Blog RFA
Vấn đề chống tham nhũng hiện nay Nguyễn Vũ Bình
Trong thời gian gần một năm trở lại
đây, vấn đề chống tham nhũng ở Việt Nam đã trở thành đề tài được cả nước
quan tâm. Một loạt lãnh đạo các ngân hàng bị bắt và đưa ra xét xử. Các
quan chức cũng nhiều người bị bắt và bị kết án. Đỉnh điểm của cuộc chiến
chống tham nhũng ở Việt Nam là việc bắt giam và xét xử ông Đinh La
Thăng, người từng có chức vụ cao nhất là ủy viên bộ chính trị. Điều này
mới nhìn qua thì có thể nghĩ việc chống tham nhũng của đảng cộng sản
Việt Nam là quyết liệt, mạnh mẽ và không có vùng cấm nào. Tất nhiên, dàn
đồng ca của báo chí chính thống không bỏ lỡ cơ hội tung hô sự thành công
của công cuộc chống tham nhũng, sự nghiêm minh của pháp luật và chế độ.
Đối với một luồng ý kiến khác, cuộc chiến chống tham nhũng đang diễn ra
đơn thuần chỉ là sự thanh trừng phe phái của những người có quyền lực
nhất trong chế độ. Trong phạm vi nào đó, luồng ý kiến này có thể hợp lý,
nhưng xét bối cảnh chung, vấn đề không hoàn toàn như vậy.
I/ Thực trạng và nguyên nhân tham nhũng
ở Việt Nam
Có thể khái quát, ở Việt Nam, tham
nhũng là phương thức tự tồn tại của tất cả những người có điều kiện tham
nhũng do mức lương khốn khổ cộng với tình trạng mua quan, bán tước nở rộ
hiện nay. Như vậy, bất cứ ở đâu, bất cứ ngành nghề nào, cấp nào, lĩnh
vực nào và hoàn cảnh nào cũng đều có tham nhũng. Khi đã nói tham nhũng
là phương thức tự tồn tại có nghĩa là nếu ai ở vị trí có điều kiện mà
không tham nhũng, thì người đó tự loại mình ra khỏi cuộc chơi, hay ra
khỏi công việc, vị trí đang đảm nhiệm. Vấn đề này, bất cứ ai có lương
tâm, và một chút hiểu biết đều phải công nhận như vậy.
Về mức độ của tham nhũng, tức là tỷ lệ
phần trăm số tiền bị tham nhũng, thất thoát trong các dự án, tùy ngành
nghề và lĩnh vực, nhưng tỷ lệ thông thường là từ 70-75% giá trị dự án.
Số tiền thực chi trong các dự án chỉ là 25-30%. Tính chất nghiêm trọng
của tham nhũng còn thể hiện ở những lĩnh vực nhân đạo của con người, đó
là ngành y, nghề thầy thuốc. Chúng ta hình dung người bệnh nhân cần đút
lót cho y, bác sĩ để họ tiêm không bị đau thì không còn một từ ngữ nào
để diễn tả thảm trạng tham nhũng của đất nước. Guồng quay tham nhũng
diễn ra mọi nơi, mọi lúc trong toàn xã hội.
Nguyên
nhân của tham nhũng ở Việt Nam.
Tham nhũng ở Việt Nam hầu như ai cũng hiểu, đó chính là do cơ chế, thể
chế chính trị độc tài toàn trị cộng sản gây ra, và đó chính là bản chất
của chế độ. Tuy nhiên, chúng ta cần phân tích đầy đủ để hiểu được thể
chế chính trị đã gây ra tình trạng tham nhũng như thế nào, từ đó mới có
thể nhận định được kết quả của công cuộc chống tham nhũng hiện nay.
-
Động cơ tham nhũng: Khác với
các quốc gia dân chủ, nơi động cơ của chủ thể tham nhũng thường là lòng
tham bất chợt nổi lên,hay một tình huống đột xuất về tài chính dẫn dắt
tới hành vi tham nhũng. Ở Việt Nam, động cơ tham nhũng tiềm ẩn ở tất cả
các cán bộ, công nhân viên chức, quan chức trong toàn hệ thống. Có hai
lý do cho việc này. Thứ nhất,
mức lương, thu nhập của cán bộ, công nhân viên chức, quan chức không đủ
sống theo nhu cầu bình thường của họ. Do cấu trúc của chế độ độc tài
toàn trị cộng sản, có hai hệ thống đảng và nhà nước song hành cùng với
các hội, đoàn nhằm kiểm soát dân chúng mà số lượng người hưởng lương,
phụ cấp của ngân sách là con số khổng lồ, ít nhất 15-20 triệu người. Với
số lượng lớn như vậy, lương và thu nhập của các thành viên trong hệ
thống không đủ sống là điều đương nhiên.
Thứ hai, việc mua suất biên
chế, mua quan, bán tước là phổ biến và được coi như một khoản đầu tư. Do
đó, khi có vị trí, tất cả đều phải tìm cách tham nhũng để thu hồi số
tiền đã bỏ ra cho việc chạy biên chế, chạy chức, chạy quyền. Đây vừa là
động cơ tham nhũng vừa là hậu quả của một loại hình tham nhũng, đó là
tham nhũng quyền lực.
Như vậy, đối với tất cả các thành viên
trong hệ thống của bộ máy đảng và nhà nước, động cơ tham nhũng là tiềm
ẩn, sẵn sàng khi có bất cứ cơ hội nào để duy trì cuộc sống và trang trải
những khoản đầu tư cho vị thế, công việc của mình cũng như có một cuộc
sống sung sướng, hưởng thụ…
- Môi
trường và nguồn gốc tham nhũng: Tuy có sẵn động cơ tham nhũng, nhưng
trong môi trường có sự trung thực, công khai, minh bạch cùng với hệ
thống tam quyền phân lập, đối trọng quyền lực và các định chế ngăn ngừa,
phòng chống tham nhũng nếu có xảy ra tham nhũng thì đó cũng là những sự
việc đơn lẻ, số ít. Ở Việt Nam nói riêng và các chế độ cộng sản nói
chung không có được môi trường như vậy. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân
về cơ chế, đó là có một tổ chức, một lực lượng và một hệ thống đứng
ngoài và đứng trên pháp luật mà không phải chịu bất kỳ một sự giám sát,
kiểm soát và đối trọng quyền lực nào. Tổ chức và lực lượng đó chính là
đảng cộng sản. Việc đảng cộng sản lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối nhà nước
và nhân dân mà không có một đối trọng quyền lực nào, không chịu sự giám
sát và không phải chịu một trách nhiệm nào chính là cội nguồn của tội ác
và tham nhũng. Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn tới tha hóa tuyệt đối, biểu
hiện của tha hóa đó chính là trục lợi từ quyền lực, chính là tham nhũng.
Chúng ta hình dung, với động cơ tham nhũng tiềm ẩn trong tất cả mọi cá
nhân, thành viên của hệ thống chỉ chờ cơ hội và điều kiện để tham nhũng
trong một môi trường có một tổ chức chi phối, quyết định cả lập pháp,
hành pháp và tư pháp thì bản chất của chế độ chính là một chế độ tham
nhũng nhũng. Và đương nhiên, xuất phát điểm và bao trùm lên tất cả, đó
là tham nhũng quyền lực, tức là kiếm lợi từ việc sắp xếp các vị trí và
vận hành của bộ máy.
II/ Chủ thể và mục tiêu của công
cuộc chống tham nhũng
Hậu quả của hệ thống độc tài toàn trị,
và hậu quả trực tiếp của quốc nạn tham nhũng là sự cạn kiệt nguồn lực và
sự phá sản hoàn toàn của nền kinh tế. Với mức nợ tổng thể gấp 3 lần GDP
tương đương hơn 600 tỷ đô la, sự thua lỗ của tất cả các tập đoàn kinh tế
nhà nước chính là biểu hiện của sự phá sản nền kinh tế. Ở đây chúng ta
cần hiểu một vấn đề quan trọng. Một thực thể là nền kinh tế của một
nước, sự phá sản không chỉ là việc giải thể hoặc ngừng lại của các ngành
sản xuất, mà sự phá sản còn thể hiện ở hiệu quả của nền kinh tế, với
những số nợ ngày càng tăng và hoàn toàn không có khả năng trả được nợ.
Mới chỉ cách đây ba năm, số nợ của nền kinh tế chỉ ước tính gấp đôi GDP,
nhưng nay số nợ đã tương đương với con số nêu trên, tức là gấp ba lần
GDP.
Một hậu quả nặng nề của quốc nạn tham
nhũng là việc hủy diệt nền kinh tế bởi vì chi phí cho các công đoạn của
quá trình sản xuất kinh doanh quá cao. Một trong các ví dụ là các sản
phẩm nông nghiệp giá trị thấp, nhưng khi cộng giá cước vận tải, bao gồm
cả thuế phí và tiền mãi lộ, đã đẩy giá lên rất cao khi đến tay người
tiêu dùng. Điều này dẫn tới tình trạng giá nông phẩm tại nơi sản xuất đã
bị ép xuống mức cùng cực, người nông dân hầu như không còn lãi, thậm chí
công lao động cũng vô cùng rẻ mạt. Trong khi người tiêu dùng lại phải
mua nông sản với giá rất cao. Như vậy, tham nhũng vừa làm cạn kiệt nguồn
lực, lại vừa hủy diệt nền kinh tế.
Đứng trước quốc nạn tham nhũng, đảng
cộng sản cũng đã hiểu ra vấn đề, nếu để kéo dài tình trạng tham nhũng
thì chế độ sẽ sụp đổ. Bởi vì ngoài việc cạn kiệt nguồn lực và sự tan
hoang của nền kinh tế thì sự bất mãn của người dân với vấn nạn tham
nhũng cũng là một yếu tố cần được tính đến. Chính vì vậy, mặc dù không
muốn, nhưng đảng cộng sản vẫn phải thực hiện công cuộc chống tham nhũng
một cách quyết liệt (tất nhiên là theo cách nghĩ về “quyết liệt” của
đảng).
Quan điểm cho rằng, công cuộc chống
tham nhũng hiện nay đơn thuần chỉ là thanh trừng phe phái trong đảng
không hoàn toàn đúng, mặc dù có lý. Đây là chủ trương lớn của đảng, nhận
được sự đồng thuận của phần lớn đảng viên, bởi vì về khía cạnh lo-gic và
hình thức, không ai không nhận ra nguy cơ của quốc nạn tham nhũng, và
cũng không ai không đồng ý với chủ trương tốt đẹp như vậy của đảng. Vấn
đề bên trong, theo truyền thống, khi đảng cộng sản cảm thấy bị đặt vào
tình thế hiểm nghèo (ở đây là sự tồn vong của chế độ do tham nhũng) thì
chính nó sẽ xử lý ngay trong nội bộ để duy trì sự tồn tại của chế độ và
quyền lực tuyệt đối của mình. Điều này lý giải cho việc, ai cũng thấy
rằng, chống tham nhũng là “ta đánh ta” nhưng sự việc vẫn xảy ra thực sự.
Còn vấn đề thanh trừng phe phái cũng rất dễ hiểu. Mặc dù công cuộc chống
tham nhũng được phát động bởi toàn đảng, nhưng người và phe nhóm có
quyền lực nhất đương nhiên phải nhắm vào những đối thủ của mình. Công
cuộc chống tham nhũng vì thế cũng đồng thời là việc triệt hạ đối thủ,
nâng cao uy tín và vị thế của mình, và trục lợi trong chính quá trình
này. Đây là lý do khiến nhiều người đánh đồng cuộc chiến chống tham
nhũng với việc thanh trừng phe phái trong nội bộ đảng cộng sản…
Đảng cộng sản thực hiện công cuộc chống
tham nhũng với ít nhất ba mục tiêu. Thứ nhất, ngăn chặn phần nào quốc
nạn tham nhũng. Đây là mục tiêu mà đảng đặt ra, còn trong thực tế, một
guồng máy hoạt động với động cơ tham nhũng sẵn có đã tồn tại và kéo dài
mấy chục năm, có liên quan, liên đới tới tất cả các bộ phận trong những
mục tiêu tham nhũng, vấn đề có thực hiện được và thực hiện đến đâu lại
là chuyện khác. Thứ hai, thu hồi một phần tài sản của các quan chức tham
nhũng, vụ án tham những để phục vụ duy trì sự tồn tại của chế độ. Thứ
ba, lấy lại được phần nào niềm tin của người dân thông qua công cuộc
chống tham nhũng.
III/ Những kết cục được báo
trước
Đối với bất kỳ một quốc gia nào, công
cuộc chống tham nhũng bao giờ cũng bắt đầu từ việc tạo ra cơ chế phòng,
tránh tham nhũng. Việc đầu tiên là vấn đề đối trọng quyền lực từ các
đảng phái trong nền chính trị. Đối trọng quyền lực vừa là yêu cầu về đa
nguyên, đa đảng cho thể chế dân chủ, vừa là vũ khí để chống tham nhũng
hiệu quả. Khi đảng cầm quyền có các đảng viên tham nhũng, đảng đối lập
sẽ tận tâm, tận lực để điều tra nhằm kết tội đảng cầm quyền và thông qua
bầu cử để loại bỏ đảng cầm quyền, giành thắng lợi. Vấn đề tam quyền phân
lập trong bộ máy nhà nước cũng là cơ chế cũng là cơ chế để ngăn chặn
việc lạm quyền. Ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập và giám
sát, kiềm chế lẫn nhau là cơ chế quan trọng phòng chống tham nhũng. Ngôn
luận, báo chí tự do cũng là một định chế vô cùng quan trọng và hiệu quả
để ngăn ngừa và phát hiện tham nhũng… tóm lại, bản thân thể chế dân chủ
đã là một cơ chế tự thân để phòng và chống tham nhũng.
Khi một quốc gia chưa hội đủ các điều
kiện để thể chế dân chủ vận hành thông suốt và lành mạnh, dẫn tới vấn đề
tham nhũng nghiêm trọng, thì việc chống tham nhũng bao giờ cũng cần
những yêu cầu quan trọng sau.
- Một cơ quan quyền lực, độc lập với
tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đây là yêu cầu đầu tiên, bắt
buộc đối với cơ quan chống tham nhũng. Độc lập ở đây có nghĩa là độc lập
về hoạt động, không bị chi phối và ảnh hưởng của bất kỳ cơ quan nào.
Quyền lực của cơ quan này cũng là tuyệt đối, có thể thâm nhập, yêu cầu
cung cấp thông tin, điều tra bất kể cá nhân, cơ quan và cấp độ nào. Một
sự giới hạn về quyền lực của cơ quan này cũng đều đồng nghĩa với việc
chống tham nhũng nửa vời.
- Những người trong cơ quan chống tham
nhũng phải là những người trong sạch, gương mẫu. Quan chức và cán bộ của
cơ quan chống tham nhũng không thể là những người không trong sạch khi
bản thân công việc đòi hỏi người thực thi phải có tính biểu tượng, gương
mẫu. Nếu người trong cơ quan chống tham nhũng mà có tỳ vết, cũng tham
nhũng thì điều đầu tiên sẽ không có uy tín để làm công việc đặc trưng
đó. Sau nữa, các đối tượng tham nhũng sẽ tấn công vào các tỳ vết của
người thực thi chống tham nhũng để đổi chắc,hoặc làm mất uy tín và chính
nghĩa của cơ quan chống tham nhũng, dẫn tới việc vô hiệu hóa hoạt động
của cơ quan này.
- Sự tham gia của người dân và việc bảo
vê nguồn tin, nhân chứng. Sự tham gia của người dân có nhiều góc độ và
khía cạnh. Có thể là cung cấp thông tin, có thể làm nhân chứng, hoặc hỗ
trợ giúp đỡ cơ quan chống tham nhũng trong việc tiếp cận mục tiêu, đối
tượng điều tra…vv. Ngoài việc đãi ngộ, hoặc thưởng cho những những người
có công, thì vấn đề bảo vệ nguồn tin, bảo vệ nhân chứng phải được đặt
lên hàng đầu. Người dân chỉ có thể tham gia góp sức khi cảm thấy an toàn
và được bảo vệ.
Ngoài những vấn đề nêu trên, thì vẫn
còn những vấn đề nữa góp phần quyết định của công cuộc chống tham nhũng.
Đó là quyết tâm của cả hệ thống chính trị và sự nghiêm minh của pháp
luật. Nhưng đó không phải là những yếu tố có tính chất trực tiếp và cụ
thể…
Đối với vấn đề tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay, để giải quyết được triệt để cần phải giải quyết cái gốc của
vấn đề, tức là tiêu diệt động cơ và cơ chế gây ra tham nhũng. Như đã nói
ở trên, động cơ của tham nhũng tiềm ẩn trong tất cả mọi cá nhân, thành
viên của hệ thống do mức lương quá thấp vì số lượng người quá lớn bám
vào ngân sách. Việc thu hẹp phạm vi và giảm bớt số người của hệ thống là
yêu cầu tiên quyết. Điều này đồng nghĩa với việc thay đổi cấu trúc của
hệ thống độc tài đảng trị hiện nay. Tương tự như vậy, cần phải xóa bỏ
tình trạng một tổ chức, hệ thống, lực lượng đứng trên và đứng ngoài pháp
luật nhưng chi phối toàn diện và triệt để đời sống của người dân. Cần
đặt đảng cộng sản bên dưới và bên trong nhà nước. Pháp luật, hiến pháp
cần được thượng tôn. Và để làm được điều này không có gì đơn giản hơn là
cho các tổ chức, đảng phái chính trị xuất hiện và tồn tại làm đối trọng
và đối lập với đảng cộng sản.
Nói một cách đơn giản và ngắn gọn, dân
chủ hóa đất nước chính là điều kiện và yêu cầu số một trong việc giải
quyết vấn nạn tham nhũng. Đó là giải pháp độc nhất vô nhị nếu thực sự
mong muốn chống tham nhũng hiệu quả. Và quan trọng hơn cả, không còn một
giải pháp nào có thể thay thế được giải pháp dân chủ hóa đất nước.
Về công cuộc chống tham nhũng
hiện nay của đảng cộng sản. Như đã
phân tích ở trên, không phải giải pháp dân chủ hóa đất nước cũng đồng
nghĩa với không giải quyết được gốc rễ, cội nguồn của tham nhũng. Như
vậy, tất cả các giải pháp hiện nay của đảng cộng sản thực sự chỉ là
“phủi bụi” cho tham nhũng, chỉ là ví dụ để người dân thấy, đảng cộng sản
có quyết tâm giải quyết vấn nạn tham nhũng mà thôi. Chính vì cảm nhận
được công cuộc chống tham nhũng của đảng cộng sản không thực sự giải
quyết được vấn đề nên bản thân hệ thống cũng không tham gia một cách
tích cực, nhiêt tình. Mặt khác, tất cả đều tham nhũng, đều nhúng chàm
thì thực hiện việc chống tham nhũng bằng cách nào? Để diễn giải sự thiếu
hiệu quả, sự bất lực của công cuộc chống tham nhũng hiện nay, chúng ta
đối chiếu với yêu cầu, điều kiện thông thường của một cuộc chiến chống
tham nhũng đã nêu ở phần trên.
+ Một cơ quan quyền lực, độc lập với
tất cả các cơ quan khác trong hệ thống. Đây là điều không tưởng trong cơ
chế độc tài toàn trị. Với cơ chế này, nếu không phải là đảng viên thì
không bao giờ được giao trọng trách. Nhưng khi được giao trọng trách lại
phải bảo đảm tuân thủ và chịu sự chi phối của đảng cộng sản. Ở đây chúng
ta đụng ngay phải nguyên nhân cốt lõi của tham nhũng, một cơ quan có
quyền lực tuyệt đối, đứng ngoài và đứng trên pháp luật. Như vậy, điều
kiện đầu tiên không được bảo đảm, thất bại được báo trước.
+ Những người trong cơ quan chống tham
nhũng, thực thi việc chống tham nhũng phải là những người trong sạch,
gương mẫu. Có lẽ, nếu được đọc những dòng này, bản thân những người đang
chống tham nhũng ở Việt Nam cũng phải phì cười. Họ cười cũng là hợp lý,
bởi vì với cơ chế này, thể chế này mấy chục năm nay bất cứ ai có điều
kiện và cơ hội đều tham nhũng hết, và nó đã trở thành guồng máy vận hành
trơn tru mọi nơi, mọi lúc. Điều kiện thứ hai như vậy cũng là ảo tưởng,
vô vọng.
+ Vấn đề huy động người dân tham gia và
việc bảo vệ nguồn tin, nhân chứng. Trước hết người dân Việt Nam, những
người hàng ngày, hàng giờ chịu sự cai trị của đảng cộng sản đều hiểu rõ
bản chất chế độ. Cứ cho là một số chưa hiểu bản chất chế độ hiện nay
muốn đươc tham gia vào công cuộc chống tham nhũng thì đó cũng là việc
bất khả thi. Trong chống tham nhũng, tự do ngôn luận, tự do báo chí có
tầm quan trọng rất lớn, nhưng ở Việt Nam hiện nay, đó là các quyền đang
phải đấu tranh để có được. Trong thực tế, bởi vì không có cơ quan quyền
lực độc lập chống tham nhũng thì không thể bảo vệ được nguồn tin và nhân
chứng. Bởi vậy, những người có tâm, có nhiệt huyết đứng lên chống tham
nhũng, góp phần chống tham nhũng đều chịu hậu quả khốc liệt từ đòn thù
của các cơ quan, quan chức tham nhũng. Đây là hiện tượng phổ biến hiện
nay, và điều này đã gần như hủy hoại hoàn toàn mong muốn người dân tham
gia vào công cuộc chống tham nhũng của đảng cộng sản.
Tóm lại, công cuộc chống tham nhũng của
đảng cộng sản Việt Nam không đi vào thực chất, không giải quyết gốc rễ,
cội nguồn của quốc nạn tham nhũng đã được biết trước về mặt kết cục. Khi
tất cả đều cảm nhận được sự bất lực trong việc chống tham nhũng thì công
cuộc này cuối cùng chỉ còn lại tác dụng của việc thanh trừng phe phái
trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam. Thanh trừng phe phái, tranh giành
quyền lực, lợi ích trong giai đoạn cạn kiệt nguồn lực, dồn nén xã hội
hiện nay là một trong những yếu tố đẩy nhanh quá trình tự sụp đổ của chế
độ độc tài toàn trị cộng sản./.
Hà Nội, ngày 28/01/2018
N.V.B |