NGHỀ NÀO KHÔNG LÀ NGHỀ?
Nguyễn Thị Hậu
Một lần nữa
một thực trạng
xã hội
lại được đặt ra từ góc độ
đạo đức
và từ thực tiễn: công nhận hay không công nhận sự tồn tại của mại dâm
như một “nghề”.
Từ nhiều năm nay
luôn có hai luồng ý kiến
từ hai cách tiếp cận khác nhau với cùng một đối tượng.
Một, đứng trên quan
niệm đạo đức truyền thống thì không thể công nhận “nghề mại dâm”, coi đó
là việc làm bất hợp pháp, là tệ nạn và chỉ có thể loại trừ, triệt tiêu
nó hoàn toàn. Tuy nhiên,
lên án về đạo đức và “trừng phạt” người bán dâm cũng không thể
bài trừ mại dâm, mà
ngược lại
nó ngày càng
“phát triển” đa dạng và phức tạp.
Hai, căn cứ vào thực
tiễn
và sự cần thiết của quản lý xã hội,
cần coi mại dâm là một thực trạng có “cầu” thì có “cung” và ngược lại.
Do đó, hạn chế hay loại bỏ nó phải xuất phát từ thực tế, giải quyết từng
bước, trước mắt cần có biện pháp “quản lý” phù hợp để có thể hạn chế tác
hại của nó đến xã hội và những người làm việc này.
Vậy, có thể coi mại dâm là một “nghề nghiệp” hay không?
Nghề, theo cách hiểu
thông thường, là một việc làm có tính ổn định, đem lại thu nhập để duy
trì và phát triển cuộc sống cho mỗi người. Nhưng nghề không đơn giản chỉ
để kiếm sống mà còn là con đường để mỗi người thể hiện và khẳng định giá
trị của bản thân.
Mỗi một nghề ra đời đều nhằm đáp ứng
một nhu cầu nào đó của con người, vì vậy mỗi nghề đều có nhiệm vụ riêng
của nó.
Như vậy, với thực
trạng ở nước ta thì
có nhiều việc làm để kiếm sống
khó có thể công nhận
là một nghề theo nghĩa tích cực như trên.
Như mại dâm,
có thể coi đó là hoạt động của một nhóm người nhằm “đem lại thu nhập để
duy trì cuộc sống”, có trường hợp “thu nhập ổn định” thậm chí
một số “người đẹp chân dài” còn có
giàu có về vật chất.
Nhưng phần lớn người làm việc này cuộc sống không ổn định, luôn bị những
nguy hiểm rình rập: “má mì”
chủ chứa chăn
dắt, xã hội đen bảo kê, bạo hành, cho vay nặng lãi, bệnh “nghề nghiệp”…
Mặt khác về tinh thần, người
làm nghề mại dâm bị coi
thường ngay từ người mua dâm, nhiều người mang định kiến coi người bán
dâm là không
có nhân phẩm, nếu
gặp chuyện
oan ức thì hiếm khi
nhận được cái
nhìn thiện cảm của xã hội. Khi hành nghề bị bắt cũng không được đối xử
công bằng: truyền thông
luôn nêu rõ
tên tuổi, hình ảnh, cả gia đình quê quán người bán dâm nhưng thông tin
về người mua dâm hầu như
rất ít, kể từ những đợt “thu gom gái đứng đường” đến những vụ “bán dâm
cao cấp nghìn đô”.
Thế nhưng hiện
nay
bán dâm không
phải chỉ có
phụ nữ mà còn
cả nam giới, người đồng tính… “Môi trường làm việc” thì có thể bất cứ
chỗ nào: nhà hàng, quán xá, nhà nghỉ
bình dân,
khách sạn
sang trọng
đến công viên, bến tàu xe, vỉa hè…
Nơi nào cũng “lén lút” mà như công khai vì ai cũng biết. Theo nhận định
của một quan chức “Công tác phòng, chống mại dâm đang đứng trước không
ít khó khăn và thách thức. Vẫn còn những quan điểm, nhận thức trái chiều
đối với mại dâm, hệ thống pháp luật về mại dâm cũng đã bộc lộ nhiều bất
cập, không còn phù hợp”. Vậy phải giải quyết thế nào đây khi mà tình
trạng mại dâm “danh không chính”?
Với điều kiện hoàn cảnh của một xã hội còn có nhiều người phải làm mọi
việc để kiếm sống, lấy tiêu chí một nghề là phải có tổ nghề để thờ cúng
(như nghề truyền thống?), có “giáo trình dạy nghề” (và trường dạy
nghề?), có bậc thang lương (và phải thi nâng bậc?) là một tư duy quản lý
rất máy móc và quan liêu. Mại dâm không là “nghề” theo ý nghĩa tích cực
như trên đối với con người và xã hội như những nghề khác nhưng trên thực
tế là “nghề” để kiếm sống của một bộ phận người, trong đó phần lớn là
phụ nữ - nhóm người yếu thế và dễ bị tổn thương trong xã hội. Thừa nhận
mại dâm là một nghề (dù chỉ có số ít người làm nghề đó), công khai những
gì liên quan đến môi trường “làm việc”, đến người hành nghề và cả đối
tượng “cộng tác” với người hành nghề... là cách thức quản lý mà nhiều
nước có hoàn cảnh văn hóa – xã hội gần với nước ta đã áp dụng hiệu quả.
Cách thức này thể hiện sự nhân văn vì hạn chế người bán, mua dâm bằng sự
công khai của luật định, chế tài, nhằm thay đổi số phận người hành
nghề, trước mắt cải thiện, giảm thiểu tác hại, hậu quả của nó với
người “hành nghề” và với xã hội.
“Nghề
nghiệp” trong đó
“Nghiệp” là sự cống hiến hết mình cho nghề,
là niềm vui, trách nhiệm và mục đích của cuộc sống. Nhưng khi mại dâm
không là một nghề thì rất nhiều người làm “nghề” ấy
lại coi đó là
cái “nghiệp” của mình,
không phải vì
mục đích tốt đẹp như trên mà vì họ
không biết sẽ phải
thoát
khỏi nó bằng
cách nào.
Công nhận mại dâm là một “nghề” như
một biện pháp cần thiết để quản lý xã hội chứ không phải là sự xóa bỏ
“đạo đức truyền thống Á Đông”. Lĩnh vực quản lý xã hội coi “nghề mại
dâm” là một thực tế phải giải quyết, hướng đến việc loại trừ căn nguyên
và những yếu tố tác động đến sự tồn tại và “phát triển” của nghề này
ngay trong lòng một xã hội có “truyền thống đạo đức Á Đông”.
Sài Gòn 31.3.2018
|