Khủng hoảng bãi Tư
Chính:
Nguyễn Quang Dy
Biển Đông khủng hoảng “lần 2” tại bãi Tư Chính
là tiền đề cho một cuộc “khủng hoảng kép” về đối ngoại và đối nội của
Việt Nam. Nửa cuối năm 2019 sẽ chứng kiến một bước ngoặt mới cho Việt
Nam khi đất nước phải “tái cân bằng” quan hệ chiến lược với Mỹ và Trung
Quốc, đồng thời chuẩn bị đổi mới thể chế để cải cách kinh tế và chính
trị cởi mở hơn.
Bước ngoặt và “khủng hoảng kép” Về đối ngoại, đối đầu và triển vọng có thể mất
bãi Tư Chính buộc Việt Nam phải nâng cấp quan hệ với Mỹ lên đối tác
chiến lược và tái cân bằng quan hệ với Trung Quốc để bớt lệ thuộc hơn.
Dự kiến chuyến thăm Mỹ của TBT-CTN Nguyễn Phú Trọng vào tháng 10/2019
(theo David Hutt) là thời điểm hệ trọng để điều chỉnh chiến lược, trước
khi quá muộn. Về đối nội, diễn biến mới tại bãi Tư Chính và
triển vọng điều chỉnh chiến lược buộc Việt Nam phải đổi mới thể chế toàn
diện, để tháo gỡ ách tắc đang làm triệt tiêu những tiềm năng và động lực
phát triển đất nước. Việt Nam cần tiếp tục chống tham nhũng và kiểm soát
quyền lực của các nhóm lợi ích thân hữu đang thao túng làm triệt tiêu
động lực cải cách. Nếu Việt Nam không tháo gỡ được hai vấn đề lớn
nói trên đúng lúc (trước năm 2021) thì không chỉ mất bãi Tư chính mà còn
có thể mất luôn chủ quyền quốc gia. Kinh nghiệm trong mấy thập kỷ qua
cho thấy cơ hội mới đang đến, nhưng có thể tuột khỏi tay. Với tính cách
thất thường của tổng thống Trump, cửa sổ cơ hội để điều chỉnh chiến lược
đang khép lại. Trong một thế giới bất an với những hệ lụy bất
ổn, quốc gia nào cũng phải dựa vào nội lực là chính, trên cơ sở chủ
nghĩa dân tộc. Nhưng trong trật tự thế giới mới khó lường, không một
quốc gia nào (kể cả Mỹ và Trung Quốc) có thể sống biệt lập mà không cần
đồng minh và đối tác. Tuy đối ngoại là sự nối tiếp của đối nội, nhưng nó
làm đòn bẩy cho đối nội.
Đếm ngược bom nổ chậm Trung Quốc đủ mạnh để chiếm được bãi Tư Chính và
kiểm soát được Biển Đông mà Mỹ và các nước đồng minh không làm gì được
(ít nhất là cho tới lúc này). Nhưng Trung Quốc cũng có “gót chân A-sin”
và giới hạn của quyền lực. Liệu Trung Quốc có thực muốn giành được bãi
Tư Chính để đánh mất Việt Nam và các nước bạn bè còn lại hay không? Trung Quốc đủ mạnh để chiếm được Hong Kong và
biến thành một tỉnh của Trung Quốc mà Mỹ và các nước đồng minh không làm
gì được. Nhưng liệu Trung Quốc có thực sự muốn vậy không, vì kiểm soát
Hong Kong (như Thượng Hải) có thể đánh mất Hong Kong như “con ngỗng đẻ
trứng vàng”. Cái giá Trung Quốc phải trả cho việc này quá lớn. Nói cách khác, bãi Tư Chính và Hong Kong là hai
quả bom nổ chậm, mà Trung Quốc đã châm ngòi dây cháy chậm. Cửa sổ cơ hội
để tháo gỡ quả bom nổ chậm đang khép lại (trong gần 2 tháng tới). Trong
khi đối đầu tại bãi Tư Chính đang kéo dài nguy hiểm, khủng hoảng chính
trị tại Hong Kong đang xô đẩy cả hai bên vào “cái bẫy Thiên An Môn”. Trong khi Trung Quốc đau đầu đối phó với chiến
tranh thương mại với Mỹ (hay “chiến tranh lạnh kiểu mới”) với hệ quả khó
lường, thật là nguy hiểm nếu ông Tập Cận Bình chơi trò “bên miệng hố
chiến tranh” (brinkmanship) tại bãi Tư Chính và Hong Kong cùng lúc.
Không rõ lãnh đạo Trung Quốc vừa họp tại Bắc Đới Hà có ủng hộ điều đó
hay không.
Cập nhật về bãi Tư Chính Theo nguồn tin dầu khí, Việt Nam đã hợp tác với
Sumitomo và Idemitsu (Nhật Bản) để khai thác dầu khí tại Mỏ Sao Vàng-Đại
Nguyệt (lô 05-1b và 05-1c) tại bể Nam Côn Sơn của Việt Nam, làm Trung
Quốc tức giận điều tàu thăm dò HD-8 và tàu hải cảnh tới bãi Tư Chính để
ngăn cản. Khi tàu HD-8 rời bãi Tư Chính (6/8/2019) để tiếp liệu tại đá
Chữ Thập, chân đế dàn khoan đã được chuyển tới mỏ Sao vàng tại bãi Tư
Chính (12/8/2019) và hạ đặt thành công (18/8/2019). Tàu HD-8 và nhóm tàu
hải cảnh đã trở lại bãi Tư Chính (13/8/2019). Cùng ngày (18/8/2019) Việt Nam điều tàu hộ vệ
“Quang Trung” (HQ-016) là một trong 4 tàu hộ vệ mang tên lửa (thuộc lớp
“Gepard” 3.9) đến bãi Tư Chính để bảo vệ dàn khoan. Tàu HQ-016 là chiến
hạm hiện đại nhất của Hải quân Việt Nam, được trang bị hệ thống vũ khí
chống hạm, chống ngầm, và phòng không mạnh. Nói cách khác, Việt Nam đã
“quân sự hóa” vụ đối đầu với Trung Quốc tại Bãi Tư Chính, sau hơn một
tháng các tàu cảnh sát biển và kiểm ngư nhỏ hơn của Việt Nam phải đối
phó với đội tàu hải cảnh hiện đại của Trung Quốc.
Tuy đây không phải lần đầu tiên Việt Nam dùng tàu
hải quân để bảo vệ chủ quyền biển, nhưng động thái này đã làm thay đổi
cuộc chơi (a game changer), đẩy Trung Quốc vào thế “tiến thoái lưỡng
nan”. Nếu Trung Quốc điều tàu hải quân (hay dàn khoan) đến khu vực bãi
Tư Chính để bắt nạt Việt Nam và khẳng định chủ quyền thì sẽ làm tăng khả
năng đụng độ vũ trang trên biển. Dù muốn hay không, đối đầu tại bãi Tư
Chính đang leo thang nguy hiểm. Cùng ngày (18/8/2019) đại tướng David Goldfein
(tham mưu trưởng Không quân Mỹ) và đại tướng Charles Brown (tư lệnh
không quân Mỹ tại Thái Bình Dương) đã đến thăm Việt Nam. Trong cuộc họp
báo tại Hà Nội, Goldfein nói Mỹ tôn trọng các quyết định và hành động
của Hà Nội liên quan đến việc tàu Trung Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh
tế của Việt Nam. “Chúng tôi kịch liệt phản đối các hoạt động thách thức
chủ quyền của Việt Nam”.
Ngày 20/8/2019, John Bolton (Chủ tịch NSC) nói “Leo thang gần đây của
Trung Quốc đe dọa các nước đang khai thác tài nguyên tại Biển Đông là
đáng lo ngại…Mỹ quyết ủng hộ các nước chống lại thái độ cưỡng ép và bắt
nạt đe dọa hòa bình và an ninh khu vực”. Ngày
22/8/2019, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Mỹ
lên tiếng ủng hộ Việt Nam chống lại cố gắng của Trung Quốc đang đe dọa
các nước muốn khai thác tài nguyên tại Biển Đông”. Cùng ngày, Việt Nam
tuyên bố (lần đầu tiên) tham gia tập trận hải quân với Mỹ và ASEAN.
Ngày 22-23/8/2019, Thủ tướng Úc Scott Morrison
đến thăm Việt Nam. Thời điểm của chuyến thăm này có ý nghĩa quan trọng,
tuy Canberra đến nay vẫn giữ im lặng về vấn đề này. Là thành viên của
“Bộ Tứ” (trong tầm nhìn Indo-Pacific) Úc cần có vai trò tích cực hơn, và
là đối tác chiến lược của Việt Nam từ 3/2018, Việt Nam mong muốn Úc ủng
hộ (như Mỹ) tại Biển Đông. Trong cuộc họp báo chung tại Hà Nội (23/8) cả
hai thủ tướng đều bày tỏ “lo ngại sâu sắc” nhưng tránh nói đến Trung
Quốc. Ông Morrison nói, “Tôi không đến đây để lên án hay làm điều gì đó
như vậy. Chúng tôi không chọn bên nào” (We do not take sides).
Trung Quốc tại bãi Tư Chính
Để độc quyền hay “cùng khai thác” dầu khí tại
Biển Đông, Trung Quốc phải tìm cơ hội để kiểm soát và khẳng định chủ
quyền (vô lý) của họ bằng “đường chín đoạn”, bất chấp luật biển quốc tế
1982 (UNCLOS) và phán quyết của PCA 2016. Để biến bãi Tư Chính (trong
vùng EEZ của Việt Nam) thành “khu vực tranh chấp”, Trung Quốc đang dùng
tàu thăm dò HD-8 và đội tàu hải cảnh quấy phá và ngăn cản hoạt động của
Việt Nam và đối tác (Nga và Nhật). Trung Quốc có thể ngăn Việt Nam và
ExxonMobil khai thác mỏ khí “Cá Voi Xanh” (lô 128). Để ép các nước ASEAN chấp thuận dự thảo “COC” của
họ với 3 điều kiện vô lý, Trung Quốc đề nghị: (1) ASEAN không được đưa
nội dung UNCLOS vào COC; (2)
Không được tập trận chung với bất kỳ nước nào bên ngoài ASEAN, nếu không
được sự đồng ý của tất cả ASEAN và Trung Quốc; (3) Không được tiến hành
các hoạt động kinh tế với bất kỳ nước nào bên ngoài ASEAN mà không được
sự đồng ý của tất cả ASEAN và Trung Quốc. Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung chỉ là “phần nổi
của tảng băng chìm”, chưa có hồi kết, với hệ lụy khó lường. Những dấu
hiệu bất ổn về kinh tế (như tốc độ phát triển chậm lại, dự trữ ngoại tệ
và thị trường chứng khoán suy giảm), và về chính trị (như bất đồng quan
điểm trong nội bộ gần đây tại Bắc Đới Hà), ngày càng làm bộc lộ “gót
chân A-sin” tiềm ẩn của Trung Quốc, mà các chuyên gia (như David
Shambaugh, Paul Krugman) đã cảnh báo.
Trong cuộc đấu “bất đối xứng” tại bãi Tư Chính,
Trung Quốc là “người khổng lồ chân đất sét” (theo Joseph Nye) trong khi
Việt Nam nhỏ yếu hơn nhưng không khuất phục. Trong khi Trung Quốc dùng
bãi Tư Chính làm nơi luyện tập cho các lực lượng tàu hải giám và dân
quân biển (theo Derek Grossman), Việt Nam cũng dùng bãi Tư Chính để rút
kinh nghiệm. Trong trò chơi này, Việt Nam không thể thiếu sự ủng hộ của
dân chúng và quốc tế.
Việt Nam tại bãi Tư Chính Bãi Tư Chính đối với Việt Nam còn quan trọng hơn
cả Scaborough shoah đối với Philippines. Để mất Scarborough là một sai
lầm lớn của Manila và Washington, nên họ phải cố giữ không để Trung Quốc
quân sự hóa chỗ này (như “làn ranh đỏ”). Trong khi Trung Quốc bắt nạt
Việt Nam tại bãi Tư Chính, họ cũng đang bắt nạt Philippines tại đảo Thị
Tứ. Chắc Hà Nội đã nhận ra rằng, dù ông Deterte có
xoay trục theo Bắc Kinh, thì Trung Quốc vẫn bắt nạt và lấn chiếm
Philippines như vậy. Vì vậy, Hà Nội đã rút kinh nghiệm và quyết giữ bãi
Tư Chính bằng được (như “làn ranh đỏ”). Bãi Tư Chính không chỉ hệ trọng
về vị trí chiến lược, mà còn có ý nghĩa sống còn về chính trị, vì để mất
Tư Chính là mất hết. Nếu Hà Nội càng nhân nhượng thì Bắc Kinh càng lấn
tới, vì họ quyết lấn chiếm để từng bước thay đổi thực địa, biến Biển
Đông thành cái ao của họ. Vì vậy, không ngạc nhiên nếu sắp tới Trung
Quốc đưa dàn khoan vào bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền. Chính sách
ngoại giao pháo hạm (gunboat diplomacy) của Trung Quốc là “mềm nắn, rắn
buông”. Tuy khủng hoảng Biển Đông “lần hai” lặp lại khủng
hoảng Biển Đông “lần đầu” (về quy luật), nhưng khác nhau (về tính chất).
Trung Quốc gây ra khủng hoảng “lần hai” không chỉ để nắn gân Hà Nội và
quốc tế xem phản ứng thế nào, mà còn là hành động “xâm lược mềm” hay
“xung đột cường độ thấp” theo “chiến lược vùng xám” (grey area
strategy).
Thay lời kết
Theo một khảo sát của Pew Research (năm 2017),
64% người Việt được hỏi cho rằng kinh tế Trung Quốc phát triển xấu,
trong khi 92% cho rằng ảnh hưởng của Trung Quốc đe dọa Việt Nam. Tâm
trạng này ngày càng tăng bởi tình hình gần đây tại bãi Tư Chính. Nay Hà
Nội đã nhận ra rằng nhân nhượng Trung Quốc không có tác dụng, mà chỉ
càng làm cho họ rắn hơn để triển khai các hành động xâm lược mới, nên Hà
Nội đang cứng rắn hơn. Trong bối cảnh Biển Đông khủng hoảng “lần 2” tại
bãi Tư Chính, Việt Nam đứng trước bước ngoặt mới. Chuyến thăm Mỹ sắp tới
của TBT&CTN Nguyễn Phú Trọng (dự kiến 10/2019) là thời điểm hệ trọng để
Việt Nam xử lý cuộc “khủng hoảng kép”. Việt Nam cần điều chỉnh chính
sách đối ngoại để “tái cân bằng” với Mỹ và Trung Quốc (cuối năm 2019),
và chuẩn bị đổi mới thể chế toàn diện tại Đại Hội Đảng lần thứ 13 (đầu
năm 2021). Nghị quyết 50-NQ/TW của Bộ Chính trị (20/8/2019) là một
chuyển động đúng hướng (tuy hơi chậm).
NQD. 24/8/2019
|