Bài học Thủ Thiêm
Nguyễn Quang Dy
Nếu tra Google từ khóa “Thủ Thiêm” chắc bạn sẽ thấy hàng trăm bài viết
và hàng ngàn thông tin về những dấu hiệu của một vụ “đại án” với nhiều
“củi to” sắp bị cho vào lò. Những khuất tất của nhóm lợi ích đã thao
túng quy hoạch Thủ Thiêm để chiếm đoạt đất đai và đối xử bất nhân với
người dân, thậm chí còn cố ý làm “mất bản đồ quy hoạch”, đang được báo
chí trong nước lẫn ngoài nước, báo chí “chính thống” lẫn báo chí “lề
dân” cùng vào cuộc ồ ạt như dòng nước lũ (chắc được lãnh đạo “bật đèn
xanh”). Báo chí chính thống như chợt bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài
(chắc bị “đèn đỏ” chặn họng) vì đụng vào “vùng cấm” của lãnh đạo (hay
nhóm lợi ích). Để rút bài học, cần lý giải các biến số đang lật ngược
bàn cờ Thủ Thiêm.
Truyền thông báo
chí
Đối với báo chí “chính thống” (hơn 800 báo/đài) được các cơ quan chức
năng (như bộ TT&TT) kiểm soát chặt chẽ (nhất là thời Trương Minh Tuấn),
nên các đợt tuyên truyền lớn thường được chỉ đạo từ các cấp cao nhất.
Khi truyền thông mạng xuất hiện và lấn sân, việc chỉ đạo (như bật “đèn
xanh” hay “đèn đỏ”) chắc khó khăn hơn. Tuy các cơ quan chức năng không
chỉ đạo được mạng xã hội, nhưng họ vẫn có thể thao túng được (nếu biết
cách). Mỗi khi cả báo chí “chính thống” lẫn truyền thông mạng cùng vào
cuộc (như hiện nay), nó thường phản ánh mức độ đấu tranh nội bộ quyết
liệt hơn (giữa các nhóm lợi ích) và thường được lòng dân hơn (nếu chống
tham nhũng quyết liệt). Truyền thông mạng là một vũ khí lợi hại, nhưng
cũng dễ “đứt tay” như một con dao hai lưỡi. Bên cạnh vai trò báo chí
chính thống (như một hằng số), sức mạnh của truyền thông mạng (như một
biến số) có thể giúp chính quyền lấy lại chính danh, bằng cách lấy lòng
dân, khi lòng tin của họ đã bị cạn kiệt (như tài nguyên quốc gia).
Cách đây 10 năm, vụ án PMU-18 là một ví dụ điển hình, đã từng làm dư
luận cả nước bức xúc. Lúc đó, báo chí chính thống và truyền thông mạng
cũng vào cuộc (tuy mạng xã hội lúc đó chưa đủ mạnh). Một số báo lớn (như
Thanh Niên và Tuổi Trẻ) đã đi đầu trong việc điều tra và đưa tin (chắc
được bật “đèn xanh”). Nhưng khi chống tham nhũng đụng đến “vùng cấm” quá
nhạy cảm thì lãnh đạo lại sợ “vỡ bình” nên họ lại bật “đèn đỏ” để dừng
vụ án. Lúc đó, không chỉ có hai nhà báo đi đầu trong vụ này đã bị bắt
(Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải) mà thiếu tướng công an Phạm Xuân
Quắc (cục trưởng C14 và trưởng ban điều tra chuyên án PMU-18) và một
trưởng phòng trong C14 (thượng tá Đinh Văn Huynh) cũng bị khởi tố.
Vì vậy, người ta có lý do để nghi ngại liệu vụ Thủ Thiêm có lặp lại bài
học về vụ PMU-18, trong đó Nguyễn Việt Chiến, Nguyễn Văn Hải, và Phạm
Xuân Quắc (cùng nhiều người khác) đã trở thành nạn nhân của nghịch lý
chống tham nhũng. Trong vụ khủng hoảng con tin Đồng Tâm, ông chủ tịch
UBND Hà Nội Nguyễn Đức Chung đã đến Đồng Tâm, ký (và điểm chỉ) vào bản
cam kết trong đó hứa sẽ không khởi tố người dân Đồng Tâm, và sẽ điều tra
tranh chấp đất đai. Qua sự kiện
đó, ông Nguyễn Đức Chung (cũng như ông Lê Đình Kinh và bà Nguyễn Thi
Lan) đã trở thành ngôi sao trong mắt người dân (và báo chí). Nhưng khi
ông Chung nuốt lời hứa, lòng tin của người dân cũng mất hết. Một khi
lòng tin đã mất thì khó lấy lại.
Dân vận hay dân túy
Trong một thể chế chồng chéo và bất cập, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hay
Ủy ban Dân vận Trung Ương đều do một ủy viên Bộ Chính trị phụ trách, để
lo công tác dân vận (hay “dân túy”). Trong khi chính quyền luôn hô khẩu
hiệu về nhà nước “của dân, do dân, vì dân” thì lòng tin của người dân
ngày càng cạn kiệt. Trong khi chính phủ luôn quảng bá hình ảnh về “chính
phủ kiến tạo và liêm chính”, thì các bộ ngành vẫn đang ỳ ạch trong tình
trạng “trên bảo dưới không nghe” và “trên nóng dưới lạnh” hay “trên
nóng, dưới nóng, giữa lạnh”.
Nghịch lý chống tham nhũng có thể biến Thủ Thiêm trở thành một
quả “bom nổ chậm” (như Đồng Tâm và Formosa). Một đất nước có quá nhiều
“bom nổ chậm” thì việc tụt hậu và rạn nứt là dễ hiểu.
Theo khảo sát của viện Gallup, Việt Nam và Singapore là hai quốc gia
trong nhóm nước được xếp hạng “vô cảm nhất thế giới”. Nhưng trong khi
Singapore (một nước tư bản “high-tech”) biết lo cho dân, thì Việt Nam
(một nước XHCN “low-tech”) chỉ biết “ăn của dân không từ một cái gì”. Có
lẽ sự vô cảm được biểu hiện rõ nhất là qua thái độ ứng xử của các quan
tham (là “đầy tớ của dân”) đối với nhân dân (là “ông chủ”) trong các vụ
cưỡng chế để chiếm đoạt ruộng đất làm dự án. Trong khi các vụ tranh chấp
đất đai tại Văn Giang, Dương Nội, và Đồng Tâm… vẫn chưa được khắc phục,
thì “bàn cờ Thủ Thiêm” đang trở thành một biến số mới trong chiến dịch
chống tham nhũng ngày càng quyết liệt, không chỉ nhắm vào nhóm lợi ích
tại thành phố HCM, mà còn đụng chạm đến các bộ ngành Trung Ương (cùng
chung lợi ích nhóm).
Để bắt chước mô hình “Phố Đông” (Thượng Hải), dự án xây dựng đô thị Thủ
Thiêm đầy tham vọng (nhưng quan liêu và vô cảm). Các nhà quy hoạch “tháp
ngà” thường “cưỡi ngựa xem hoa”, chỉ quan tâm đến lợi ích và duyệt quy
hoạch trên hồ sơ, mà không quan tâm đến con người (nên sớm muộn sẽ thất
bại). Thật đáng xấu hổ khi một người
nước ngoài như
tiến sỹ
Erik Harms (Đại học Yale) tác giả của cuốn sách “Xa hoa và Đổ nát” (Luxury
và Rubble)
viết về các đô thị mới (trong đó có Thủ Thiêm) còn biết nghĩ đến người
dân khi nhận xét một cách xác đáng: “người
dân Thủ Thiêm đã bị đối xử như không hề tồn tại”
(Zing, 11/5/2018).
Kiểm soát quyền lực
Trong khi các quan tham ngày càng xa dân và
đối xử với họ như “không hề tồn tại”, thì chính quyền càng tự cô lập
mình và đánh mất chính danh. Trong một thể chế dựa trên độc quyền chứ
không phải “pháp quyền” (rule of law), thì không thể kiểm soát được
quyền lực, nhất là khi nó bị tha hóa trở thành “tư bản đỏ” (hay “xã hội
đen”). Nếu không cải tổ thể chế toàn diện, thì dù có chống tham nhũng
quyết liệt, cũng không thể diệt trừ được nguồn gốc sinh ra tham nhũng.
Vì vậy, “người đốt lò vĩ đại” không thể cho hết “củi khô hay tươi” vào
lò vì khu rừng tham nhũng quá lớn. Việt Nam có một thể chế chồng chéo,
tự vô hiệu hóa, chỉ tạo điều kiện cho các nhóm lợi ích dễ thao túng, làm
cho kiểm soát quyền lực trở nên bất khả thi. Nhưng mô hình Trung Quốc
không phải là sự lựa chọn khôn ngoan, vì sớm muộn nó cũng “đổ vỡ” (crack
up). Những gì đang diễn ra tại bán đảo Triều Tiên là một lời cảnh báo
mới, vì xu hướng “thoát Trung” đang diễn ra tại Đài Loan, Miến Điện,
Triều Tiên (cũng như Việt Nam).
Theo Franscis Fukuyama (China’s
bad emperor returns,
Francis Fukuyama, Washington Post,
March 6, 2018), Tập Cận Bình đã dập tắt hy vọng của người Trung
Quốc về một xã hội cởi mở, minh bạch và tự do hơn, đàn áp mọi biểu hiện
chống đối, và thiết chế một hệ thống kiểm soát xã hội bằng cách sử dụng
“dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo” (big
data and artificial intelligence) để theo dõi hành vi hàng ngày của công
dân. Rốt cuộc, Trung Quốc dưới thời Tập sẽ cho thế giới thấy một nhà
nước độc tài toàn trị trong thế kỷ 21 là như thế nào. Viêt Nam đang bắt
chước Trung Quốc chống tham nhũng (như phương tiện) nhưng liệu có muốn
bắt chước mô hình của Trung Quốc (như mục đích) hay không? Hy vọng lãnh
đạo Việt Nam sẽ không dại dột trở thành “Hoàng đế An Nam”, theo mô hình
“bad emperor” của Trung Quốc.
Muốn kiểm soát quyền lực, và chống tham nhũng có hiệu quả, phải hiểu sự
chuyển dịch của quyền lực (power shifts), để cải tổ thể chế đúng hướng,
dựa trên pháp quyền và sự đồng thuận của người dân (chứ không chỉ “dân
vận” hay “mỵ dân”). Trong cuốn sách “sự cáo chung của quyền lực” (the
end of power, Moises Naim, Basic Books, 2013), tác giả lập luận
“trong thế kỷ 21, có thể dễ giành quyền lực, nhưng khó sử dụng, và dễ
đánh mất”. Naim cảnh báo sự suy tàn của “siêu cường” (superpower) sẽ làm
cho thế giới càng bất ổn định, dẫn đến tình trạng ách tắc (gridlock) và
hỗn loạn (anarchy). Các “tiểu quyền lực” (micropowers) sẽ ngày càng nổi
lên thách thức các “đại quyền lực” (megaplayers).
Nếu dân chủ tự do trong thế kỷ 21 gặp rắc rối thì ít khả năng do
các mối đe dọa “thông thường” (conventional threat) từ bên ngoài (như
Trung Quốc hay Hồi giáo) mà là do mâu thuẫn nội tại từ bên trong xã hội.
Sửa đổi luật hay
quy hoạch
Nguyên tắc “sở hữu toàn dân” về ruộng đất là một di sản từ thời bao cấp
(với tư duy “công hữu hóa” công cụ sản xuất), nay trở thành một rào cản
lớn cho cải cách và phát triển kinh tế thị trường tại Việt Nam, tạo ra
bất cập lớn cho nền kinh tế chuyển đổi. Nếu không thay đổi tư duy lỗi
thời đó và sửa đổi hiến pháp để tháo gỡ cái nút thắt này, thì Việt Nam
vẫn bị mắc kẹt trong mối quan hệ xã hội thân hữu bị lợi ích nhóm thao
túng, dẫn đến tham nhũng đất đai và phát triển bất động sản vô tội vạ,
tiềm ẩn nhiều rủi ro như hiện nay. Cũng như tranh chấp đất đai tại khắp
nơi trên toàn quốc, những khuất tất về quy hoạch Thủ Thiêm phản ánh thực
trạng chung khi các nhóm lợi ích lợi dụng kẽ hở của luật đất đai để thâu
tóm tài sản, xô đẩy người dân vào bước đường cùng, tạo ra một quả bom nổ
chậm (hay cái nồi áp xuất khổng lồ).
Chính quyền thành phố HCM (dưới thời Bí thư Lê Thanh Hải và Phó Bí thư
thường trực là Nguyễn Văn Đua) đã ban hành quyết định QĐ 6565 (ngày
27/12/2005) phê duyệt đồ án tỷ lệ 1/2.000 điều chỉnh quy hoạch khu đô
thị mới Thủ Thiêm. Những “điều chỉnh” này đã làm thay đổi hẳn bản quy
hoạch gốc về Thủ Thiêm đã được thủ tướng Võ Văn Kiệt phê duyệt (quyết
định QĐ 367 ngày 4/6/1996). Theo ông Võ Viết Thanh (cựu chủ tịch UBND
thành phố) quyết định 6565 (của UBND thành phố) đã thay thế quyết định
367 (của thủ tướng chính phủ). Ông Võ Viết Thanh còn lưu giữ đầy đủ
những bản đồ quy hoạch gốc được chính phủ duyệt, chứ không phải “bị biến
mất” như nhóm lợi ích nói (hòng xóa dấu vết để chạy tội).
Dựa vào quy hoach đã được sửa đổi này, nhóm
lợi ích (được bí thư
Lê Thanh Hải chống lưng) đã thẳng
tay đuổi dân, “xẻ thịt” đất Thủ Thiêm, chia cho nhóm lợi ích dưới danh
nghĩa “nhà đầu tư”. Theo đó, UBND thành phố HCM đã giao cho công ty (sân
sau) Đại Quang Minh thực hiện 4 cung đường với chiều dài có 11,9 km
nhưng tổng chi phí đầu tư lên đến 12.182 tỷ đồng. Đổi lại, UBND thành
phố đã giao cho Đại Quang Minh khu đất sạch có diện tích gần 79 hecta.
Đại Quang Minh tiếp tục được UBND thành phố giao cho xây dựng cầu dây
văng Thủ Thiêm 2 (nối quận 1 với quận 2) với tổng chi phí lên đến 4.260
tỷ đồng. Đổi lại, UBND thành phố đã cấp cho Đại Quang Minh 13,5 hecta
đất cũng tại Thủ Thiêm. Có lẽ vì vậy mà ông Võ Viết Thanh đã bất lực
thốt lên rằng “Đồng tiền đã làm biến dạng quy hoạch Thủ Thiêm”.
Lời kết
Với vụ đại án Thủ Thiêm sắp tới, khi nhiều “củi to” sắp bị cho vào lò
đang “nóng rực lên rồi”, chiến dịch chống tham nhũng ngày càng quyết
liệt có dấu hiệu đang “biến lượng thành chất”. Muốn hay không, phải thừa
nhận rằng “người đốt lò vĩ đại” là một biến số lớn, như một câu hỏi khó
giải mã đối với các nhà “Việt Nam học” đang nghiên cứu quá trình chuyển
đổi kinh tế và chính trị tại quốc gia theo mô hình “không chịu phát
triển” này. Điều đó có thể đúng với nhận định của Moises Naim trong cuốn
sách “sự cáo chung của quyền lực”.
Cũng như bài học Đồng Tâm và các bài học khác (như Formosa), “Hội chứng
Thủ Thiêm” còn phản ánh quy luật “cùng tắc biến”, (tuy chưa biết nó có
dẫn đến “biến tắc thông” hay không). Nếu chiến dịch chống tham nhũng “từ
trên xuống” (top-down) dẫn đến tình trạng “trên nóng dưới lạnh” hay
“trên nóng, dưới nóng, giữa lạnh”, thì đã đến lúc “người đốt lò vĩ đại”
cần nghĩ phải làm gì tiếp để công sức chống tham nhũng không bị uổng
phí. Để hóa giải “nghịch lý chống tham nhũng”, Đảng không phải chỉ lấy
lòng dân để lấy lại chính danh và nhất thể hóa để củng cố quyền lực và
giảm chi phí quá lớn cho một hệ thống chồng chéo, mà còn phải cải tổ thể
chế toàn diện để đảm bảo hệ quả của chống tham nhũng không bị đảo ngược.
NQD.
15/5/2018
|