ý định tham gia – có lẽ vì khuôn khổ của TPP đặt ra những
điều kiện về lao động và môi trường mà các nhà hoạch định chính sách
Trung Quốc cho là không thuận lợi cho họ. Thay vì vậy, Trung Quốc đã
tham gia hoặc tạo ra các hiệp định thương mại tự do song phương hoặc khu
vực, chẳng hạn như hiệp định thương mại tự do Trung Quốc-ASEAN và Đối
tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) – những hiệp định đặt ra tiêu chuẩn
thấp hơn về bảo vệ môi trường và xã hội so với TPP. Sự tham
gia của Trung Quốc vào các cơ chế kiểm soát vũ khí và giải trừ quân bị
cũng phục vụ cho tình trạng chiến lược hiện hữu. Trung Quốc ủng hộ việc
phản đối Bắc Hàn và Iran phát triển và phổ biến vũ khí hạt nhân, Trung
Quốc ủng hộ sự phát triển hơn nữa cơ chế kiểm soát vũ khí. Nhưng Trung
Quốc ủng hộ tuyên bố về các khu vực phi vũ khí hạt nhân – một tuyên bố
mà Hoa Kỳ, cường quốc hạt nhân hàng đầu, đã không ủng hộ. Tương tự như
vậy, Trung Quốc ủng hộ lệnh cấm sử dụng vũ khí hạt nhân để ra tay trước,
cấm phát triển hỏa tiễn chống hỏa tiễn đạn đạo và chạy đua vũ trang
trong không gian – tất cả những lĩnh vực mà Hoa Kỳ đang có lợi thế. Tóm
lại, Trung Quốc là người ủng hộ cơ chế kiểm soát vũ khí và giải trừ quân
bị, nhưng cũng giống các nước khác, họ theo đuổi những lợi ích riêng của
mình, liên quan tới cách thức mà cơ chế ấy áp dụng hoặc phát triển. Trong
hơn một phần tư thế kỷ qua Trung Quốc đã gây được ảnh hưởng đáng kể lên
cách thức hoạt động của cơ chế bảo vệ nhân quyền quốc tế. Trong Hội đồng
Nhân quyền Liên hiệp quốc (UNHCR), Trung Quốc và các nước hợp tác với họ
đã thúc đẩy nguyên lý về tính phổ quát, nhằm làm giảm mức độ mà mỗi quốc
gia riêng lẻ được chọn ra để quan tâm đặc biệt. Tương
tự, Trung Quốc là một trong những nước quảng bá sáng kiến của UNHCR yêu
cầu mỗi quốc gia phải đệ trình Kế hoạch Hành động Nhân quyền của mình,
cho phép mỗi quốc gia đưa ra cách diễn dịch riêng về cách hiểu và áp
dụng các quy tắc nhân quyền quốc tế ở nước mình. Tác động thuần của nỗ
lực này, cùng nhiều nỗ lực khác nữa, chẳng hạn như kiềm chế ảnh hưởng
của các tổ chức phi chính phủ, đã đặt Trung Quốc vào vị trí tuân thủ
những ưu tiên mà chính họ tự đặt ra, cách ly Trung Quốc khỏi những áp
lực nặng nề thông qua UNHCR. Nhờ những thành tựu ngoại giao này, Bắc
Kinh có vẻ như không thích có sự thay đổi quan trọng nào, hoặc sự bãi bỏ
cơ chế quốc tế. Cũng
tương tự như vậy, Trung Quốc (giống như mọi quốc gia khác) đã diễn dịch
Luật Biển theo lợi ích của họ. Năm 1996, Trung Quốc đã tán thành Công
ước Liên hiệp quốc về Luật Biển, đã diễn dịch những điều khoản về thềm
lục địa và vùng đặc quyền kinh tế nhằm đòi hỏi quyền kiểm soát những
vùng biển rộng lớn. Trung Quốc đã đưa ra đòi hỏi chủ quyền ở những thực
thể nổi trên biển dựa trên những điều khoản của luật quốc tế như quyền
của người khám phá đầu tiên, của người chiếm giữ liên tục. Trung Quốc
cũng diễn dịch những điều khoản về “đi qua vô hại” khi từ chối quyền của
các chiến hạm hải quân và máy bay của không lực Hoa Kỳ thực hiện các
hoạt động do thám và “tự do đi lại” trong vùng biển của Trung Quốc (???)
mà không được Trung Quốc cho phép. Về biến
đổi khí hậu, Trung Quốc ủng hộ nguyên tắc của Nghị định thư Kyoto và
tham gia hiệp định khí hậu Paris 2016. Bắc Kinh cũng nói rằng, họ sẽ
tiếp tục tuân thủ hiệp định khí hậu Paris cho dù tổng thống Donald Trump
đã tuyên bố rút Hoa Kỳ ra khỏi hiệp định này. Tổng
hợp lại, hành vi của Trung Quốc trong các cơ chế quốc tế không thể hiện
một phương thức thúc đẩy một “mô hình Trung Quốc” rõ ràng, hoặc một tầm
nhìn thay thế về trật tự thế giới. Nếu có một mô thức rộng lớn hơn thì
đó là Trung Quốc có xu thế trở thành một cường quốc bảo thủ: nó chống
lại những nỗ lực của Hoa Kỳ và các đối tác của Hoa Kỳ uốn nắn các cơ chế
theo hướng không thuận cho lợi ích của Trung Quốc. Trong cuộc cạnh tranh
với Washington và các đồng minh của Hoa Kỳ, Trung Quốc thường bảo vệ cho
cách diễn dịch cổ lỗ hơn về chủ quyền quốc gia, chống lại một cách diễn
dịch hạn chế hơn nhiều. Do đó, sẽ khó mà hình dung một kịch bản thực tế
trong đó Trung Quốc sẽ nỗ lực cách mạng hóa hoặc lật đổ các quy tắc toàn
cầu.
(*) Andrew J Nathan là giáo sư
khoa học chính trị Đại học Columbia. Bài này
rút ra từ bài
“China’s Rise and International
Regimes: Does China Seek to Overthrow Global Norms?” (Sự trỗi
dậy của Trung Quốc và các cơ chế quốc tế: Trung Quốc có tìm cách lật đổ
các quy tắc toàn cầu?”) trong tập sách
“China in the Era of Xi Jinping”
(Trung Quốc trong kỷ nguyên Tập Cận Bình), do Robert S. Ross và Jo Inge
Bekkevold biên tập; Washington DC: nxb Georgetown University Press,
2016; trang 165-195) |