Phát triển Hợp Tác Xã qua góc nhìn Khai Sáng
I. Tổng quan về Khai sáng và phong trào Khai
sáng
Khai sáng là gì? Tại sao khai sáng lại liên quan tới vấn đề phát triển
Hợp tác xã (HTX)? Sự soi chiếu này có kệch cỡm hay kỳ cục không? Để trả
lời những câu hỏi trên, chúng ta cần điểm lại những khái niệm cơ bản về
khái sáng và quá trình phát triển HTX tại Việt Nam. Đầu tiên hãy cùng
tìm hiểu về khái niệm khai sáng và quá trình phát triển của phong trào
khai sáng.
Theo I. Kant người mà trong một chừng mực nào đó có thể coi là “cha đẻ“
của khái niệm khai sáng thì khai sáng là:
sự thoát ly của con người ra khỏi
tình trạng vị thành niên do chính con người gây ra
[1].
Hoặc,
khai sáng là ra khỏi trạng thái
vị thành niên hay trạng thái chưa trưởng thành do tự mình chuốc lấy
[2].
Tình trạng vị thành niên hay chưa trưởng thành ở đây không nói về khía
cạnh sinh học hay độ tuổi, mà ở đây là về tư duy, một người nhiều tuổi
vẫn có thể ở trong trạng thái chưa trưởng thành do tự mình chuốc lấy như
thường. Tình trạng vị thành niên này theo I.Kant là do tự mình chuốc lấy
chứ không phải do khách quan, không phải là do thiếu trí tuệ, đầu óc, mà
là do thiếu sự dũng cảm, quyết đoán trong việc sử dụng trí tuệ, đầu óc
của mình một các độc lập mà không cần tới sự hướng dẫn của người khác.
Do vậy trưởng thành là vượt qua sự lười biếng, vượt qua sự thiếu dũng
cảm để sử dụng trí tuệ của mình một các độc lập. Hay đó chính là quá
trình phản biện, sử dụng tư duy phản biện đối với chính mình và các vấn
đề nảy sinh trong cuộc sống. Vậy làm thế nào để chứng minh rằng tôi đang
sử dụng trí tuệ của mình, hay tôi đang phản biện, cũng theo I.Kant chỉ
có cách là anh phải công khai hoá nó ra, có nghĩa là anh phải truyền tải
được ý kiến của mình tới những người khác, tới cộng đồng với tư cách là
một con người độc lập, một học giả để đưa ra phê phán, phản biện của
mình trên cơ sở lập luận rõ ràng, cụ thể, đàng hoàng và công khai. Khi
tất cả mọi người công khai hoá ý kiến của mình, phản biện chính mình,
phản biện các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống thì khai sáng sẽ tự khắc
diễn ra, và con người qua đó sẽ trưởng thành lên. Để có thể tạo ra được
môi trường công khai hoá như vậy, cũng theo I.Kant cần phải có tự do
ngôn luận, tự do báo chí để người dân có một môi trường tốt hơn để
trưởng thành. Có thể nói, khai sáng/trưởng thành là quá trình mà con
người tự phản biện mình, phản biện các vấn đề trong cuộc sống để tiến bộ
hơn.
Có thể nói, phong trào khai sáng ở Châu Âu (diễn ra chính vào thế kỷ 17
và 18) đã tạo nên những biến chuyển lịch sử hình thành sự phát triển như
hiện tại của các nước phương Tây, phong trào này có những đặc điểm như:
“Thứ nhất là viện dẫn hay nương
tựa vào lý trí chính mình, như Kant nói lý trí là cơ quan thẩm quyền phổ
quát để xác định đúng sai, không dựa vào quyền uy kinh thánh hay bậc
giáo phụ, vua chúa mà chính đầu óc con người là nguồn ánh sáng tự nhiên,
nó là cơ quan tối hậu có thẩm quyền để xác định đúng sai.
Thứ hai là muốn vậy thì con người không chỉ hiểu chính mình mà còn hiểu
xung quanh, bởi ánh sáng là ánh sáng phổ quát. Ánh sáng là ngọn đèn để
đọc sách do chính mình viết ra. Thậm chí, toàn bộ giới tự nhiên cũng là
một cuốn sách, là văn bản, nếu anh là nhà tín ngưỡng thì nó là do thượng
đế sáng tạo nên, còn nếu anh không tín ngưỡng thì giới tự nhiên là cuốn
sách vĩ đại, là văn bản có nhiều bí mật thì cần phải đọc, vì thế mới ra
đời khoa học tự nhiên. Từ đó, con người mới nhận ra rằng tất cả đều là
văn bản, cần phải giải mã, cần phải đọc cho nên có sự khao khát hiểu
biết, sự dũng cảm vô lượng trong sự tìm tòi, không có gì không mang ra
tìm tòi, khám phá. Khi Galileo dùng kính viễn học nhìn lên bầu trời cũng
là lúc ông đang đọc văn bản, xem thử văn bản của vũ trụ viết cái gì…
Thứ ba là vấn đề tôn giáo tín ngưỡng. Chúng ta đừng quên rằng châu Âu
thời bấy giờ vẫn còn rất nặng nề, phức tạp về tôn giáo. Tôn giáo là nơi
duy trì văn minh, văn hóa, xã hội đồng thời cũng gây ra nhiều ách tắc
trong tư tưởng. Thế là bắt đầu có phong trào cải cách tôn giáo ở châu
Âu, một cuộc xáo trộn ghê gớm. Vấn đề tôn giáo là vũ khí tinh thần của
thời đại, và thái độ của khai sáng là đạt tới độ khoan dung tôn giáo.
Bao lâu anh vẫn giáo điều, vẫn tin vào một chuyện không cho người khác
tin cái khác thì không thể gọi là khai minh. Đặc điểm của khai sáng bên
cạnh lý trí và khoa học tự nhiên là khoan dung tôn giáo.
Thứ tư, quan hệ giữa người và người bấy lâu nay là căn cứ vào ý chí của
bậc quân vương, luật pháp do hoàng đế ban ra. Bây giờ thì không! Luật
pháp là phải dựa vào luật tự nhiên, những gì luật tự nhiên có thì áp
dụng vào cuộc sống con người, gọi là “pháp quyền tự nhiên”. Nghĩa là
luật pháp có chỗ dựa khách quan mà không còn dựa vào ý chí tùy tiện của
ông vua. Cho nên, trong luân lý và trong pháp lý dựa vào pháp quyền tự
nhiên, đó cũng là một biến đổi ghê gớm. Tất cả những quan niệm hôm nay
về nhà nước pháp quyền là dựa vào thành tựu này của thế kỷ 17 ở châu Âu,
thay cho luật pháp tùy tiện của vua chúa bằng luật tự nhiên.
Thứ năm, về mặt xã hội, đời sống từng cá thể thì chủ trương thực sự khai
phóng để con người có quyền tự do hành động theo ý của mình. Lần đầu
tiên “tự do hành động” trở thành khái niệm của thời đại. Ngày nay với
chúng ta thì khái niệm này nó thường quá còn ngày xưa thì vô cùng mới mẻ
vì trước đó hành động cái gì cũng phải trong khuôn khổ của thần quyền,
pháp quyền bỗng nhiên được giải phóng hoàn toàn.
Thứ sáu, về giáo dục thì sao? Hoàn toàn là một nền giáo dục mới mẻ, một
quan niệm sư phạm hoàn toàn mới đó là quan niệm tự do tư tưởng, từ đó
mới có thể xây dựng được thế hệ học giả hoàn toàn mới mà như Kant nói là
“ngòi bút là thần linh của pháp quyền” và tính công khai. Muốn vậy phải
có tự do báo chí và ngôn luận! Không có tự do báo chí và tự do ngôn luận
thì đừng có nói nền giáo dục mới, đừng có nói tới tính công khai. Đây
cũng là thời kỳ đầu tiên mà báo chí tự do ra đời. Đi kèm với tự do báo
chí và tự do ngôn luận sẽ là bảo đảm các dân quyền và nhân quyền thể
hiện qua cách mạng Pháp và nhất là cách mạng Mỹ. Phải thừa nhận nhân
quyền và dân quyền là phổ quát chứ không phải là dân quyền và nhân quyền
hạn hẹp trong chế độ mà nó có giá trị tự thân phải được thừa nhận khắp
nơi vì tất cả đều là con người, chứ không phân biệt người Pháp, người
Mỹ, người Đức... Mà đã là con người nói chung thì đều được sống theo
luật tự nhiên và hưởng những nhân quyền, dân quyền phổ quát. Tư tương
này hoàn toàn mới mẻ và là cơ sở hình thành nhà nước hiện đại. Quan niệm
về nhà nước hiện đại là sản phẩm của thời đại khai minh này, nó thay đổi
hoàn toàn tính và chất chức năng của nhà nước. Thay vì tính chất là
“thiên định” (trời quy định) thì nay là do dân bầu lên; thay vì chức
năng là cai trị thì chức năng là phục vụ cho cộng đồng, là lợi ích
chung, phúc lợi xã hội… Nếu không có phong trào khai sáng, có lẽ, chúng
ta còn sống trong chế độ thế quyền rất kinh hoàng.
Tính chất chung của thời kỳ khai sáng này là lạc quan về tương lai, lạc
quan về lịch sử, lạc quan về năng lực của con người… tóm lại là lạc quan
về sự tiến bộ vô tận của nhân loại. Có thể còn hạn chế này, hạn chế kia
nhưng đó chỉ là nhất thời thôi rồi ta sẽ vượt qua và đi lên. Bao trùm 2
thế kỷ này (17, 18) là một niềm lạc quan, hào hứng hướng về tương lai
của loài người. Họ tin vào những vấn đề của con người dù khó khăn đến
mấy cũng sẽ dần dần được giải quyết. Những văn bản của tự nhiên khó đến
mấy, bí hiểm đến mấy dần dần sẽ được giải mã qua con đường khoa học.“
[3]
Xin mượn những tổng kết của nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn về những đặc
điểm của phong trào Khai sáng để tạm kết cho phần này. Để trao đổi về
Khai sáng và phong trào Khai sáng thì còn quá nhiều điều để bàn, người
viết chỉ xin giới thiệu sơ qua những điểm quan trọng để có cái nhìn rõ
hơn về chủ đề mà chúng ta đang nói tới.
II. Quá trình phát triển HTX ở Việt Nam
Quá trình phát triển HTX ở Việt Nam có thể chia làm các giai đoạn chính
là trước "Đổi mới", sau “Đổi mới“ tới nay.
Trước đổi mới, HTX ở Việt Nam phát triển dựa trên sự chỉ đạo thành lập
từ chính quyền chứ không xuất phát từ nhu cầu thực sự của người dân. Các
HTX thời kỳ này vận hành theo cơ chế chung là kế hoạch hoá tập trung,
bao cấp. Mô hình HTX ở thời kỳ này đã tạo ra những hệ quả không nhỏ như:
“Tệ nạn tham ô, lãng phí và hư hao tiền vốn ở các HTX tăng lên mức
nghiêm trọng.[4]“
hay “Cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, phong trào hợp tác
hoá nông nghiệp lâm vào tình trạng bế tắc, những khuyết điểm, yếu kém
của mô hình hợp tác hoá kiểu cũ ngày càng bộc lộ rõ, tác động tiêu cực
về tâm lý và xã hội trong nông thôn, người lao động
không gắn bó với ruộng đất.[5]“
Nguyên nhân thất bại của mô hình HTX trong giai đoạn này, theo chủ quan
của người viết, là do một số nguyên nhân: i. cơ chế phân chia lợi ích
giữa các thành viên trong HTX, theo cơ chế cũ các xã viên sẽ được chia
lợi nhuận theo kiểu cào bằng, chứ không dựa vào năng lực hay năng xuất
để quyết định, có nghĩa anh làm ít hay làm nhiều đều được hưởng một
khoản như nhau; ii. HTX không được thành lập dựa trên cơ sở tự nguyện
của người dân, do đó người dân không có động lực thực sự để thúc đẩy
phát triển sản xuất. Bộ máy quản lý, giám sát không phải do dân bầu nên
dẫn tới sự quan liêu, tham ô tài sản chung gây thiệt hại cho HTX.
Sau “Đổi mới“ cho tới nay, nhìn nhận sự thất bại của mô hình HTX kiểu cũ
Chính phủ đã ban hành những cơ chế, chính sách để thay đổi và thúc đẩy
sự phát triển HTX theo mô hình HTX kiểu mới điển hình là việc ban hành
luật HTX đầu tiên vào năm 1996, sau đó là hai lần sửa đổi bổ sung luật
HTX vào các năm 2003 và 2012. Bên cạnh đó Chính phủ cũng chủ trương
triển khai và chỉ đạo triển khai nhiều chương trình hỗ trợ phát triển
HTX có thể nói tới chủ trương khuyến khích doanh nghiệp đầu tư về khu
vực nông nghiệp nông thôn, liên kết HTX và doanh nghiệp, xây dựng chuỗi
giá trị phát triển ngành hàng gắn với HTX, hay chủ trương chuyển đổi tất
cả các HTX trên cả nước theo luật HTX, ra chỉ tiêu tăng trưởng về số
lượng các HTX trong giai đoạn 2016 - 2020.v.v. Sự thay đổi này cũng đã
tạo ra được những thay đổi trong quá trình phát triển HTX tại Việt Nam.
Mặc dù vậy, thực tế phát triển HTX vẫn đang còn gặp rất nhiều khó khăn
vướng mắc. Thực tế cho thấy đa phần các HTX chuyển đổi theo luật HTX
2012 chỉ là chuyển đổi theo hình thức, chuyển đổi cơ cấu hoạt động cho
phù hợp chứ về bản chất thì không thay đổi. Phần lớn các lãnh đạo HTX
hoặc thành viên HTX khi được hỏi về mục đích thành lập HTX hay lý do gia
nhập HTX là gì đều đưa ra câu trả lời: Không biết![6].
Trên thực tế, người nông dân không thực sự hiểu bản chất, vai trò của
HTX, người dân vẫn chưa thực sự đặt ra câu hỏi cho mình về việc thành
lập hay gia nhập HTX, về vai trò cũng như lợi ích của việc phát triển mô
hình HTX tác động như thế nào tới đời sống của họ. Họ thành lập hoặc
tham gia HTX vẫn chủ yếu do địa phương vận động thành lập để đảm bảo một
số chỉ tiêu về kinh tế - văn hoá – xã hội được đặt ra. Thậm chí có những
lãnh đạo HTX thừa nhận việc thành lập HTX chỉ để mang lại lợi nhuận cho
ban lãnh đạo, chứ không quan tâm tới nhu cầu thực sự của người dân,
không quan tâm tới việc cải thiện chất lượng dịch vụ, hay sự phát triển
của HTX. Chính vì vậy, HTX trên thực tế chỉ tăng về số lượng chứ không
tăng về chất lượng, các HTX chưa thực sự phát huy đúng vai trò của mình,
không có đủ khả năng cạnh tranh, đàm phán với các doanh nghiệp, không có
khả năng tự chủ trong hoạt động kinh doanh, những điều này đều xuất phát
từ nguyên nhân cơ bản là: người dân không hiểu những việc mình đang làm
mà chỉ theo sự hô hào, chỉ đạo của người khác.
III. Phát triển HTX và Khai sáng
Câu hỏi đặt ra ở đây là: Vậy Khai sáng và phát triển HTX liên quan gì
tới nhau?
Như đã nói ở trên quá trình khai sáng tạo ra những con người có khả năng
sử dụng trí tuệ của mình một các độc lập mà không phụ thuộc vào sự chỉ
đạo nào khác. Kết quả của nó là những công dân có khả năng tự chủ,
trưởng thành. Có thể nói, phát triển HTX hiện nay rất cần một sự thức
tỉnh, một quá trình khai sáng đối với các chủ thể của HTX là người nông
dân, và đối với các bên liên quan khác trong quá trình phát triển HTX.
Người nông dân cần được khơi gợi tính tự chủ, phản biện, chủ động trong
các hoạt động của mình, đặc biệt là trong việc xây dựng và phát triển
HTX, người dân cần phải chuẩn bị các kiến thức, kinh nghiệm, hay phương
pháp để làm chủ các hoạt động của mình, không để tình trạng không hiểu
rõ mình đang làm gì, không hiểu rõ mục đích các hoạt động mình đang làm
là gì, để dẫn tới tình trạng các HTX đi vào hoạt động những bế tắc như
hiện nay. Người dân cần xây dựng vị thế cho mình, cho HTX của mình với
mục tiêu đáp ứng nhu cầu của các thành viên, hoạt động như doanh nghiệp,
có khả năng đàm phán với các đối tác trên thị trường một cách sòng
phẳng, trở thành đối tác với doanh nghiệp, có khả năng cạnh tranh với
doanh nghiệp chứ không phải chỉ mãi là đơn vị gia công cho doanh nghiệp,
chịu sự chỉ đạo của doanh nghiệp, mãi mãi chỉ làm theo đơn đặt hàng của
doanh nghiệp chứ không chủ động thay đổi phương thức sản xuất, thay đổi
công nghệ hay nắm bắt nhu cầu của khách hàng để chủ động thay đổi. Trong
một hội nghị tổng về hoạt động của HTX vừa qua, có một tập đoàn lớn đã
nói rằng: HTX và người nông dân chỉ tập trung sản xuất còn lại ban giám
đốc, đường lối, chỉ đạo để doanh nghiệp lo. Như vậy, người dân vẫn chỉ
là những đối tượng chờ đợi chỉ đạo, và bảo sao làm vậy. Như trâu cày cho
doanh nghiệp. Chúng ta cần những người nông dân chủ động, tự chủ thay
đổi, làm chủ hoạt động sản xuất kinh doanh, đời sống của mình chứ không
mãi phụ thuộc vào sự chỉ đạo của người khác. Nếu thực sự tạo được một sự
thức tỉnh đối với những người nông dân, có thể thông qua những hình thức
giáo dục chính quy hoặc phi chính quy nhằm tạo tiền đề bước đầu, thì mới
hy vọng có sự phát triển bền vững đối với mô hình HTX. Nếu không, tất cả
các chính sách được ban hành, hay mọi nỗ lực kết nối thị trường, doanh
nghiệp đều trở nên kém hiệu quả. Hãy tưởng tượng chúng ta cố gắng xây
một toà nhà cao nhưng lại xây từ nóc.
Chúng ta cần phải xây dựng nền móng vững chắc, ở đây là sự tự chủ, chủ
động của người nông dân, sau đó mới tính đến các vấn đề khác. Như chí sĩ
Phan Châu Trinh đã nói: Khai dân trí, Chấn dân khí, rồi mới Hậu dân
sinh.
Hay như nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn đã mượn lời Hannah Arendt, một nữ
triết gia, một chiến sĩ hàng đầu về mặt trận tự do dân chủ nhân quyền lẽ
phải, khai phóng của thế kỷ 20, đó là lời kêu gọi: “Tất cả hãy chuẩn bị
để xây dựng cho được những người cử tri trưởng thành, họ sẽ quyết định
vận mệnh của họ, của xã hội cũng như của nhân loại.”[7]
Thì ở đây chúng ta cần phải xây dựng được những thành viên của HTX là
những người trưởng thành về mặt tư duy theo nghĩa của phong trào Khai
sáng. Nếu người dân không được chuẩn bị tốt thì cũng giống như một chung
cư cũ được khoác chiếc áo mới bằng những hình bích họa, mà trên thực tế
kết cấu của toà nhà, cột kèo hay tường nhà đã cũ, có thể sụp đổ bất cứ
lúc nào.
Nguyễn Trọng Khánh, 1/2018
Tài liệu tham khảo
-
Bài nói chuyện về “Khai sáng và Trưởng thành” của nhà nghiên cứu Bùi Văn
Nam Sơn. Nguồn sachhay.org
-
Trả lời câu hỏi: “Khai sáng là gì?” Dịch giả Thái Kim Lan, đăng ngày
28/03/2012. Talawas
-
Khai sáng và Tiến bộ, nhìn từ góc độ Triết sử phương Tây I, II - Thái
Kim Lan, đăng trên tạp chí Thời đại mới số 3 tháng 11 năm 2004 và số 7
tháng 3 năm 2006.
-
Trả lời câu hỏi: “Khai sáng là gì?” Dịch giả Lê Tuấn Huy, đăng trên blog
Tinh thần khai minh ngày 26/6/2015
-
Cẩm nang hướng dẫn đào tạo cán bộ chủ chốt HTX, Socencoop
-
Luận chứng Pháp luật & Chính sách để phát triển HTX ở Việt Nam –
Aid-Coop
-
[1]
Theo bản
dịch của dịch giả Thái Kim Lan đăng trên Talawas ngày 28/3/2012
[2]
Theo nhà
nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn trong buổi nói chuyện về “Khai sáng
và Trưởng thành”. Nguồn sachhay.org
[3]
Theo nhà nghiên
cứu Bùi Văn Nam Sơn trong buổi nói chuyện về “Khai sáng và
Trưởng thành”. Nguồn sachhay.org
[4]
Cẩm nang hướng dẫn đào tạo cán bộ chủ chốt HTX, Socencoop [5] Cẩm nang hướng dẫn đào tạo cán bộ chủ chốt HTX, Socencoop
[6]
Thực tế khảo
sát của người viết
[7]
Theo nhà
nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn trong buổi nói chuyện về “Khai sáng
và Trưởng thành”. Nguồn sachhay.org
|