Câu chuyện đầu năm:
Nhìn lại bàn cờ Mỹ-Việt
Nguyễn Quang Dy
Quốc gia không có bạn hay thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn (“Nations have no permanent friends or foes, they only have permanent interests”)
Lord
Palmerston).
Ngày 19/1/2018, tại Đại học John Hopkins, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim
Mattis đã công bố phiên bản rút ngắn của Chiến lược Quốc phòng –
National Defense Strategy (NDS), chỉ vài ngày trước khi đi thăm Đông Nam
Á. Chiến lược Quốc phòng (NDS) và Chiến lược An ninh Quốc gia (NSS) là
hai văn kiện quan trọng nhất để ấn định chính sách của chính quyền Trump
sau một năm cầm quyền. Như tình cờ, ông Mattis đến thăm Việt Nam
(24-25/1/2018), chỉ vài ngày trước lễ kỷ niệm 50 năm “Tết Mậu Thân”. Tại
Hà Nội, ông Mattis đã gặp các lãnh đạo cao nhất của Việt Nam (một quốc
gia cựu thù, nay thành đối tác chiến lược). Sau khi thông báo tàu sân
bay USS Carl Vinson sẽ đến thăm Đà Nẵng (tháng 3/2018) bộ trưởng quốc
phòng Mattis đã đến thăm chùa Trấn Quốc như một cử chỉ có ý nghĩa tượng
trưng.
Trong không khí tràn đầy phấn khích (như lên đồng) sau mấy trận thắng
ngoạn mục của đội tuyển bóng đá U23 Việt Nam (trừ trận chung kết bị thua
sát nút hơi đáng tiếc), chúng ta hãy bình tĩnh thử giải mã một chuỗi sự
kiện diễn ra đầu năm 2018 trong quan hệ Mỹ-Việt (Từ NDS đến USS Carl
Vinson đến chùa Trấn Quốc) xem có gì đặc biệt.
Chiến lược Quốc
phòng mới
Trước hết, NDS 2018 đã thay thế cho “Quadrennial Defense Review” (cứ bốn
năm một lần chính quyền Mỹ xem xét lại chính sách quốc phòng). Định
hướng mới của NDS là “cạnh tranh, răn đe, và chiến thắng” (compete,
deter, and win). Với ngôn ngữ sắc gọn và thẳng thừng (pithy and blunt),
NDS đặt trọng tâm phải ưu tiên chuẩn bị cho khả năng xảy ra xung đột
trước mắt, tăng cường hoạch định chiến lược và hợp đồng tác chiến với
đồng minh và đối tác. NDS chuyển hướng bố trí lực lượng để tập trung
đánh thắng “một cường quốc lớn”, phù hợp với trọng tâm chiến lược cạnh
tranh (với Trung Quốc và Nga). NDS dựa trên mô hình tác chiến toàn cầu
để có thể “tiêu diệt, cơ động, và dẻo dai” (lethal, agile, and
resilient).
NDS 2018 xác định 5 thách thức lớn nhất đối với lợi ích an ninh quốc gia
của Mỹ là (1) Trung Quốc, (2) Nga, (3) Bắc Triều tiên, (4) Iran, (5)
khủng bố, nhưng Mỹ sẽ tập trung vào Châu Á-Thái Bình Dương và Châu Âu là
hai khu vực được ưu tiên cao nhất, trong khi khoanh lại những bất ổn tại
Trung Đông. Trong khi Mỹ dự kiến sẽ cạnh tranh quyết liệt với Trung Quốc
và Nga, tại Biển Đông và Biển Hoa Đông cũng như Châu Âu, có lẽ Trung
Quốc mới là đối thủ số một (first among equals) mà Mỹ phải đối phó trong
bàn cờ chiến lược mới, nhằm bảo vệ nước Mỹ (homeland) và để cạnh tranh
tại các “vùng xám” (gray zones).
NDS 2018 xác định “cạnh tranh nước lớn”
với
Trung Quốc và Nga là hai mối đe dọa lớn nhất đối với an ninh quốc gia
(chứ không phải khủng bố). Đây là lần đầu tiên (kể từ 9/11) Trung Quốc
và Nga đã thay thế chủ nghĩa khủng bố như là mối đe dọa lớn nhất. Theo ông
Mattis, trọng tâm chiến lược của Mỹ là phải giành lại lợi thế cạnh tranh
với Trung Quốc và Nga. NDS 2018 là một bước điều chỉnh căn bản (tuy vẫn
là “rượu cũ bình mới”).
Ngày nay, “những người săn rồng” (dragon slayers) đang mài sắc vũ khí
chống Tàu, trong khi “những người yêu gấu trúc” (panda-huggers) dường
như đang bị gạt ra rìa hoặc phải lánh mặt (sidelined or gone hiding).
Alibaba của Jack Ma từ lâu muốn mua công ty MoneyGram nhưng bị Mỹ vận
dụng luật Đầu tư Nước ngoài ngăn chặn với lý do an ninh quốc gia. Một số
doanh nghiệp Trung Quốc khác như ZTE và Hoa Vy (Huawei) cũng bị Mỹ phạt
hoặc ngăn cấm.
NDS 2018 phải giải
quyết hai vấn đề nổi cộm hiên nay là “tư tưởng tác chiến” (operational
concepts) và “đào tạo quân sự chuyên nghiệp” (professional
military education).
Ông
Mattis đã phải dùng đến những lời lẽ nặng nề để chỉ trích tình trạng đào
tạo hiện nay là “trì trệ, chỉ chú trọng đến việc đạt điểm bắt buộc, làm
phương hại năng lực chiến đấu và sáng tạo” (stagnated,
focused more on the accomplishment of mandatory credit at the expense of
lethality and ingenuity). Vì vậy, “lợi thế so sánh của chúng ta đã bị
xói mòn trong mọi lĩnh vực chiến tranh” (our
competitive advantage has eroded in every domain of warfare).
Muốn
thực sự thay đổi tình trạng thiếu sẵn sàng chiến đấu hiện nay, Mỹ phải
tăng ngân sách quốc phòng (sẽ công bố trong vài tuần tới). Ngân sách
quốc phòng (dự kiến hơn $600 tỷ) phải ưu tiên cho việc “xem xét lại bố
cục hạt nhân và hệ thống chống tên lửa đạn đạo (Nuclear Posture Review
and Ballistic Missile Defense Review). Nếu không duy trì đầu tư theo yêu
cầu để khôi phục khả năng sẵn sàng chiến đấu và hiện đại hóa quân đội
nhằm đáp ứng tình hình mới, Mỹ sẽ mau chóng mất ưu thế quân sự và năng
lực hợp đồng tác chiến.
Ông Mattis cũng
cảnh báo là chính phủ Mỹ có thể phải đóng cửa vì “hết ngân sách”, và nếu
điều đó xảy ra thì sẽ ảnh hưởng đến hoạt động quân sự gồm huấn luyện,
bảo dưỡng, và tình báo.
NDS 2018 rõ ràng mang đậm dấu ấn của ông
Mattis, chắc được sự ủng hộ của ông McMaster (Cố vấn An ninh Quốc gia)
và ông John Kelly (Chánh văn phòng Nhà Trắng) là ba ông tướng trong
“trục người lớn”, cùng ông Rex Tillerson (Ngoại trưởng) tuy vai trò Bộ
Ngoại Giao bị suy yếu. Nếu ông Rex Tillerson mất chức và được thay bằng
ông Mike Pompeo (Giám đốc CIA) như đồn đoán thì đây vẫn là nhóm trụ cột
có quan điểm cứng rắn với Trung Quốc, đang có ưu thế sau một năm chính
quyền chập chững không có chiến lược rõ ràng. Ông Mattis và Lầu Năm góc
có lập trường cứng rắn tại Biển Đông, đã thông báo tàu sân bay USS Carl
Vínon sẽ thăm Việt Nam (3/2018), và cử tuần dương hạm USS Hopper tuần
tra gần
Scarborough Shoal (17/1/2018) trước khi ông đi Việt Nam. (“In
the Trump Era Vietnam Is Less Sure of Its Bet on U.S. Ties”, Joshua
Kurlantzick, World Politics Review, Jan 29, 2018).
Hợp tác chiến lược
Mỹ-Việt
Jim Mattis và Trần Đại Quang
Trong chuyến thăm
Việt Nam, ông Mattis đã nhấn mạnh hai nước là “đối tác có suy nghĩ giống
nhau” (like-minded partners) cùng chia sẻ các giá trị như tôn trọng
luật lệ quốc tế và quyền tự do hàng hải tại Biển Đông. Đây là sự “phối
hợp, cộng tác, và tham vấn bình thường” (normal
coordination, collaboration, consultation)
trong quan hệ hai nước, bỏ lại những vấn đề quá khứ
sau lưng để bắt đầu một thời kỳ mới. Người phát ngôn bộ Quốc
phòng Mỹ thông báo hai bên đã nhất trí để tàu sân bay
USS Carl Vinson đến
thăm Đà Nẵng vào tháng 3/2018. Ông Mattis cũng khẳng định “Mỹ không đánh
đổi Biển Đông lấy Triều Tiên”, và nhấn mạnh trong NDS 2018 Mỹ cam kết
cộng tác với các đối tác trong khu vực như Việt Nam để duy trì trật tự
dựa trên pháp luật và hướng tới một “khu vực Indo-Pacific tự do và rộng
mở”.
Trong Chiến lược Quốc phòng (NDS) công bố 1/2018, và Chiến lược An ninh
Quốc gia (NSS) công bố 12/2017, Chính quyền Trump tập trung vào cạnh
tranh nước lớn với với Trung Quốc trong mối tương quan với chống khủng
bố và tăng cường liên kết với đồng minh và đối tác ở Châu Á-Thái Bình
Dương. NDS xác định quan hệ đối tác của Mỹ với Indonesia và Việt Nam là
“cơ chế liên kết an ninh” (networked security architecture) để thúc đẩy
“khu vực Indo-Pacific tự do và rộng mở” (a free and open Indo-Pacific).
Tuy vậy, cho đến nay Indonesia và Việt Nam vẫn muốn “quan hệ gần gũi
nhưng không quá gần với Washington” như một phần trong chính sách đối
ngoại đa phương của họ (Diplomat, January 23, 2018).
Gần đây, quan hệ hợp tác quốc phòng
Mỹ-Việt đã có nhiều tiến bộ, nhất là sau các chuyến thăm Mỹ của lãnh đạo
Việt Nam như Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang (7/2013), Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng (7/2015), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (5/2017). Hai bên đã thảo
luận về hợp tác chiến lược, bao gồm việc Mỹ sẽ cho tàu sân bay đến thăm
Việt Nam. Tháng 8/2018, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch đã gặp bộ
trưởng Bộ Quốc phòng Jim Mattis tại Wasington để trao đổi cụ thể hơn về
vấn đề này. Hai nước tiếp tục
thúc đẩy hợp tác chiến lược theo nội dung “Bản Ghi nhớ” (MOU, ký năm
2011), “Tuyên bố Tầm nhìn Chung về Quan hệ Quốc phòng” (JVS, ký năm
2015), “Kế hoạch hành động 3 năm giai đoạn 2018-2020” và các thoả thuận
của lãnh đạo cấp cao hai nước.
Theo giáo sư Alexander Vuving, “Việt Nam nắm chìa khóa cân bằng lực
lượng ở khu vực” (Vietnam
holds a key to the regional balance of power). (“The
Evolution of US- Vietnam Ties”, Eleanor Albert, CFR, November 9, 2017).
Theo ông
Nguyễn Mạnh Hùng (George Mason University), các
nước khu vực hiểu rằng Tổng thống Trump có thể ve vãn Trung Quốc (vì
Triều Tiên), nhưng ông Mattis có lập trường cứng rắn với Trung Quốc.
Chiến lược Quốc phòng mà ông Mattis vừa công bố nhấn mạnh Trung Quốc là
đối thủ cạnh tranh chiến lược số một. Tại một hội nghị quốc phòng tại Ấn
Độ giữa Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ với Chủ tịch Hội đồng Tham mưu
Liên quân của Nhật và Ấn Độ, Đô đốc Harry Harris cũng cảnh báo “Trung
Quốc là một lực lượng phá hoại… trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương…”
và kêu gọi các nước trong khu vực phải tăng cường khả năng phòng thủ và
hợp tác với nhau để bảo vệ quyền lưu thông hàng hải.
Từ lâu, Việt Nam đã muốn có một đối tác chiến lược để “cân bằng mềm”
(soft balancing) với các nước lớn trong khu vực. Việt Nam muốn thăm dò
xem mức độ cam kết của Mỹ thế nào và khả thi đến đâu. Trong khi
đó, ông Mattis nói rõ mục đích của Mỹ là tìm cách tăng cường hợp tác
quốc phòng với đồng minh và đối tác. Vì vậy trên đường đến Đông Nam Á,
ông Mattis đã nói với báo chí rằng ông đến Việt Nam để lắng nghe nhiều
hơn là nói. Ông muốn biết thái độ của Việt Nam đối với nhu cầu hợp tác
quốc phòng với Mỹ. Ông có thể bàn về vấn đề mua bán vũ khí và tàu sân
bay của Mỹ sẽ đến thăm Việt Nam trong năm nay. Đây cũng là cơ hội để
Việt Nam xác định chiến lược quốc phòng với Mỹ và vai trò của Mỹ trong
chiến lược đó, và qua đó nói rõ nhu cầu của Việt Nam hiện nay là gì.
(VOA, 25/01/2018).
Theo Diplomat (23/1/ 2018), Jim Mattis là bộ trưởng quốc phòng thứ ba
của Mỹ đến thăm Việt Nam, tiếp theo các vị tiền nhiệm đã đến thăm Việt
Nam là ông Leon Panetta (6/2012), ông Ash Carter (6/2015), và Đại tướng
Martin Dempsey, Chủ tịch Tham mưu trưởng Liên quân (8/2014). Từ năm
2016, TNS John McCain (chủ tịch Ủy Ban Quân vụ Thượng Viện) đã thúc đẩy
kế hoạch tăng cường hợp tác hải quân, bao gồm tập trận và tăng cường
năng lực tuần tra biển cho Việt Nam. Theo kế hoạch này, các tàu chiến Mỹ
đã đến Đà Nẵng và tập trận trên biển, rồi thăm cảng Cam Ranh. Cho tới
nay, các hoạt động tập trận và tăng cường năng lực tuần tra biển cho
Việt Nam mới chỉ là bước đầu. Năm 2017, Mỹ đã bàn giao cho Lực lượng
Cảnh sát Biển Việt Nam chiếc tàu tuần tra lớn nhất (Hamilton-class Coast
Guard cutter).
Tuyên bố của Trump tại APEC Đà Nẵng
(10/11/2017) về tầm nhìn “Indo-Pacific Tự do và rộng mở” tuy làm dư luận
chú ý, nhưng chưa làm rõ nội dung địa chiến lược. Chiến lược An ninh
Quốc gia của Mỹ (NSS, công bố 12/2017) cũng chỉ nhắc qua đến Việt Nam
trong danh sách “các đối tác an ninh và kinh tế đang nổi lên” (growing
security and economic partners) bên cạnh các nước khác như Indonesia,
Malaysia, và Singapore. Chiến lược Quốc phòng (NDS, công bố 1/2018) đã
bổ xung cho tầm nhìn “Indo-Pacific”. Trong khi đó, điểm cốt lõi trong
Chiến lược Quốc phòng của Việt Nam là mở rộng và phát triển quan hệ quốc
phòng ở Đông Nam Á, cũng như với các đối tác cùng suy nghĩ như Mỹ, Úc,
Ấn và Nhật, để đối phó với tham vọng của Trung Quốc tại Biển Đông.
(“Can Vietnam’s Military Stand
Up to China in the South China Sea?”
Derek Grossman, Rand
Asia Policy vol. 13, no. 1, January 2018).
Theo khuyến nghị trong báo cáo này của Rand
Corporation, “các nhà hoạch định chính sách và tư lệnh quân đội Mỹ cần
tận dụng diễn biến tích cực hiện nay, nhắm vào các lĩnh vực cụ thể để
hợp tác quốc phòng song phương sâu sắc hơn. Rand cho rằng Quân đội Việt
Nam vì nhiều lý do “có thể chưa sẵn sàng cho một xung đột trên biển kéo
dài với Trung Quốc tại Biển Đông” (likely unprepared for a sustained
maritime standoff with China in the South China Sea), vì thiếu hụt về
“tư tưởng tác chiến và đào tạo trong các lĩnh vực không quân và và hải
quân, và khiếm khuyết về năng lực hàng hải và hợp đồng tác chiến với các
loại vũ khí” (operational concepts and training in the air and sea
domains to shortcomings in MDA capabilities and the interoperability of
its weapon systems). Nhưng dù Mỹ có muốn giúp Việt Nam về các mặt đó thì
sự hợp tác vẫn còn rất khó khăn vì lâu nay Việt Nam vẫn nghi ngờ ý đồ
của Mỹ và ngần ngại không muốn tỏ ra khiêu khích Trung Quốc. (“Can
Vietnam’s Military Stand Up to China in the South China Sea?”
Derek Grossman, Rand
Asia Policy vol. 13, no. 1, January 2018).
Trung
Quốc không phản đối USS Carl Vinson trên biển
Ngày 19/10/2017, Bộ Hải Quân Mỹ cho biết Tướng Nguyễn Chí Vịnh (thứ
trưởng Bộ Quốc Phòng) cùng 11 sỹ quan Việt Nam đã đến tham quan tàu sân
bay USS Carl Vinson (ngoài khơi California). Tàu này là soái hạm của
Carrier Strike Group 1, lớp Nimitz, có hơn 60 máy bay chiến đấu và gần
3,000 thủy thủ. Tháng 2/2017, Carl Vinson Strike Group bắt đầu hoạt động
tại Biển Đông và tháng 4/2017 được điều đến bán đảo Triều Tiên, tập trận
với hải quân Nam Hàn tại Tây Thái Bình Dương và với hải quân Úc tại Ấn
Độ Dương. Tháng 1/2018, Carl Vinson lại rời căn cứ San Diego (Mỹ) để
triển khai tiếp tại Tây Thái Bình Dương.
Theo chuyên gia hải quân Mỹ James Holmes, tác
giả của Red Star Over the Pacific: China’s Rise and the Challenge to
US Maritime Strategy, “nếu chúng ta coi việc tuần tra của
USS Hopper qua
Scarborough Shoal là “đi qua vô hại” (innocent passage) thì chúng ta
thừa nhận chính điều mà tự do hàng hải lên án: Trung Quốc có chủ quyền
hợp pháp đối với Scarborough”. Mấy thế hệ người Mỹ đã được đào tạo để
không dám “khiêu khích” và “làm mất lòng” người Trung Quốc khi thách
thức sự bành trướng của họ. Điều này vẫn còn, bất chấp hai văn kiện
chính sách mới của Mỹ là NSS và NDS vừa công bố nhằm thách thức chủ
nghĩa bành trướng trắng trợn của Bắc Kinh. (National
Interest, January 24, 2018).
Theo Reuters (26/1/2018), người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Quốc nói
họ không phản đối chuyến thăm Việt Nam của một tàu sân bay Mỹ (dự kiến
đến Đà Nẵng tháng 3/2018): “Chừng nào hoạt động trao đổi quân sự này
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có lợi cho hòa bình và ổn định khu vực, thì tất
nhiên là chúng tôi không phản đối”. Tuy Bắc Kinh “không phản đối” nhưng
chắc họ “không ủng hộ” và “không hài lòng”, vì họ thường “nói vậy mà
không phải vậy”. Theo Carl Thayer, Trung Quốc có thể lập luận rằng Mỹ là
“kẻ ngoại cuộc” ở Biển Đông, nên khi Mỹ cho tàu chiến tuần tra (FONOP)
họ có thể đẩy Trung Quốc vào tình thế phải có “hành động tự vệ” như tiếp
tục quân sự hóa 7 hòn đảo mà họ đã chiếm đoạt.
Năm 2010, một tàu sân bay của Hạm đội 7 đã thả neo ngoài khơi Đà Nẵng,
để đón một đoàn quan chức Việt Nam đến thăm. Nhưng theo
Carl Thayer, thứ nhất, USS Carl Vinson đến Đà Nẵng là một sự kiện đặc
biệt vì lần đầu tiên có một tàu sân bay Mỹ cặp cảng Việt Nam. Thứ hai,
Đà Nẵng có vị trí đặc biệt đối với Biển Đông, nên sự kiện này xác nhận
Việt Nam ủng hộ sự hiện diện của Hải Quân Mỹ tại đây để đối trọng với
Trung Quốc. Thứ ba, sự kiện này chứng tỏ Hà Nội muốn mở rộng quan hệ
quân sự với Washington. Trung Quốc “không phản đối” là vì họ không làm
gì được, như là “một chuyện đã rồi” (fait accompli).
Việc “Trung Quốc không phản đối” USS Carl Vinson đến thăm Việt Nam có
thể được lý giải theo nhiều cách khác nhau. Trung Quốc có thể lấy cớ để
xây dựng thêm các hạng mục quân sự trên các đảo họ chiếm đoạt ở Biển
Đông. Họ không phản đối có thể ám chỉ rằng tàu Mỹ hiện diện (để làm ổn
định tình hình) thì được, nhưng tuần tra (FONOP) thì không được. Theo
Thayer, Bắc Kinh không phản đối vì không muốn làm thay đổi quan hệ quân
sự với Washington. “Trung Quốc và Mỹ đã có các hoạt động quân sự chung,
và họ đã từng cho tàu sân bay Mỹ đến thăm Hong Kong”. Việc phản đối có
thể làm gián đoạn quan hệ quân sự của Trung Quốc với Mỹ, trong đó có
việc tàu chiến Trung Quốc đến thăm Mỹ (Hawaii).
Tại sao chọn Đà nẵng
Trong chuyến thăm Việt Nam, ông Mattis đã khen kinh tế Việt Nam có tốc
độ tăng trưởng vào loại nhanh nhất khu vực, nên tự do hàng hải và việc
tiếp cận Biển Đông là thiết yếu cho kinh tế và an ninh quốc gia. Việt
Nam có vị trí tiếp giáp với Biển Đông nên là nước chủ chốt trong khu vực
đang tranh chấp với Trung Quốc về lãnh thổ và hải đảo. Ông Mattis cũng
cảm ơn lãnh đạo Viêt Nam đã ủng hộ Mỹ về vấn đề Bắc Triều Tiên. Trong
buổi công bố NDS 2018, ông Mattis nói Trung Quốc là đối thủ canh tranh
chiến lược, dùng “kinh tế kẻ cướp” (predatory economics) để bắt nạt các
nước láng giềng, và quân sự hóa Biển Đông.
Theo một số chuyên gia, đối sách của Việt Nam hiện nay về cơ bản vẫn là
dựa vào Mỹ để đối trọng với Trung Quốc như một giải pháp tình thế. Tuy
Việt Nam không ưa Mỹ và sợ Mỹ nhưng vẫn cần Mỹ. Đây là một nghịch lý
phản ánh tình thế “lưỡng nan” (catch-22) trong chính sách đối ngoại của
Việt Nam, hầu như chưa thay đổi mấy từ giữa năm 2014 đến nay, đặc biệt
là trong một năm qua. Gần đây,
khi Trung Quốc trắng trợn gây sức ép, dọa tấn công Trường Sa (tháng
7/2017) nếu Việt Nam không buộc hãng Repsol (Tây Ban Nha) dừng khoan dầu
tại lô 136-03 (bãi Tư Chính), Việt Nam đã phải nuốt hận nhân nhượng
Trung Quốc, mặc dù ngân sách thâm hụt đang rất cần tăng nguồn thu từ dầu
khí. Kể từ khủng hoảng dàn khoan HD 981 (5/2014) đến khủng hoảng Bãi Tư
Chính (7/2017) Việt Nam ngày càng cô đơn.
Việt Nam không biết chắc lập trường của Chính quyền Trump đối với Đông
Nam Á về lâu dài như thế nào (với tình trạng “trống đánh xuôi kèn thỏi
ngược”) nên phải tăng cường quan hệ đa phương với các nước như Nhật, Ấn
Độ, Úc, Singapore, Nam Hàn. Việt Nam ủng hộ vai trò đứng đầu khu vực của
Nhật và tranh thủ chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ, nhằm tăng cường an
ninh của mình, và đối phó với tham vọng của Trung Quốc. Trong khi NDS
2018 nhấn mạnh vai trò quan trọng của Indonesia và Việt Nam là hai đối
tác chính trong “Cơ chế Liên kết An ninh” (networked security
architecture), chuyến thăm của ông Mattis nhằm khẳng định cam kết của Mỹ
vì tự do hàng hải tại Biển Đông, và tăng cường hợp tác chiến lược với
các quôc gia đó. Mỹ muốn thúc đẩy hợp đồng bán 48 máy bay chiến đấu cho
Indonesia (trị giá $4,5 tỷ) và tàu sân bay USS Carl Vinson đến thăm Việt
Nam. (Secretary
of Defense Mattis’s Trip to Southeast Asia: A Few Thoughts,
Joshua Kurlantzick, CFR,
January 26, 2018).
Tuy chính sách cân bằng (hay “đu dây”) không còn hiệu lực, buộc Việt Nam
phải xích lại gần Mỹ hơn, nhưng chính quyền Trump đã bỏ rơi TPP và ve
vãn Trung Quốc vì vấn đề Triều Tiên, làm Việt Nam (và ASEAN) lo ngại
Donald Trump có thể bỏ rơi Biển Đông. Dù Barack Obama đã bỏ cấm vận vũ
khí, mở rộng cửa cho hợp tác chiến lược, nhưng Việt Nam vẫn sợ Trung
Quốc trả đũa nếu xích lại quá gần Mỹ, và nếu để Mỹ sử dụng lá bài chiến
lược Cam Ranh để đối trọng với Trung Quốc. Tuy đó có thể là một lý do
hai bên chọn Đà Nẵng để tàu sân bay Mỹ cập bến, nhưng cũng còn có những
lý do khác để lý giải quyết định này.
Một số chuyên gia lập luận rằng họ chọn Đà Nẵng vì gần mỏ khí Cá Voi
Xanh (cách đất liền có 100 km). ExxonMobil đã ký hợp đồng trị giá $10 tỷ
với PetroVietnam (13/1/2017). Đây là dự án dầu khí lớn nhất Việt Nam, có
thể đóng góp cho ngân sách tới $20 tỷ, trong khi Việt Nam đang rất bí
ngoại tệ để trả nợ đến hạn ($10-12 tỷ/năm). Dự kiến hai bên sẽ chính
thức khởi động dự án khai thác khí vào cuối năm 2017. Nhưng ngày
7/11/2017 đại điện ExxonMobil đột ngột quyết định hoãn dự án này đến năm
2019, làm dấy lên tin đồn là Trung Quốc gây sức ép để dừng dự án này,
mặc dù cựu CEO của ExxonMobil là Rex Tillerson (ngoại trưởng Mỹ). Nếu
đúng như vậy thì thì khủng hoảng bãi Tư Chính (lô 136 của Repsol) có thể
lặp lại với dự án Cá Voi Xanh (lô 118 của ExxonMobil) và với Ấn Độ (lô
128 của ONGC Videsh).
Nhưng kịch bản cũ của Trung Quốc có hiệu quả hay không còn phu thuộc vào
thái độ của Mỹ và Ấn Độ (là hai cường Quốc Hải Quân). Nói cách khác, Mỹ
và Ấn Độ không phải là Tây Ban Nha, và hai cường quốc này đang liên kết
với Nhật và Úc để hình thành “Tứ giác Kim cương” (như một “Mini NATO”)
tại khu vực “Indo-Pacific tự do và rộng mở”. Vì vậy, sự kiện tàu sân bay
USS Carl Vinson đến thăm Đà Nẵng (mặc dù chưa phải Cam Ranh) có thể là
một tín hiệu răn đe mới đối với Trung Quốc, vừa nhằm bảo vệ lợi ích cụ
thể của ExxonMobil, vừa có ý nghĩa tượng trưng để triển khai Chiến lược
Quốc phòng mới của Mỹ.
Theo Greg Poling (AMTI director, CSIS), sẽ là một sai lầm nếu dựa vào
thiện chí của Trung Quốc... vì cơ hội hoàn tất một bộ Quy tắc Ứng xử tại
Biển Đông đang tắt dần. Trong khi đó, có vẻ như chẳng bao lâu nữa máy
bay chiến đấu của Trung Quốc sẽ bắt đầu hoạt động đều đặn từ các căn cứ
không quân ở Trường Sa… Trung Quốc đang
ở tư thế sẵn sàng cho những cuộc leo thang mới ở Biển Đông. Đây sẽ là
hồi chuông cảnh tỉnh cho nhiều người…Nó cũng đặt ra cả thử thách và cơ
hội cho Chính quyền Mỹ, nhưng đến nay Washington vẫn làm quá ít để chuẩn
bị đối đầu với thử thách lẫn nắm bắt cơ hội. (“Why
a South China Sea Diplomatic Breakthrough Is Unlikely”, Gregory Poling,
Foreign Affairs, January 25, 2018).
Thăm Chùa Trấn Quốc
Jim Mattis ở chùa Trấn Quốc
Không biết ông Mattis có mê tín hay không, nhưng ngày 25/1/2018 giữa các
cuộc gặp cấp cao, đã đến thăm chùa Trấn Quốc (tại Hồ Tây, Hà Nội) như để
“cầu an”. Trao đổi với nhà sư trụ trì, ông Mattis ca ngợi không gian
thanh bình của ngôi chùa cổ gắn liền với sự ra đời của nhà nước đầu tiên
ở Việt Nam. Sự quan tâm đến lịch sử, văn hóa Việt Nam của ông Mattis cho
thấy ông muốn tạo dựng lòng tin với người Việt. Theo tiến sỹ Lê Hồng
Hiệp, chuyến viếng thăm chùa Trấn Quốc của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ “mang
tính biểu tượng để gửi đi một thông điệp về sự tôn trọng và hiểu biết về
lịch sử của ông Mattis đối với Việt Nam”. (“Tàu
sân bay Mỹ sẽ có chuyến thăm lịch sử tới Việt Nam”, VOA,
26/01/2018).
Dư luận cho rằng ông Mattis là người có lập trường cứng rắn với Trung
Quốc, nên viếng thăm chùa Trấn Quốc còn gửi đi một thông điệp sâu sắc
hơn. Theo Lê Hồng Hiệp, “Bản thân chữ
Trấn Quốc liên quan đến bảo
vệ đất nước và lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh bị đe dọa từ
phương Bắc. Tôi nghĩ chuyến thăm ngôi chùa này của ông Mattis còn gửi đi
một thông điệp là Mỹ có thể tăng cường hợp tác với Việt Nam để giúp Việt
Nam bảo vệ tốt hơn lãnh thổ quốc gia của mình, giống như ý nghĩa của tên
ngôi chùa đó.”
Chỉ ba ngày sau khi ông Mattis rời Hà Nội, một phái đoàn khác do bà Tina
Kaidanow, (phó trợ lý ngoại trưởng về quan hệ chính trị-quốc phòng) đã
đến Việt Nam để tham gia cuộc đối thoại lần thứ chín về chính trị, an
ninh và quốc phòng song phương (từ 28/1 đến 4/2/2018). Dư luận cho rằng
phái đoàn này sẽ tập trung làm việc với phía Việt Nam về các vấn đề cụ
thể, có thể gồm công tác chuẩn bị cho chuyến thăm của USS Carl Vinson,
và khả năng Việt Nam mua vũ khí của Mỹ (như máy bay tuần tra săn ngầm
P-3C Orion, và máy bay trực thăng tấn công Supra Cobra AH-1W). Tuy hai
bên đều có nhu cầu mua/bán vũ khí và thiết bị, nhưng đến nay công việc
này vẫn dậm chân tại chỗ (vì những lý do “nhạy cảm”!).
Thay lời kết
Trong không khí sôi sục (như lên đồng) sau vài thắng lợi ngoạn mục (tuy
chưa trọn vẹn) của đội tuyển U23, những sự kiện hệ trọng liên quan đến
vận mệnh quốc gia dường như bị lu mờ. Năm Đinh Dậu sắp hết và Tết Mậu
Tuất sắp đến, làm nhiều người Việt nhớ lại bi kịch Tết Mậu Thân (cách
đây một nửa thế kỷ) với những tâm trạng khác nhau. Một nửa thế kỷ đã
trôi qua, nhưng Việt Nam dường như vẫn loanh quanh tại ngã ba đường như
sa lầy hay bị nhốt trong cái hang tối của ý thức hệ. Tuy Việt Nam cần
đồng minh, nhưng muốn thoát ra khỏi hang phải tự mình, vì không ai có
thể làm thay được. Trong dòng chảy ồn ào của năng lượng bóng đá, bỗng
văng vẳng bên tai câu sấm của cụ Tản Đà “dân hai nhăm triệu ai người
lớn, nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”. Không biết câu đó có vận vào vận
nước hay không, nhưng nhiều người Việt vẫn hồn nhiên và bình chân như
vại. Đúng là “Hà Nội không vội được đâu!”
NQD. 30/01/2018
|