Nhìn lại kinh tế
ngầm ở Việt Nam
Nguyễn Quang Dy
Phần 1: Giải mã
hiện tượng kinh tế ngầm
Kinh tế ngầm là một chủ đề khó, không chỉ với
những người ngoại đạo mà còn với các chuyên gia kinh tế và quản trị kinh
doanh. Trong khi tài liệu tham khảo về kinh tế ngầm còn thiếu, quan niệm
về kinh tế ngầm có nhiều bất cập. Điều đó phản ánh bản chất phức tạp và
khó nắm bắt của kinh tế ngầm. Gần đây các chuyên gia tuy đề cập nhiều
hơn đến quy mô và tầm quan trọng của kinh tế ngầm, nhưng vẫn còn nhiều
tranh cãi về động cơ và phương pháp thống kê. Bức tranh về kinh tế ngầm
vẫn còn nhiều ẩn số, cần được giải mã để làm rõ hơn.
Quan
niệm về “System D” Trong bất kỳ nền kinh tế nước nào cũng có kinh tế
ngầm, nhất là tại các nước đang phát triển có một nền kinh tế chuyển
đổi, có thể chế lỗi thời và thói quen làm việc “du kích” như Việt Nam.
Hiện nay, người ta thường gọi hệ thống kinh tế ngầm là “System D”. Đó là
chữ cái của từ tiếng Pháp “debrouille”.
Từ này có nghĩa gần giống như “manage” hay “make do” trong tiếng
Anh, có nghĩa là có thể xoay sở và tồn tại được, bất chấp mọi khó khăn. Trước đây, “System D” được biết đến chủ yếu tại
các nước nói tiếng Pháp ở Châu Phi và vùng Caribbean.
Ngày nay “System D” là thuật ngữ để chỉ năng lực thực dụng biết
thích nghi nhanh và biến báo hiệu quả trước mọi tình huống khó khăn để
đạt được mục đích. Trong kinh tế học, “System D” thường được hiểu là
“kinh tế ngầm” (shadow economy) có đóng góp ngày càng lớn cho kinh tế
thế giới. Theo các chuyên gia, GDP của “System D” là $10 trillion. (“The
Shadow Superpower”, Robert Neuwirth, Foreign Policy, 28/10/2011). Robert Neuwirth cho rằng không phải Trung Quốc,
mà “System D” mới là siêu cường kinh tế lớn thứ hai thế giới, với GDP
khoảng $10 trillion (mười ngàn tỷ USD) trong khi GDP của Mỹ khoảng $14
trillion và GDP của Trung Quốc khoảng $8 trillion (năm 2011). Đến nay
chắc bức tranh kinh tế ngầm toàn cầu đã khác trước rất nhiều, vì “System
D” có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới, thu hút một nửa tổng số
nhân công trên toàn cầu. Theo ước tính của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF)
kinh tế ngầm toàn cầu trị giá $650 billion (giai đoạn 2012-2014). Mặc dù
khó xác định chính xác các hoạt động kinh doanh ngầm vốn đa dạng, nhưng
nghiên cứu của WEF (2015) dự báo rằng chi phí mà nền kinh tế toàn cầu
phải chịu vì hàng giả có thể lên tới $1.77 trillion (trong giai đoạn
đó). Có nhiều nguyên nhân làm hoạt động kinh tế ngầm gia tăng, trong đó
luật lệ quá nhiều và quá phức tạp, trong khi năng lực quản trị của các
cơ quan nhà nước thường yếu kém và thiếu nhất quán.
Một số nước
có nền kinh tế ngầm lớn hơn so với các nước khác.
Trong khi kinh tế ngầm tại khu vực Châu Á có
quy mô chiếm khoảng 26% GDP, thì kinh tế ngầm tại các khu vực khác chiếm
khoảng 20%-60% GDP. Theo nguồn CafeF (25/12/2015), Ukraine là nước có
nền kinh tế ngầm vào loại lớn nhất thế giới (chiếm tới 47% GDP, vào quý
I/2015). Một trong những
hoạt động kinh doanh ngầm phổ biến nhất tại Ukraine là buôn lậu, và vấn
nạn tham nhũng là lý do chính khiến buôn lậu trở nên phổ biến. Ví dụ,
sản xuất rượu trái phép là hoạt động kinh doanh có lãi nhất trong kinh
tế ngầm của Ukraine, ước tính khoảng $1,1 tỷ (bằng 40% tổng sản lượng
rượu cả nước), trong khi buôn lậu thuốc lá vào khoảng $360-$450 triệu.
Trong khu vực kinh tế ngầm, hai nghề phổ biến
nhất là mại dâm và buôn ma túy. Theo Cục Thống kê Quốc gia Anh (năm
2014) nghề mại dâm đã đóng góp tới 5.65 tỷ bảng Anh cho nền kinh tế (chỉ
thua con số buôn ma túy một chút). Tại Mỹ, nghề mại dâm tại bảy thành
phố lớn đã đóng góp tới $975 triệu (năm 2007). Tại Tây Ban Nha, nghề mại
dâm đóng góp gần $12 tỷ (tương đương 1% GDP). Tại Đức, nghề này đóng góp
$91 tỷ (năm 2013). Tại Pháp là 3,2 tỷ euro/năm. Tại Hà Lan là 2,5 tỷ
euro/năm. Theo một báo cáo của Liên Hợp Quốc (năm 2013) nghề mại dâm tại
Trung Quốc đóng góp $154 tỷ (bằng 6% GDP), với con số gái mại dâm hành
nghề chuyên nghiệp vào khoảng 4-6 triệu người (Zing, 13/1/2018).
Theo giáo sư Friedrich Schneider (Johannes Kepler
University, Austria)
kinh tế ngầm của 21 trong số 30 quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) chiếm khoảng 16,8% GDP (năm 1999), giảm còn 13,3%
(năm 2008) nhưng tăng lên 13,8% (năm 2012). Schneider
cho rằng một phần lớn kinh tế ngầm của Hy lạp đã bổ xung cho nền kinh tế
chính thức, gồm cả GDP và phúc lợi xã hội. (“Greece's
shadow economy: Blessing or curse?”,
Friedrich Schneider, the
Economist, October 19, 2012). Theo
một nghiên cứu mới (2/2017) của Viện Nghiên cứu Kinh tế Ứng dụng
(Tubingen University, Germany) kinh tế ngầm của Hy Lạp là 21,5% GDP, của
Ý là 19,8% GDP, của Tây Ban Nha là 17,2% GDP, của Canada là 9,8%GDP, của
Nhật là 8,6% GDP, của Mỹ là 5,4% GDP, trong khi của Nga tới 39% GDP.
Theo một báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO), tại các quốc gia đang phát triển, có khoảng 1 trong 2 người lao
động tham gia kinh tế ngầm (không tính lĩnh vực nông nghiệp). Tỷ lệ này
lên đến 83% ở Ấn Độ và gần 72% ở châu Phi (hạ Sahara). Tại Mexico, tỷ lệ
này tăng từ 50% (năm 1990) lên 54% (năm 1997). Venezuela và Brazil cũng
có mức tăng tương tự. Theo ILO, trên thế giới có khoảng 1,8 tỉ người làm
việc bất hợp pháp (không có hợp đồng và an sinh xã hội) trong khi chỉ có
1,2 tỉ người làm việc một cách hợp pháp. Hiện nay, các nhà phân tích buộc phải xem xét lại
đánh giá của mình khi có hàng chục triệu người trên thế giới mất việc.
Theo chuyên gia kinh tế William Maloney (World Bank), “Khu vực kinh tế
ngầm sẽ thu nhận nhiều người và giúp họ có nguồn thu nhập”.
Đặc biệt trong giai đoạn suy thoái kinh tế, kinh tế ngầm giúp
người dân tồn tại. Ở Ấn Độ, tuy kinh tế đạt mức tăng trưởng cao trong
những năm gần đây, nhưng chính khu vực kinh tế ngầm mới tạo ra nhiều
việc làm, chứ không phải là những tập đoàn danh tiếng (như Infosys và
Reliance Industries). Vì hệ thống kinh tế ngầm tồn tại khách quan như
một thực tế không thể chối cãi và tăng trưởng nhanh, nên chính quyền các
nước phải chấp nhận sống chung với nó.
Thực trạng “System
D” Thuật ngữ “System D” thường gây ấn tượng “dễ dãi”
(carefree) và “thân thiện” (friendly). Nhưng đồng thời nó cũng nhấn mạnh
một đặc tính quan trọng là những gì đang diễn ra tại các khu chợ (không
có đăng ký) và các kiosks bên lề đường (trên khắp thế giới) không phải
là “hỗn độn” (haphazard), mà là sản phẩm của trí tuệ (intelligence),
tinh thần bền bỉ (resilience), biết cách tự tổ chức (self-organization)
và đoàn kết (solidarity). Kinh tế ngầm không xuất hiện trên màn hình radar
và không chịu sự kiểm soát của chính phủ (đặc thù của “System D”). Nó
dựa trên tính sáng tạo (ingenuity) sự biến báo (improvisation) và tự lực
(self-reliance). Hầu hết họ là những tiểu thương có đầu óc kinh doanh
(entrepreneurial) có động lực (motivated) và sáng kiến (inventive), nên
có nhiều tiềm năng/tài năng (resourceful / ingenious ) và hoạt động hiệu
quả (effective). Họ không đăng ký kinh doanh, không đóng thuế và không
bị chi phối bởi bộ máy hành chính quan liêu (bureaucracy).
Giáo sư Friedrich Schneider đã dành mấy chục năm
nghiên cứu vai trò và giá trị của các nền kinh tế ngầm trên thế giới.
Theo Schneider, ranh giới giữa kinh tế ngầm và kinh tế chính quy
(legal economies) rất khó xác định (như cái chợ bazaars ở nhiều nước).
Khi thương mại được toàn cầu hóa, “System D” cũng không ngừng lớn mạnh.
Căn cứ vào cách tính GDP của World Bank, Schneider ước tính tổng giá trị
giao dịch ngầm của “System D” trên toàn cầu vào khoảng $10 trillion (năm
2006). Đó là siêu cường kinh tế lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ (với GDP
là $14 trillion). Ngày nay, “System D” là nền kinh tế phát triển nhanh
hơn bất cứ nền kinh tế nào và trở thành thế lực đang nổi lên trong
thương mại toàn cầu. Theo một nghiên cứu của ngân hàng Deutsche Bank
(năm 2009), trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế (2008), những công dân của
các nước mà “System D” phát triển mạnh sống khá hơn là những người dân ở
các nước có nền kinh tế tập trung bao cấp và bị kiểm soát chặt chẽ.
Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế gần đây nhất, những người cùng quẫn
thường tìm đến “System D” để có thể tồn tại. Vì vậy, sẽ vô nghĩa nếu
người ta cứ nói về phát triển bền vững hay toàn cầu hóa mà không quan
tâm đến yếu tố sống còn của “System D”. Một báo cáo của tổ chức OECD ước tính một nửa
nhân công trên thế giới (gần 1,8 tỷ người) đang làm việc cho “System D”,
nhưng không có trong sổ sách. Họ không đăng ký và không bị chi phối bởi
nhà nước, trong khi thu nhập bằng tiền mặt và trốn thuế thu nhập. Đến
năm 2020, vào khoảng 2/3 nhân công trên thế giới sẽ làm việc cho “System
D”. Đây là một hệ thống ứng
phó (spontaneous system) được vận hành bởi sự biến báo có tổ chức
(organized improvisation), là một yếu tố quan trọng để các đô thị phát
triển trong thế kỷ 21. Ngày nay “System D” còn cung cấp các dịch vụ thu
gom rác thải, tái chế, vận chuyển, thậm chí cả điện nước. Nói cách khác,
“System D” là tương lai của kinh tế toàn cầu, vì sự phát triển của nó mở
cửa thị trường cho những người lâu nay bị đóng cửa. “System D” là hệ
thống kinh tế thay thế (alternative) đem lại cho mọi người dân cơ hội
việc làm. Ngay trong trường hợp khó khăn nhất, những công dân của
“System D” cũng có cuộc sống khá hơn. Trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008, nhiều
doanh nghiệp thoát hiểm là nhờ vào các hoạt động kinh tế ngầm, đã đem
lại dịch vụ và việc làm cho hàng tỷ người trên thế giới. Có thể nói
“System D” hầu như là vô địch trong việc quảng bá công nghệ mới cho
người nghèo với chi phí thấp. Theo YaleGlobal, trong khi các nền kinh tế
phương Tây đang bị suy thoái, thì kinh tế ngầm tiếp tục tăng trưởng, vì
vậy phải quan tâm đến “System D”.
Sự phát triển của “System D” là một thách thức
lớn đối với các chuẩn mực kinh tế và quản trị kinh doanh, vì nó tồn tại
bên ngoài khuôn khổ các hiệp định và quy chuẩn thương mại. Nhưng “System
D” phổ biến công nghệ ra thế giới với chi phí mà người nghèo cũng có thể
tiếp cận. Nó phân phối sản phẩm công bằng hơn và rẻ hơn bất cứ một doanh
nghiệp lớn nào khác. “System D” có tiềm năng rất lớn như một “siêu cường
kinh tế”, nhưng nó vẫn chưa có đồng tiền thanh toán hay phương thức
thanh toán nào thích hợp để vận dụng cho nó. Đã có lúc người ta hy vọng có thể chọn bitcoin
làm đồng tiền của “System D”, vì nó tiện dụng và được sử dụng rộng khắp
trên toàn cầu. Nhưng mỗi khi đồng bitcon bị mất giá thì hy vọng đó cũng
mất dần. Vì vậy, người ta vẫn phải tìm một phương thức thanh toán phù
hợp với đặc điểm của “System D”, như ứng dụng các giải pháp công nghệ
mới dựa trên mobile platform cho hệ sinh thái kinh tế ngầm. Đây là một
thực tế mới đặt ra cho các nhà quản lý cũng như các doanh nghiệp cung
ứng dịch vụ đầu tư, thanh toán và lưu thông hàng hóa...
Phần 2: Đặc điểm
kinh tế ngầm ở Việt Nam
Cải
cách thể chế toàn diện (hay đổi mới “vòng hai”) là đòi hỏi cấp bách để
Việt Nam tháo gỡ những điểm tắc nghẽn về thể chế làm đất nước tụt hậu và
tham nhũng gia tăng. Đổi mới “vòng hai” không chỉ nhằm tháo gỡ thể chế
kinh tế bị ách tắc mà còn nhằm cải tổ thể chế chính trị đã lỗi thời, làm
tắc ngẽn dòng chảy kinh tế. Cải cách thể chế toàn diện sẽ tác động đến
nhiều lĩnh vực trong đó có kinh tế ngầm. Gần đây chính phủ quan tâm muốn
thống kê kinh tế ngầm để đưa vào GDP, nhưng vẫn chưa rõ sẽ thống kê như
thế nào. Cần tránh tình trạng “đánh trống bỏ dùi” dẫn đến thất bại như
“chiến dịch giành lại vỉa hè” (năm 2017).
Quan niệm về kinh
tế ngầm
Kinh tế ngầm là một thực thể
phức tạp và khó định lượng, nhất là trong một nền kinh tế chuyển
đổi (transitional economy), có thành phần kinh tế đa dạng, có hệ thống
quản trị bất cập và manh mún, nên dễ ngộ nhận và nhầm lẫn. Tuy nhiên,
Chính phủ đã yêu cầu bộ Kế hoạch Đầu tư “hoàn thiện đề án thống kê khu
vực kinh tế ngầm để báo cáo trước 30/1/2018”. Tuy kinh tế ngầm đã tồn
tại từ lâu ở Việt Nam, nhưng đây là lần đầu tiên chính phủ có đề án
thống kê. Báo chí chính thống đã nhanh chóng “vào cuộc”, nhưng cũng
nhanh chóng “bỏ cuộc”.
Tuy việc thống kê kinh tế ngầm là cần thiết,
nhưng làm thế nào thật không đơn giản. Trên thực tế, việc thống kê các
thành phần kinh tế không phải ngầm cũng đã bộc lộ nhiều bất cập. Chỉ
riêng việc thống kê số liệu xuất nhập khẩu qua đường “tiểu ngạch” cũng
còn chưa làm được.
Chênh lệch về số liệu xuất nhập khẩu giữa hải quan Trung Quốc và hải
quan Việt Nam khoảng $20 tỷ/năm. Mỗi
năm có khoảng $3 tỷ vốn chạy ra nước ngoài, nhưng các cơ quan chức năng
vẫn bất lực, chưa kiểm soát được. Cách tính GDP của Việt Nam cũng khác
so với thế giới, tuy GDP không phải là “đũa thần” để đánh giá sức khỏe
nền kinh tế.
Trong cuốn sách The Growth
Delusion: Why GDP is misleading (Financial Times, 10/1/2018), David
Pilling đã phân tích khiếm khuyết của GDP như “một thước đo kinh tế dễ
gây ngộ nhận (misleading). Tác giả cho rằng GDP không phải là một chỉ số
chính xác để đo sức khỏe kinh tế của mọi quốc gia. GDP (Gross Domestic
Product) được chuyên gia kinh tế Simon Kuznets đề xuất từ thập niên
1930, để lý giải chính sách tài khóa của Mỹ thời kỳ “New Deal”. Nhưng
theo Pilling, “Từ khi áp dụng GDP, chúng ta chưa bao giờ giàu hơn hay
hạnh phúc hơn”. Vì vậy các chỉ tiêu chính sách không nên chỉ dựa trên
GDP mà phải vận dụng các cách thống kê mới, như “Chỉ số Phát triển Con
người” (Human Development Index) mà chuyên gia kinh tế người Pakistan
Mahbub Ul Haq đã nghiên cứu và đề xuất (năm 1990).
Chuyên gia thống kê của LHQ Vũ Quang Việt cũng đã đề xuất một phương
pháp tính GDP mới (năm 2008) dựa trên sản xuất (production approach) gọi
là HUEM (household unincorportated enterprises). Phương pháp này khác
với phương pháp của World Bank ở chỗ HUEM thu thập số liệu hàng
tháng/hàng quý, còn World Bank thu thập 5-10 năm một lần. Phương pháp
HUEM dựa vào thống kê và thu thập số
liệu thường xuyên nhằm tạo ra dãy số cập nhật theo thời gian. Theo ông
Việt, nếu lấy con số tưởng tượng 30% (chưa tính vào GDP) rồi nhân lên
với GDP tính thường xuyên từng quí thì không có giá trị gì mà không bị
nhầm lẫn. Vậy đưa nó vào thống kê chính thức làm gì nếu không tính
thường xuyên và không thể tin cậy.
Theo tài liệu của OECD (năm 2002) và Hệ thống Tài khoản Quốc gia phiên
bản 2008 (SNA, 2008), khu vực kinh tế chưa được quan sát (Non-Observed
Economy) bao gồm kinh tế ngầm (Underground Economy), khu vực
kinh tế phi chính thức (Informal Sector), các hoạt động kinh tế
phi pháp (Illegal Economic Activity), và hoạt động kinh tế tự
sản tự tiêu (production
for own consumption).
Tất cả các nước trên thế giới đều có
kinh tế ngầm, nhưng ngay cả ở những nước có nền quản trị tốt, tính minh
bạch cao, cũng rất khó khăn trong việc thống kê định lượng chính xác.
Khu vực kinh tế chưa được quan sát là một bộ phận của nền kinh tế quốc
gia, cần được đo lường, đưa vào hệ thống tài khoản quốc gia, trong đó có
chỉ tiêu GDP, nhưng làm thế nào là một câu chuyện nan giải, gần như “bất
khả thi” (mission impossible).
Theo một nghiên cứu gần đây của Đại học Fulbright (Tuổi trẻ, 18/01/2018)
kinh tế ngầm Việt Nam chiếm khoảng 25-30% GDP (tương đương $60 tỷ) bao
gồm cả kinh tế phi chính thức và kinh tế bất hợp pháp, đang được thừa
nhận như một thực tế cuộc sống. Khu vực kinh tế phi chính thức thu hút
khoảng 60% lao động trong xã hội, nhưng lâu nay thường bị bỏ sót trong
các số liệu thống kê chính thức. Đến nay, nhà nước vẫn chưa thể phân
loại, thống kê, ghi chép, theo dõi và quản lý được kinh tế ngầm, nên hy
vọng sắp tới sẽ nhận diện được thêm10-15% quy mô của khu vực này trong
các chỉ số GDP. Trong nhiều trường hợp, kinh tế ngầm không nhất thiết là
kinh tế bất hợp pháp. Một nguyên nhân quan trọng khiến kinh tế ngầm phát
triển mạnh là do luật lệ quá phức tạp và không rõ ràng, trong khi chính
sách thuế quá cao cũng khuyến khích các giao dịch phi chính thức. Nhưng
xét theo ý nghĩa tích cực, kinh tế ngầm là mạng lưới an sinh cho nền
kinh tế, vì nó hấp thụ tốt những cú sốc do khủng hoảng. Tuy còn nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng kinh tế
ngầm thường không có giấy phép và không đóng thuế, giá trị giao dịch
không thể hiện trong sổ sách kế toán. Thành phần kinh tế ngầm gồm
cả hoạt động kinh doanh hợp
pháp và phi pháp, giao
dịch thường bằng tiền mặt nhưng không có hóa đơn, lâu nay không
được đưa vào sổ sách. Các
giao dịch này được thực hiện không có sự kiểm soát của nhà nước, nhằm
trốn thuế hoặc tránh bị các cơ quan kiểm tra phát hiện. Nhưng kinh tế
ngầm không đồng nghĩa với “chợ đen” (chủ yếu tiêu thụ hàng hóa trộm cắp)
và các hoạt động kinh doanh phi pháp khác (như buôn ma túy, mại dâm, cờ
bạc).
Kinh tế ngầm ở Việt Nam
Kinh
tế ngầm tuy tồn tại âm thầm nhưng khá hiệu quả. Hiện nay, quan điểm của
các chuyên gia còn khác nhau. Theo ĐBQH Trần Anh Tuấn (Quyền Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Phát triển, TP Hồ Chí Minh) kinh tế ngầm không phải là
những hoạt động xấu. Nếu kiểm soát tốt đó còn là thành phần bổ trợ cho
kinh tế chính thức phát triển. Kinh tế ngầm tại Việt Nam được xếp vào
loại khá cao trên thế giới. Nhưng trên thực tế, khái niệm kinh tế ngầm
đang bị hiểu theo hướng tiêu cực nhiều hơn, vì dễ bị liên hệ tới các
hoạt động kinh doanh phi pháp.
Theo ông Tuấn, những hoạt động như rửa tiền và buôn bán vũ khí ở một số
nước được coi là kinh tế ngầm, vì các nước này (như Mỹ) vẫn cho phép
người dân được buôn bán vũ khí. Nhưng ở Việt Nam, những hoạt động nói
trên thường được hiểu là những hoạt động phi pháp cần phải ngăn chặn và
xử lý (vì Việt Nam không cho phép buôn bán vũ khí). Những hoạt động
chuyển tiền không theo quy định của pháp luật cũng bị coi là phạm pháp,
không nằm trong cấu trúc nền kinh tế nên nó không thuộc thành phần kinh
tế “không chính thức”.
Tiến sĩ Võ Hồng Đức (Perth, Australia) cho rằng quy mô kinh tế ngầm của
Việt Nam dao động trong khoảng 20% - 50% GDP (giai đoạn 1990-2013), đặc
biệt gia tăng đáng kể trong giai đoạn khủng hoảng tài chính Châu Á
(2007-2008). Theo ông Võ Hồng Đức, kinh tế ngầm có 6 nguyên nhân biến
thiên là: (1) thuế suất, (2) chi tiêu chính phủ, (3) tự chủ tài chính,
(4) tự do lao động, (5) tự do kinh doanh, (6) tỷ lệ thất nghiệp. (“Xác
định Quy mô Kinh tế ngầm Việt Nam”,
International Journal of Economics and Finance, September, 2014). Trong một thể chế độc quyền, tư duy quản trị điển
hình là cái gì cũng muốn quản lý (tuy năng lực quản lý kém) và cái gì
không quản lý được thì cấm (tuy bất lực không cấm được). Điều này càng
đúng với đặc thù kinh tế ngầm, vì không có một chính phủ nào cấm được
hoạt động của kinh tế ngầm. Nó tồn tại và phát triển theo quy luật “cung
- cầu”: ở đâu có cầu thì sẽ có cung, và cầu càng cao thì cung càng
nhiều. Một đất nước có 92,7 triệu dân (năm 2016) là một thị trường có
nhu cầu khổng lồ. Một chính phủ dù có năng lực quản trị tốt (như
Singapore) cũng không thể đáp ứng được, nói gì đến một chính phủ có năng
lực quản trị kém (như Việt Nam). Hay nói cách khác, khi Việt Nam phải
bán các doanh nghiệp hàng đầu (như Vinamilk và Sabeco) vì quản trị kém
hay cần tiền, thì làm sao có thể quản trị được kinh tế ngầm.
Vì vậy, các chuyên gia kinh tế và quản trị cần điều chỉnh cách nhìn kinh
tế ngầm đang diễn ra trên vỉa hè, tại các chợ cóc và hàng quán ở Hà Nội
và các đô thị trên toàn quốc. Chính họ đã góp phần cưu mang cuộc sống
của hàng triệu người dân sống sót qua chiến tranh, chịu đựng mọi thiếu
thốn của thời bao cấp, và nay là vấn nạn tham nhũng khi các nhóm lợi ích
thân hữu và thế lực “tư bản đỏ” lợi dụng thể chế yếu kém để vơ vét và
“ăn của dân không chừa một thứ gì”. Nếu không có kinh tế ngầm thì làm
sao chúng ta có thể lý giải được sự tồn tại tưởng chừng vô lý và sức
sống bền bỉ đến kinh ngạc của người dân Việt Nam. Nói cách khác, kinh tế
ngầm rất gần với khái niệm chiến tranh du kích (hay “chiến tranh nhân
dân”).
Trên thực tế, nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào Trung
Quốc. Trong khi nhập siêu (chính thức) mỗi năm trung bình hơn 30 tỷ USD
(năm 2018 giảm còn 28 tỷ USD), nhập siêu theo đường “tiểu ngạch” (phi
chính thức) là gần 20 tỷ USD. Đó là một tỷ lệ khổng lồ trong một nền
kinh tế hàng hóa còn yếu kém như Việt Nam (vẫn chưa công nghiệp hóa).
Điều này khẳng định quy mô và vai trò của kinh tế ngầm trong nền kinh tế
thị trường què quặt của Việt Nam, khi quá trình chuyển đổi cơ cấu và cải
cách thể chế còn ách tắc.
Về thương mại, đó là sự tồn tại âm thầm nhưng sống động của thị trường
“tiểu ngạch” trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc với giá trị nhập siêu
khoảng $20 tỷ/năm, bất chấp mọi trở ngại qua các thời kỳ sóng gió trong
quan hệ hai nước. Tại Sài Gòn, đó là sức sống năng động của kinh tế ngầm
tại Chợ Lớn, trải qua các biến cố bất thường của thời kỳ chiến tranh
cũng như thời hậu chiến với sự biến động của chế độ chính trị. Tại Hà
Nội, đó là sự phục hồi và sức sống mãnh liệt của khu phố cổ Hà Nội, là
“hồn cốt” của thủ đô với “36 phố phường” như một cái chợ bazaar khổng lồ
có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với khách du lịch thập phương.
Trên đây là vài ví dụ điển hình về bức tranh sinh động của kinh tế ngầm
ở Việt Nam, với nhiều hình thái và thành phần đa dạng trong nền kinh tế
thị trường “định hướng XHCN”. Chắc nhiều người không biết ông chủ ngôi
“biệt thự gà vàng” khá độc đáo gần Ngõ 1 phố Hoàng Quốc Việt là ông
“Thanh Sắt”, vốn làm nghề buôn “đồng nát”. Nhưng ông “Thanh Sắt” còn
thua xa ông “Đường Bia” là chủ tòa nhà “Hòa Bình tower” tọa lạc tại phố
Hoàng Quốc Việt, và các khách sạn cao cấp “rát vàng” nổi tiếng tại Đà
Nẵng, Hội An, và Hà Nội.
Khi đoàn Tổng thống Donald Trump sang dự Hội nghị Cấp cao APEC tại Đà
Nẵng (10/2017), và khi tàu sân bay USS Theodore Roosevelt đến thăm Đà
Nẵng (3/2020) người Mỹ đã quyết định chọn khách sạn “Golden Bay” của ông
“Đường Bia”. Chắc nhiều người không biết ông “Đường Bia” là bộ đội phục
viên, từng làm nghề đạp xích lô chở bia thuê cho nhà máy bia Hà Nội.
Những người như ông “Thanh Sắt” hay “Đường Bia” đã làm giàu và đi lên từ
“kinh tế ngầm”, trong nền kinh tế thị trường “định hướng XHCN” đa thành
phần.
Dù làm nghề “đồng nát” (như ông Thanh) hay “chở bia thuê” (như ông
Đường) hay hàng triệu người Việt khác đang “buôn thúng bán mẹt”, họ
không phải là “ký sinh trùng”. Trong khi Việt Nam có những “làng tỷ phú
đồng nát” (như ở Bắc Ninh), thì nhiều người Việt sang Liên Xô-Đông Âu đã
trở thành “đại gia” nhờ kinh tế ngầm. Theo nhà văn Nguyễn Huy Thiệp,
Việt Nam là một “cường quốc đồng nát”, với đặc thù văn hóa “hàn soong
hàn nồi”.
Tác động của kinh tế ngầm không chỉ về kinh tế mà còn cả về giáo dục,
văn hóa, xã hội. Các nhà giáo dục Việt Nam hãy suy ngẫm tại sao những
đứa trẻ cơ nhỡ người Mông ở Sapa nói được tiếng Anh? Tại sao ngày càng
nhiều người Mông ở vùng cao vùng xa nói tiếng Anh còn thạo hơn cả tiếng
Kinh? Đó không phải là sản
phẩm của “xóa đói giảm nghèo” hay những dự án “cải cách giáo dục” hoành
tráng nhưng thường thất bại, làm thất thoát hàng trăm triệu USD tiền
viện trợ ODA và ngân sách nhà nước hay tiền thuế của dân. Đó là sản phẩm
phụ của kinh tế ngầm và toàn cầu hóa, khi dòng người du lịch nước ngoài
kéo đến Việt Nam.
Phần
3: Triển vọng kinh tế ngầm ở Việt Nam
Đối với
nhiều nước, kinh tế ngầm là một thực tế ngày càng quan trọng và đáng
quan tâm, nhưng cũng nan giải. Việt Nam quan tâm đến kinh tế ngầm là
đúng, nhưng nên thận trọng vì đó là một lĩnh vực tù mù, khó thống kê và
quản trị. Chính phủ cần thận trọng giao cho các cơ quan nghiên cứu theo
dõi một cách nghiêm túc và tham khảo ý kiến các chuyên gia trong nước và
ngoài nước trước khi quyết định. Trong bối cảnh kinh tế đang gặp khó
khăn vì đại dịch Covid-19, kinh tế ngầm tuy có vai trò quan trọng hơn,
nhưng cũng dễ bị tổn thương hơn.
Các chuyên gia nói gì
Kinh tế ngầm tại Việt Nam rất tiềm tàng nhưng lâu nay không được chú ý
đúng mức và thừa nhận, nên ít được nhắc tới (cho đến gần đây). Số liệu
về quy mô kinh tế ngầm dó đó cũng rất khác nhau. Theo chuyên gia kinh tế
Phạm Chi Lan, kinh tế ngầm trên thế giới chiếm khoảng 16-25% GDP. Tuy
chủ trương thống kê khu vực kinh tế ngầm tại Việt Nam là cần thiết,
nhưng bà Chi Lan cho là rất khó. Theo bà, “Lúc này, cách tích cực nhất
là Việt Nam hãy kiểm soát tốt hệ thống kinh tế chính thức mà cụ thể là
các doanh nghiệp nhà nước”.
Theo bà Chi Lan, nắm chắc được các doanh nghiệp nhà nước sẽ tăng được
hiệu quả kinh tế lên rất nhiều, chứ không phải lôi khu vực kinh tế ngầm
vào là có thể thay đổi được bộ mặt kinh tế. Nếu thống kê kinh tế ngầm để
tính thêm vào GDP, khiến mẫu số trong cách tính nợ công/GDP tăng, làm tử
số (nợ công) mở rộng thêm, có thể tác động ngược lại đến nền kinh
tế. Đây chính là “hệ quả không định trước” mà nhiều chuyên gia kinh tế
cảnh báo.
Theo tiến sỹ Nguyễn Đức Thành (Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và
Chính sách), đề án thống kê kinh tế ngầm có thể giúp Chính phủ có quyền
tăng nợ công vì nợ công được Quốc hội đưa ra dựa trên GDP. Vì vậy nếu
mẫu số to lên, tử số cũng được nhích lên theo. Bên cạnh đó, việc tăng
GDP do được cộng thêm khu vực kinh tế ngầm vào có thể làm thay đổi một
loạt chỉ tiêu vĩ mô như tăng thuế, tăng thu, tăng nợ của cả nền kinh tế
nói chung, trong khi khó lòng thu được gì từ khu vực kinh tế ngầm (dù có
thống kê và tính toán được chăng nữa). Trong khi nền kinh tế “thực”
(chính thức) phải gánh thêm nhiều tác động hơn, thì kinh tế “ngầm” dường
như không có gì thay đổi, dù cho người ta có thể “lôi được nó ra ánh
sáng”.
Bà Chi Lan cho rằng một trong những thành quả đáng kể của đổi mới (vòng
một) là hàng triệu doanh nghiệp chính thức và phi chính thức đã ra đời,
nhất là từ khi có Luật Doanh nghiệp, làm thay đổi cơ bản môi trường kinh
doanh và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, mà trước đây chủ yếu là hoạt
động “chợ đen” (không có giấy phép). Theo mục tiêu phấn đấu đến năm 2020
Việt Nam phải có một triệu doanh nghiệp chính thức, mặc nhiên hiểu ngầm
là phải đưa hàng vạn doanh nghiệp phi chính thức (như hộ kinh doanh gia
đình) trở thành doanh nghiệp chính thức bằng đăng ký kinh doanh theo
Luật Doanh nghiệp và có đóng thuế.
Theo các tài liệu của World Bank, IFC, WEF, khu vực kinh tế phi chính
thức (informal sector) tại Việt Nam đã ra đời một cách tự nhiên theo quy
luật cung cầu, thường xuất hiện trước khi có cộng đồng doanh nghiệp, nên
trở thành “lực lượng dự bị” cho doanh nghiệp chính thức. Trong một môi
trường kinh doanh tốt, khi nào thành phần kinh tế phi chính thức phát
triển tới một mức độ nhất định thì họ sẽ trở thành doanh nghiệp chính
thức. Theo bà Chi Lan, ở đâu có môi trường kinh doanh tốt thì ở đó có sự
chuyển dịch cao hơn từ kinh doanh phi chính thức thành chính thức, có
lợi cho cộng đồng doanh nghiệp và nền kinh tế. Cải thiện môi trường kinh
doanh và chuyển đổi cơ cấu doanh nghiệp luôn là mục tiêu của các quốc
gia.
Theo bà Chi Lan, mảng kinh tế ngầm đáng lo ngại là các nhóm “xã hội đen”
(hay “mafia”), gồm nhiều thành phần kinh tế đa dạng như nhà nước, tư
nhân, FDI và những nhân vật bí ẩn (các “ông trùm” chuyên chạy dự án như
“Vũ Nhôm” và “Út Trọc”). Các nhóm lợi ích này có thể hoạt động chính
thức dưới một vỏ bọc kín đáo để che đậy bản chất mafia, nhằm lách luật,
lũng đoạn chính sách, qui hoạch phát triển, phân bổ nguồn lực và dòng
vốn. Các nhóm lợi ích thân hữu (hay “tư bản đỏ”) thường có hệ thống bảo
kê rất mạnh và nắm trong tay nhiều đặc quyền để có thể thao túng chính
quyền và chính sách. Đó là các băng nhóm xã hội đen trong thế giới ngầm
có hại cho đất nước và cộng đồng doanh nghiệp, cần phải lên án và vô
hiệu hóa. Các vụ trọng án như “Vũ Nhôm” (ngành công an), “Út Trọc (của
quân đội), Nguyễn Thanh Hóa và Phan Văn Vĩnh (tướng công an bảo kê đường
dây đánh bạc online) là một minh chứng.
Chuyên gia kinh tế Bùi Trinh cho biết rằng cơ quan thống kê của Úc đã đo
lường khu vực kinh tế ngầm và điều chỉnh GDP tăng được 3% (năm 2012).
Có
nguồn tin đã ước tính nền kinh tế chưa được quan sát của Việt Nam chiếm
20-30% GDP, nhưng theo ông Bùi Trinh điều đó không dựa trên căn cứ chắc
chắn. Việt Nam không coi các hoạt động phi pháp (như ma túy, mại dâm, cờ
bạc) thuộc phạm trù sản xuất (mặc dù Liên Hợp Quốc quy định những hoạt
động đó thuộc phạm trù sản xuất). Nếu
quy mô GDP tăng lên thì bội chi, nợ công so với GDP sẽ giảm đi, có thể
đạt được cái gì đó về mặt thành tích nhưng sẽ che mờ đi sự thật vì những
khoản tính thêm vào GDP là những khoản không thu được thuế vào thu ngân
sách.
Ông
Bùi Trinh còn cho rằng muốn thống kê
kinh tế ngầm, trước hết chính phủ phải công nhận các khu vực kinh tế
chưa quan sát được, gồm cả các hoạt động phi pháp (như ma túy, mại dâm,
cờ bạc), từ đó cơ quan thống kê mới có cơ sở để tính toán vào quy mô nền
kinh tế. Thứ hai, cần phải tính GDP từ phía cầu (chứ không chỉ dựa vào
phía cung). Thứ ba, sở dĩ kinh tế ngầm vẫn sống được là do tham nhũng.
Vì vậy,
cần thay đổi phương pháp thống kê để ngăn chặn tham nhũng và bảo kê của
“một bộ phận không nhỏ” trong đội ngũ cán bộ công chức. (“Mổ
xẻ kinh tế ngầm Việt Nam”, Bùi Trinh, Thời báo Kinh tế Sài Gòn,
22/1/2018).
Hoạt động kinh tế ngầm lớn nhất là tại
khu vực doanh nghiệp, vì doanh nghiệp nào cũng có hai sổ kế toán, một để
hạch toán nội bộ và một để tính thuế, và doanh thu trong hai quyển sổ đó
chênh nhau rất nhiều. Theo ông Bùi Trinh, thống kê thêm khu vực kinh tế
ngầm vào quy mô của nền kinh tế chỉ mang tính chất thành tích ảo, và
phản ánh kỳ vọng tăng trần nợ công của Chính phủ. Điều đó sẽ tác động
mạnh tới nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô bởi vì nợ công của Việt
Nam hiện rất lớn, nếu tiếp tục tăng nợ công sẽ gây thêm áp lực lên nền
kinh tế. Dù có thống kê được khu vực kinh tế ngầm thì cũng rất khó để
quản lý và thu thuế.
Theo số liệu thống kê (từ 2005 đến 2019), kinh tế cá thể (không chính
thức) có tỷ trọng lớn, chiếm
khoảng 30% GDP (khá ổn định). Kinh tế tư nhân (các doanh nghiệp Việt
Nam) chiếm khoảng 10% GDP (không tăng). Trong khi đó, kinh tế nhà nước
giảm từ 38% GDP (2005) xuống 27,1% GDP (2019), nhưng chi ngân sách
thường xuyên tăng từ 5,7% (2005) lên 10,1% (2019). Theo ông Bùi Trinh
(CafeF, 21/8/2020), trong bối cảnh đại dịch Covid-19, cần nhìn nhận kinh
tế ngầm có vai trò quan trọng hơn nhưng dễ bị tổn thương.
Khu hợp tác kinh tế
qua biên giới
Khi Chủ tịch Tập Cận Bình đến thăm Việt Nam (11/2017), hai nước đã ký
Bản ghi nhớ về việc đẩy nhanh tiến độ đàm phán thỏa thuận khung về xây
dựng các “khu hợp tác kinh tế qua biên giới”. Tuy đây là việc nâng cấp
các “khu kinh tế cửa khẩu”, nhưng là một kế hoạch tổng thể chứ không chỉ
là ý tưởng của từng địa phương. Về đối ngoại, “ngoại giao láng giềng”
được xếp ở vị trí thứ hai, chỉ sau “quan hệ với các nước lớn”. Theo kế
hoạch, có bốn khu hợp tác kinh tế qua biên giới Việt-Trung, nhưng hai
bên vẫn chưa thống nhất được cách quản lý mô hình “hai nước một khu”,
liệu sẽ áp dụng luật Việt Nam hay luật Trung Quốc?.
Theo chuyên gia thống kê Liên Hợp Quốc Vũ Quang Việt, mô hình “hai nước
một khu” chính là mô hình nhằm biến một phần đất Việt Nam dọc biên giới
theo chính sách “Một vành đai Một con đường” để từng bước trở thành đất
Trung Quốc. Nói cách khác, Việt Nam “tự nguyện” nộp đất của mình vào mô
hình “hai nước một khu” để Trung Quốc “cùng phối hợp quản lý và khai
thác”. Thỏa thuận Thành Đô (9/1990) là một thảm họa đối với Việt Nam,
nhưng là một thành công đối với Trung Quốc, nên chắc chắn họ không dừng
lại. Liệu sáng kiến “hai nước một khu” có phải là một kiểu “Thành Đô
2.0” như nhiều người vẫn lo ngại?
Nếu trên Biển Đông họ đã và đang triển khai chiến lược “cờ vây” bằng
cách “thay đổi thực địa” để biến việc lấn chiếm và quân sự hóa thành
“chuyện đã rồi” (fait accompli) thì trên đất liền chắc họ cũng sẽ làm
tương tự. Thuyết “biên giới mềm” của Trung Quốc đang được cụ thể hóa
bằng sáng kiến “hai nước một khu”, để từng bước biến nó thành khu vực
không biên giới “trên thực tế” (de facto), như chuyện con trăn nuốt dần
con thỏ. Nếu “Một vành đai Một con đường” là kế hoach tổng thể (master
plan) thì “hai nước một khu” là sáng kiến cụ thể để triển khai
(execution project) trong kế sách “tằm ăn dâu” (hay “cắt lát salami”).
Gần đây, hai nước còn định triển khai hệ
thống “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát cửa khẩu”,
dự kiến đưa vào hoạt động từ tháng 5/2018 như một bước để hiện
thực hóa chủ trương đó. Hệ thống này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
người Trung Quốc vào Việt Nam hơn là người Việt Nam vào Trung Quốc. Theo
các nguồn tin, Phủ Lý (Hà Nam) cách đây nhiều năm chỉ có vài chục người
Trung Quốc đi du lịch rồi ở lại, nhưng bây giờ có hàng nghìn người đến
làm ăn trong một thành phố nhỏ có hơn 100,000 dân. Đó là một tỷ lệ quá
cao, đặt ra nhiều vấn đề phải suy nghĩ. Không phải chỉ có Phủ Lý mà còn
nhiều nơi khác (như Đà Nẵng và Nha Trrang). Không chỉ có kinh tế ngầm,
mà còn một thế giới ngầm khó kiểm soát.
Điều chuyên gia Vũ Quang Việt lo ngại cũng là điều dư luận chung quan
tâm. Để báo động và ngăn chặn nguy cơ mất dần chủ quyền quốc gia, cần có
tiếng nói mạnh hơn. Theo các chuyên gia, nguy cơ không chỉ vì chủ trương
“hai nước một khu” hợp tác kinh tế qua biên giới, mà còn do Trung Quốc
tham vọng kiểm soát Biển Đông như cái ao của họ. Trung Quốc muốn áp đặt
“đường lưỡi bò” (hay “Tứ Sa”) để ngăn chặn Việt Nam thăm dò và khai thác
dầu khí cũng như đánh cá tại vùng đặc quyền kinh tế của mình. Trung Quốc
dọa Việt Nam, buộc hãng Repsol (Tây Ban Nha) và PetroVietnam phải bỏ dự
án “Cá Kiếm Nâu” (Brown Gradius) lô 136-03 (7/2017) và dự án “Cá Rồng
Đỏ” (Red Emperor) lô 07-03 (3/2018).
Trong khi đó, PetroVietnam lâm vào khủng hoảng vì gần như toàn bộ dàn
lãnh đạo của PVN đã bị bắt và truy tố trong chiến dịch chống tham nhũng.
Tuy tham nhũng là quốc nạn mà tất cả các tập đoàn kinh tế nhà nước (SOE)
đều mắc phải, nhưng PVN có vai trò quan trọng hàng đầu để đảm bảo an
ninh năng lượng và chủ quyền quốc gia. Đúng lúc Việt Nam cần tăng cường
khai thác dầu khí để bổ xung cho ngân sách đang bị thâm hụt thì hoạt
động dầu khí gần như tê liệt vì chống tham nhũng quyết liệt, tái cơ cấu
bộ Công an, và sức ép ngày càng tăng của Trung Quốc đối với dầu khí và
chủ quyền, như một cuộc “khủng hoảng kép”.
Khi dàn lãnh đạo PVN bị bắt gần hết, thì các đối tác lớn về dầu khí như
Repsol (Tây Ban Nha), Exxonmobil (Mỹ), và OVL (Ấn Độ) chắc cũng hoang
mang chững lại. Vào cuối năm 2017, đại diện Exxonmobil đã tuyên bố hoãn
triển khai dự án “Cá Voi Xanh” đến 2019. Nhưng đến nay dự án này vẫn
chưa triển khai, với tin đồn Exxonmobil có thể bỏ cuộc. Đó là nghịch lý
chống tham nhũng cũng như cái giá phải trả về lợi ích quốc gia và chủ
quyền tại Biển Đông, trong khi chỉ có Trung Quốc là “ngư ông đắc lợi”.
Kết quả là Trung Quốc đang kiểm soát Biển Đông như cái ao của họ, và gây
sức ép để buộc ta phải “cùng khai thác dầu khí”.
Kinh tế ngầm và xã hội đen
Trong khi đó, quan tâm hàng đầu của dư luận hiện nay là thực trạng xã
hội đen trong nền kinh tế. Phát biểu tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam (5/1/2018) Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đề nghị Mặt
trận góp phần loại bỏ băng nhóm xã hội đen trong nền kinh tế, đe đọa
cuộc sống của người dân và doanh nghiệp. Nhiều lãnh đạo khác cũng đề cập
đến thực trạng các băng nhóm xã hội đen (hay đỏ) đã chuyển hướng sang
lấn chiếm đất công, như “Vũ Nhôm” đã từng lũng đoạn thị trường nhà đất
Đà Nẵng kiểu mafia.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do hệ thống quyền lực không
được kiểm soát. Hệ thống công quyền thay vì phục vụ lợi ích chung của
quốc gia và quốc dân, nay đang bị thao túng để phục vụ lợi ích riêng của
một số nhóm lợi ích thân hữu. Theo giáo sư Alexander Vuving, sự câu kết
giữa các doanh nghiệp thân hữu và các thế lực chính trị trong hệ thống
chính quyền là mắt xích hình thành các nhóm lợi ích để cùng trục lợi: “Tình
hình chung ở Việt Nam là ông đại gia nào cũng có ô dù, không có ô dù thì
không thể nào sống được. Còn nếu trở thành đại gia rồi mà không có ô dù
thì ô dù sẽ chạy đến xin làm ô dù cho ông ta.”
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cũng có những nhận xét tương tự về thực
trạng xã hội đen trong hệ thống lợi ích nhóm hiện nay: “Tôi
nghĩ rằng tình hình các nhóm lợi ích là vấn đề thời sự rất gay gắt hiện
nay. Các lợi ích nhóm đó không phải chỉ có ở đầu tư hay đất đai, mà bây
giờ có thể xuất hiện kể cả trong việc ảnh hưởng đến những chính sách
được quyết định ở các cấp cao nhất. Nếu muốn loại bỏ các hoạt
động của xã hội đen trong nền kinh tế thì trước hết Chính phủ phải công
khai minh bạch, cung cấp thông tin cho người dân về các dự án, chính
sách về kinh tế cũng như trách nhiệm giải trình khi quyết định cuối
cùng”.
Hiện nay, dư luận rất bức xúc trước thực trạng các nhóm lợi ích thân hữu
và các băng nhóm xã hội đen đang thao túng nền kinh tế thị trường “định
hướng XHCN” để trục lợi, làm mất uy tín của Chính phủ “kiến tạo và liêm
chính” cũng như cản trở chủ trương chống tham nhũng của Đảng. Các nhóm
lợi ích thân hữu và các băng nhóm xã hội đen liên kết với các quan chức
biến chất ở trung ương và địa phương, để đối phó với người dân tại các
dự án gây thảm họa môi trường (như Formosa và Vĩnh Tân), các khuất tất
trong quy hoạch đô thị để chiếm đất của dân (như tại Thủ Thiêm), các
trạm thu phí giao thông BOT gây tai tiếng.
Thay lời kết
Tuy chủ trương thống kê kinh tế ngầm là cần thiết, nhưng làm thế nào và
nhằm mục đích gì vẫn còn chưa rõ và đang còn tranh cãi. Đây là một vấn
đề phức tạp và hệ trọng, cần nghiêm túc học hỏi kinh nghiệm các nước
khác, cũng như lắng nghe ý kiến các chuyên gia trong nước và ngoài nước,
trước khi hoạch định và triển khai chính sách, nếu không sẽ lặp lại sai
lầm như “chiến dịch giành lại vỉa hè” (2017). Nếu thống kê nhằm kiểm
soát và bắt kinh tế ngầm phục vụ các mục tiêu trước mắt nhằm “làm đẹp
con số” có thể phản tác dụng về lâu dài.
Nhưng nếu Việt Nam để Trung Quốc thao túng và lũng đoạn kinh tế ngầm thì
cũng tai hại. Một khi Trung Quốc đã nắm được hầu hết các dự án chiến
lược của Việt Nam, cung cấp thiết bị cho hệ thống mạng 5G (qua Huawei),
nắm được hệ thống lưu thông hàng hóa (logistics), và hệ thống thanh toán
online (qua Alipay, Tencent), họ sẽ tìm cách thao túng nốt kinh tế ngầm.
Lúc đó, Trung Quốc có thể “chiếu tướng” (check mate) làm Việt Nam “hết
cờ”, mà không cần dùng vũ lực. Vì vậy, phải nhìn nhận kinh tế ngầm ở
Việt Nam trong bức tranh lớn về kinh tế, chính trị, và an ninh quốc gia,
trong bối cảnh đại dịch Covid-19, và đổi mới thể chế.
NQD. Updated
22/8/2020
|