Việt Nam trước một
thế giới bất an và bất định
Nguyễn Quang Dy
Để lý giải thế giới hiện tại trong cuốn “21
bài học cho thế kỷ 21” (21
lessons for the 21st century, 2018) Yuval Noah Harari
trước đó đã viết hai cuốn “Lược sử loài người” (Sapiens:
A Brief History of Humankind, 2014), và “Lược sử tương lai” (Homo
Deus: A Brief History of Tomorrow,
2016). Chúng ta đang sống trong một
thế giới rất phức tạp, đầy bất an và bất định. Vì vậy, muốn hiểu thế
giới hiện tại, phải hiểu quá khứ và tương lai.
Thế giới cũ đã qua
Trong nửa
đầu của
thế kỷ
trước, dân tộc Việt Nam cũng như nhiều
dân tộc khác, đã chịu hệ quả (trực tiếp hay gián tiếp) của hai cuộc đại
chiến thế giới (WWI: 1914-1918 và WWII: 1939-1945) và một cuộc chiến
tranh cục bộ tại Triều Tiên (1950-1953). Trong ba cuộc chiến tranh thông
thường và tổng lực đẫm máu đó, các cường quốc đã trực tiếp tham chiến,
trong khi thế giới hình thành hai phe (như phe “đồng minh” chống lại phe
“trục phát xít”).
Trong nửa cuối của thế kỷ trước, Mỹ và Liên Xô đã đối đầu trong cuộc
chiến tranh lạnh (dựa trên ý thức hệ). Trật tự thế giới đã hình thành
theo khuôn khổ Liên Hợp Quốc (do Mỹ dẫn đầu). Các nước thuộc “thế giới
thứ ba” đã tập hợp lại trong phong trào “Không Liên kết” (do Ấn Độ và
Trung Quốc dẫn dắt). Trong bối cảnh đó, Việt Nam bị mắc kẹt vào một cuộc
“chiến tranh ủy thác” (proxy war) mà thực chất là nội chiến (huynh đệ
tương tàn).
Chiến tranh Việt Nam tuy là chiến tranh cục bộ nhưng kéo dài hơn
(1965-1975) và đẫm máu hơn, với tổng số bom đạn và phương tiện chiến
tranh lớn hơn so với các cuộc chiến tranh trước đó. Vết thương chiến
tranh (về vật chất và tinh thần) đến nay vẫn chưa hàn gắn, vì hệ quả của
nó quá lớn và tiềm ẩn. Bóng ma chiến tranh vẫn còn sống trong tâm thức
nhiều người, và hận thù giữa hai cộng đồng người Việt (Bắc-Nam) vẫn chưa
được hòa giải.
Trong khi đối đầu Mỹ-Xô trong chiến tranh lạnh đã kết thúc khi bức tường
Berlin sụp đổ (1989), Washington vẫn tiếp tục theo đuổi chủ trương bắt
tay Bắc Kinh, theo Shanghai Communique (1972) và chính sách “tham dự xây
dựng” (Constructive Engagement). “Lá bài Trung Quốc”
không chỉ để chống Liên Xô, mà còn vì lợi ích song trùng, giúp
Trung Quốc “trỗi dậy hòa bình”, bất chấp sự kiện Thiên An Môn (6/1989).
Mãi gần đây, Mỹ mới tỉnh ngộ.
Trong cuốn “Cuộc chạy đua một trăm năm” (The
Hundred-year Marathon, 2015) Michael Pillsbury đã gọi đó là “thất
bại lớn nhất về tình báo của Mỹ” vì đã ngộ nhận và mắc sai lầm để Trung
Quốc lợi dụng, thực hiện được chiến lược âm thầm thay thế Mỹ làm siêu
cường đứng đầu thế giới. Dù nhiều người Mỹ ghét Donald Trump, nhưng phải
thừa nhận rằng ông ấy là tổng thống Mỹ đầu tiên (kể từ Richard Nixon)
dám chống lại Trung Quốc.
Cuộc hôn phối Mỹ-Trung (coupling) theo chủ trương “tham dự xây dựng” đã
kéo dài hơn bốn thập kỷ. Trung Quốc đã trỗi dậy như “con quái vật
Frankenstein”, theo lời Richard Nixon nói với nhà báo William Safire
(NYT, 1994). Nhưng phải mất gần năm thập kỷ, người Mỹ mới phản tỉnh và
“ly hôn” với Trung Quốc (decoupling) khi đã quá muộn. Mỹ và thế giới lệ
thuộc quá nhiều vào Trung Quốc về cung ứng (hơn 90% nhu cầu y tế và
dược).
Thế
giới mới đang tới
Trong nhiệm kỳ đầu, Donald Trump đã làm mất lòng nhiều người, gồm hầu
hết giới tinh hoa (mà Trump gọi là “đầm lầy Washington”) và giới báo chí
(mà Trump gọi là “kẻ thù của nhân dân”). Trump là một tổng thống bất
bình thường (unconventional) và khó đoán (unpredictable) dùng twitter
như một công cụ truyền thông để điều hành trực tiếp, bỏ qua các thông lệ
của bộ máy chính quyền chuyên nghiệp. Trong thế giới bất an và bất định,
Mỹ và đồng minh phải làm quen với Trump (như với biến đổi khí hậu), chứ
không phải ngược lại.
Tại khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc đã tranh thủ thời cơ để thay đổi thực
địa ở Hoàng Sa và Trường Sa như chuyện đã rồi (fair accompli), nhằm kiểm
soát Biển Đông “như cái ao của họ”. Trung Quốc đã vươn các vòi bạch tuộc
ra các châu lục, với “sáng kiến Vành đai và Con đường” (BRI). Họ định
vượt Mỹ về công nghệ, với kế hoạch thâu tóm “một ngàn nhân tài”
(thousand talents plan), và chiến lược “Made in China 2025”. Trung Quốc
đã từ bỏ hơi sớm chủ trương “dấu mình chờ thời”, đang đẩy Mỹ và đồng
minh co cụm chống lại.
Đại dịch Covid-19 đã làm thế giới bị động đối phó, với những tổn thất
nặng nề, không chỉ về người mà còn suy thoái về kinh tế. Nó làm cho đối
đầu Mỹ-Trung càng quyết liệt, vượt xa chiến tranh thương mại trước đó.
Trong năm 2020, thế giới bị phân hóa nhiều hơn các năm trước, và Trung
Quốc đang bị cô lập, không chỉ với phương Tây mà còn với khu vực. Lần
đầu tiên trên thế giới đang hình thành mặt trận chung chống Trung Quốc,
gồm các nước có cùng quan điểm (like-minded) dựa trên tầm nhìn
Indo-Pacific và “Bộ Tứ Mở rộng”.
Đáng chú ý là các bài diễn văn của Tổng thống Donald Trump tại Liên Hợp
Quốc (22/9) cũng như của ngoại trưởng Mike Pompeo (23/7), của Bộ trưởng
Tư pháp William Barr (16/7), của Giám đốc FBI Chris Wray (7/7), và của
Cố vấn An ninh Quốc gia Robert O’Brien (26/6) khác hẳn với những phát
ngôn bất thường lâu nay trên twitter. Những tuyên bố cứng rắn đó của
chính quyền Trump không chỉ đối phó nhất thời với Trung Quốc, mà được
chuẩn bị chặt chẽ có hệ thống, như “sa luân chiến”, nhắm vào Đảng Cộng
sản Trung Quốc (CCP).
Thái đội cứng rắn hơn của chính quyền Trump đánh dấu một bước ngoặt mới
trong chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc, chứ không phải chỉ để lấy
điểm tranh cử. Dù ai đắc cử Tổng thống Mỹ sau ngày 3/11/2020 (là Cộng
Hòa hay Dân chủ), chắc vẫn phải theo xu thế cứng rắn đó trong những năm
tới, tuy mức độ và sách lược có thể khác nhau. Các nước đồng minh hay
đối tác của Mỹ cũng có thái độ cứng rắn hơn với Trung Quốc, tuy mức độ
có khác nhau, và hầu hết các nước đó vẫn phải dè chừng tại ngã ba đường
(như “hedging game”).
Việt
Nam phải làm gì
Trong những năm qua, Việt Nam và Mỹ đã có những bước tiến lớn, đẩy quan
hệ “đối tác toàn diện” đến gần hơn “đối tác chiến lược”. Tuy là cựu thù
trong Chiến tranh Việt Nam, nhưng 25 năm sau bình thường hóa quan hệ,
hai nước đã trở thành đối tác chiến lược “trên thực tế” (de facto). Năm
2020, khi Việt Nam làm chủ tịch ASEAN và thành viên không thường trực
của HĐBA LHQ, hai nước đã trở thành đối tác ở Biển Đông, theo tầm nhìn
Indo-Pacific, và khuôn khổ hợp tác “Bộ tứ mở rộng” (với Việt Nam, Hàn
Quốc, Tân Tây Lan).
Đại dịch Covid-19 là một thách thức lớn, nhưng cũng là một cơ hội để
Việt Nam thoát Trung. Sau bầu cử Tổng thống Mỹ (3/11/2020), thì Đại hội
Đảng XIII của Việt Nam (đầu năm 2021) đứng trước một bước ngoặt mới. Đến
nay, tuy Việt Nam đã kiểm soát thành công đại dịch Covid-19, nhưng đang
phải chống bão lụt “như chống giặc”, khi cơn bão số 9 ập tới như “họa vô
đơn chí”, làm bộc lộ các lỗi hệ thống. Việt Nam trước ngã ba đường, phải
đổi mới thể chế để tháo gỡ ách tắc do lỗi hệ thống, nhằm thoát hiểm và
phát triển bền vững.
Trong khi nhà nước “xã hội hóa” cho tư nhân
làm thủy điện (với nhiều rủi ro), nhưng không muốn “xã hội hóa” cho tư
nhân cứu trợ nhân đạo (vì sợ rủi ro), Đó là một nghịch lý bộc lộ sự bất
cập và lỗi thời của tư duy độc quyền, cần phải đổi mới thể chế. Kinh
nghiệm cứu trợ nhân đạo trên thế giới cho thấy các nước nghèo (như
Việt Nam) càng phải “xã hội hóa” để khuyến khích tư nhân tham gia cứu
trợ nhân đạo, và huy động được nguồn lực của các tổ chức phi chính phủ
(NGO). Nhà nước không thể độc quyền
công tác cứu trợ nhân đạo.
Nhiều người ngạc nhiên tại sao MC Phan Anh có thể kêu gọi được hơn 20 tỷ
VNĐ (cách đây 4 năm),và nay ca sỹ Thủy Tiên có thể kêu gọi được hơn 150
tỷ VNĐ. Thứ nhất, đó là do nhân cách (personality) của người nghệ sỹ
chiếm được lòng tin của các mạnh thường quân, Thứ hai, đó là do sức lôi
cuốn của người nghệ sỹ (appeal) đối với công chúng. Thứ ba, đó là do sự
lớn mạnh của tầng lớp trung lưu, trong đó có các nghệ sỹ thuộc “giai cấp
sáng tạo” (creative class). Quốc gia nào muốn phát triển, phải biết thu
hút và trọng dụng nhân tài.
Quốc gia nào bảo thủ, muốn trì hoãn đổi mới sẽ bị tụt hậu. Vốn quý nhất
của một quốc gia không phải các mỏ dầu khí, mà là “mỏ người” quý hơn
vàng. Tài tài nguyên thiên nhiên có thể bị khai thác đến cạn kiệt, nhưng
tài nguyên sáng tạo của con người là vô hạn. Việt Nam có mỏ người lớn
gần 100 triệu dân, nhưng vẫn chưa biết khai thác. Muốn trở thành “chính
phủ kiến tạo” thì phải biết quản trị năng lượng sáng tạo như một tiêu
chí lãnh đạo. Muốn làm chủ “công nghệ 4.0” thì không thể duy trì mãi thể
chế theo “hệ quy chiếu 0.4”.
NQD.
28/10/2020 |