Việt Nam ở đâu
trong chiến tranh thương mại Mỹ-Trung
Nguyễn Quang Dy
“Trâu
bò Đánh nhau ruồi muỗi chết”
(ngạn ngữ)
Trong dân gian, câu ngạn ngữ này có ý cảnh báo kẻ yếu dễ bị vạ lây khi
quá gần kẻ mạnh đang đánh nhau (hoặc làm tình). Trên thế gian này, Mỹ và
Trung Quốc không phải là trâu bò bình thường, mà là hai siêu cường kinh
tế lớn nhất nhì thế giới, đang lao vào một cuộc chiến tranh thương mại,
với hệ quả khó lường, cả về kinh tế và chiến lược, đang làm đảo điên
thiên hạ. Trong khi đó, Mỹ và Nga là hai siêu cường quân sự đứng đầu thế
giới, đang bắt tay nhau, có thể làm đảo lộn bàn cờ chiến lược toàn cầu.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam có muốn tranh thủ cơ hội này để “tái cân
bằng quan hệ nước lớn”, nhằm thoát khỏi thế tiến thoái lưỡng nan, hay
càng bị mắc kẹt vào trò chơi quyền lực giữa các siêu cường. Điều đáng lo
ngại là dường như Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng đối phó với các tình huống
diễn biến khó lường.
Chiến tranh thương
mại bắt đầu
Các nhà nghiên cứu có thể lấy ngày 6/7/2018
làm mốc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung “chính thức” bắt đầu. Đó là ngày
chính quyền Trump tuyên bố áp thuế nhập khẩu
25% cho hàng hóa Trung Quốc (trị giá
34 tỷ USD). Nói cách khác đó là “phát súng khởi đầu”.
Tuy người ta nói chiến tranh thương mại là
“cuộc chiến không có tiếng súng”, nhưng nó đang xô đẩy hai siêu cường
này vào “cái bẫy Thucydides” (theo giáo sư Graham Allison).
Chiến tranh thương mại là một phần của chiến lược an ninh/quốc phòng của
Mỹ (NSS/NDS). Cần xem xét nó trong bối cảnh chiến lược lớn hơn: Mỹ coi
Trung Quốc là “mối đe dọa số một”, và khu vực “Indo-Pacific tự do và
rộng mở” là địa bàn chiến lược để Mỹ đối phó với Trung Quốc. Đó là một
mặt trận (chiến thuật) để Mỹ nhắm vào Trung Quốc (là mục tiêu chiến
lược). Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung là con đường tắt (trực tiếp) để
Mỹ đối phó với Trung Quốc (có tác động tức thì), trong khi TPP là con
đường vòng (gián tiếp) mà Trump đã từ bỏ, nhưng có nhiều khả năng sẽ
quay lại (vì ý nghĩa lâu dài). Tuy lợi ích kinh tế của các nước đồng
minh cũng bị đe dọa, nhưng chiến tranh thương mại Mỹ-Trung khác với
tranh chấp thương mại Mỹ-Châu Âu hay Mỹ-Nhật. Đó là bối cảnh mà Trump
triển khai chiến tranh thương mại với Trung Quốc, trong khi ông bắt tay
với Putin (tuy nội bộ Mỹ còn nhiều tranh cãi).
Trump không phải là
chính khách, nhưng ông là tổng thống Mỹ đầu tiên (từ thời Nixon) dám đối
đầu với Trung Quốc. Việc leo thang chiến tranh thương mại, từ đe dọa đến
làm thật (from threat to reality)
sẽ làm đảo lộn chuỗi cung ứng toàn cầu (ripple
through global supply chains), tăng chi phí kinh doanh, hàng hóa
tiêu dùng, và làm biến động thị trường chứng khoán (raise
costs for businesses and consumers and roil global stock markets).
Theo giáo sư kinh tế Trần Hữu Dũng (Wright State University), cuộc chiến
tranh thương mại lần này dường như đi ngược lại các lý thuyết kinh tế.
Trump hành động có vẻ bốc đồng và tùy hứng.
Các quyết định hầu như không dựa
trên một kế hoạch nào được điều tra nghiên cứu rõ ràng. Vì vậy giới
nghiên cứu kinh tế rất lo lắng, vì cuộc chiến thương mại này rất khó
lường, không biết quy mô thiệt hại đối với kinh tế thế giới thế nào, có
dẫn đến thế chiến không. Ông Dũng chưa thấy một nghiên cứu nào có thể
tin được, khi ngày càng có nhiều chuyện rắc rối xảy ra, không chỉ giữa
Mỹ với Trung Quốc, mà còn giữa Mỹ với châu Âu, và châu Âu với Trung
Quốc”. (Chiến
tranh thương mại từng dẫn đến Thế chiến, BBC, 24/7/2018).
Tuy nhiên, Bắc Kinh dường như bị bất ngờ và đang đau đầu đối phó với các
biện pháp trừng phạt quyết liệt của Wasington. Người Trung Quốc cứ tưởng
Trump chỉ hù dọa, có thể đàm phán, nhưng Trump lại làm thật. Trước đây
người Mỹ từng nhầm về Trung Quốc, nay người Trung Quốc lại nhầm về
Trump, một người “vô chiêu” nên khó lường. Điểm yếu của Trump đang biến
thành điểm mạnh. Trung Quốc đang trở thành nạn nhân của chính mình.
Theo Ely
Ratner (Giám đốc Trung tâm
New
American Security) điều trần tại Ủy ban Đối ngoại Thượng viện (7/2018):
“Mỹ không nên coi thuế quan là công cụ chính sách kinh tế chủ yếu để đối
phó với Trung Quốc” (Tariffs
should not be the principal economic policy tool against China).
Ratner cho rằng thuế quan là cần thiết nhưng có giới hạn, nó khó làm
Trung Quốc thay đổi chính sách, mà phải có một chiến lược dựa trên
luật lệ để trừng phạt các công ty Trung
Quốc ăn cắp công nghệ Mỹ. Ratner đưa ra nhiều khuyến nghị, gồm: (1) Mỹ
cần gia nhập lại TPP (nay là CPTPP). Đây là điều quan trọng nhất mà Mỹ
có thể làm để tăng cường vị thế kinh tế của mình ở Châu Á, và làm suy
yếu khả năng Trung Quốc áp bức về kinh tế (economic coercion). (2) Mỹ
cần cộng tác chặt chẽ, chứ đừng xa lánh đồng minh và đối tác, để đối phó
với thách thức của Trung Quốc. (3) Mỹ cần có một Chiến lược mới về An
ninh Kinh tế Quốc gia. (Blunting
China’s Economic Coercion as Statecraft,
Ely Ratner, statement
before Senate Foreign Relations
Committee hearing on The China Challenge, July 24, 2018).
Bàn cờ
chiến lược thay đổi
Theo HSBC, Trung Quốc dự tính thương mại với các nước tham gia dự án
“BRI” (Belt and Road Initiative) sẽ vượt US$ 2.5 trillion/năm trong thập
kỷ tới. Tập Cận Bình đã tự tin tuyên bố
đến năm 2030, hàng hóa Trung Quốc sẽ tràn ngập thế giới và kinh tế Trung
Quốc sẽ vượt Mỹ (với kế hoạch đầy tham vọng “Made
in China 2025”). Nhưng cuộc chiến tranh
thương mại Mỹ-Trung mà Trump phát động đe dọa làm tiêu tan “Giấc Mộng
Trung Hoa” (China Dream) của Tập Cận Bình, và đang làm lung lay ngai
vàng của hoàng đế đỏ.
Bằng cách đánh thuế cao đối với hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ, và thắt chặt
chuyển giao công nghệ cao cho Trung Quốc, có lẽ Trump và các cố vấn chủ
chốt đã đánh trúng huyệt đạo dễ tổn thương của Trung Quốc. Theo New York
Times (6/7/2018), Bộ Thương Mại Trung Quốc lên án “Mỹ đã khởi động cuộc
chiến tranh thương mại lớn nhất trong lịch sử kinh tế từ trước tới nay”
(The US has launched the biggest
trade war in economic history so far).
Sau khi Mỹ áp thuế
25% đối với hàng hóa Trung Quốc (trị giá
34 tỷ USD), và Trung Quốc lập tức trả đũa bằng áp thuế tương tự (trị giá
34 tỷ USD) đối với hàng hóa Mỹ, Trump
đã chỉ thị cho Robert Lighthizer (đại diện thương mại) áp thuế nhập khẩu
(trị giá tới 200 tỷ USD) để trừng phạt Trung Quốc đã trả đũa “unfair”,
và ăn cắp sở hữu trí tuệ của Mỹ.
Theo Bloomberg (20/7/2018), không dừng lại đó, Trump tuyên bố sẵn sàng
đánh thuế tới 500 tỷ USD (tương đương
tổng giá trị nhập khẩu từ Trung Quốc năm ngoái là 506 tỷ USD) để trừng
phạt Bắc Kinh. Bên cạnh chiến tranh
thương mại đang leo thang là cuộc chạy đua vũ trang rất tốn kém, không
biết Trung Quốc sẽ đối phó ra sao. Ngân sách quốc phòng của Mỹ (năm
2018) là 692 tỷ USD (bằng 3,5% GDP), vượt ngân sách quốc phòng thời
Obama là 100 tỷ USD (năm 2016).
Tuy chưa biết chiến tranh thương mại Mỹ-Trung sẽ leo thang đến đâu,
nhưng chính quyền Trump tỏ ra tự tin rằng Mỹ sẽ thắng trong cuộc chiến
này
Lập luận của Trump rất đơn giản. Trong khi Mỹ xuất khẩu khoảng 200 tỷ
USD hàng hóa sang Trung Quốc, thì Trung Quốc xuất khẩu khoảng 500 tỷ USD
hàng hóa sang Mỹ, chênh lệch khoảng 300 tỷ USD (Mỹ nhập siêu). Nếu Mỹ áp
thuế lên hàng hóa Trung Quốc trong vòng 200 tỷ USD (giai đoạn 2), thì
Trung Quốc có thể trả đũa một cách tương tự. Nhưng nếu Mỹ áp thuế
500
tỷ USD (giai đoan 3) lên toàn bộ hàng hóa của Trung Quốc thì Bắc Kinh
không thể leo thang tiếp. Theo
CNBC (July 20, 2018), chiến tranh thương mại sẽ kéo theo chiến tranh
tiền tệ và có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu (như năm 2008).
Khi kinh tế rối loạn, thì nền tài chính có thể sụp đổ, kéo theo khủng
hoảng chính trị và xã hội.
Bàn cờ đồng minh
thế nào
Tuy hiện nay mới là bước dạo đầu, nhưng đã có nhiều dấu hiệu bất ổn.
Thị
trường tài chính đang biến động mạnh:
Shanghai Composite giảm 1.8%, Hong Kong's Hang Seng giảm 1.3%,
Japan's Nikkei giảm 1.2%...Để đối phó với Mỹ áp thuế nhập khẩu,
Trung Quốc buộc phải phá giá đồng Nhân Dân Tệ
(tới 8%). Chỉ cần phá giá thêm 2% nữa (là 10%, như dự báo trong vài tuần
tới) là tới mức báo động và khủng hoảng. Trong vòng một tháng, Trung
Quốc đã mất 2.000 tỷ USD (bằng một nửa dự trữ ngoại hối của Trung Quốc),
nhưng chưa dừng lại.
Theo RFI, sau khi bị “choáng váng” trước những đòn trừng phạt ngày càng
mạnh của Trump, Trung Quốc đã tăng cường ve vãn các nước châu Âu, định
lập trục
Bắc Kinh- Bruxelles (để cô lập
Mỹ). Ngày 16/07/2018, Bắc Kinh đã trải thảm đỏ đón Donald Tusk
(chủ tịch Cộng đồng Châu Âu) và Jean-Claude Juncker (chủ tịch Ủy ban
Châu Âu), trong bối cảnh Trump vừa tuyên bố áp thuế lên hàng hóa Trung
Quốc nhập khẩu trị giá tới 200 tỷ USD. (Choáng
váng vì Trump, Trung Quốc cố ve vãn châu Âu nhưng bất thành,
RFI, 20/7/2018).
Nhưng Phòng Thương Mại Cộng đồng châu Âu
tại Trung Quốc (EUCCC) cho là đã quá muộn (too
little too late). Châu Âu bất bình vì
Trung Quốc “nói một đằng làm một
nẻo”. Hầu hết các các
doanh nghiệp châu Âu kinh doanh tại Trung Quốc bị phân biệt đối xử. Tuy
Trung Quốc xuất khẩu sang châu Âu gần 375 tỷ Euro (2017) và mua rất
nhiều doanh nghiệp của họ, nhưng Trung Quốc vẫn đóng cửa thị trường đầu
tư nước ngoài. Trong khi châu Âu coi toàn cầu hóa, tự do thương mại và
chủ nghĩa đa phương là nguyên tắc, thì Trung Quốc
chỉ coi đó là công cụ để thống
trị thế giới. Châu Âu đã áp thuế chống phá giá lên 65 sản phẩm
của Trung Quốc, trong đó có thép và nhôm (được Trung Quốc xuất vòng qua
các nước khác).
Tuy chính phủ các nước châu Âu bất bình với cách ứng xử của Trump, nhưng
chắc họ sẽ không liên minh với Trung Quốc (để cô lập Mỹ). Trước cách ứng
xử trịch thượng của Trung Quốc, các nước châu Âu về lâu dài vẫn muốn
liên minh với Mỹ. Tuy Bruxelles bên ngoài lên án chủ nghĩa đơn phương
của Trump, nhưng bên trong vẫn ủng hộ những biện pháp trừng phạt của Mỹ
đối với Trung Quốc đang vi phạm luật chơi quốc tế. Cả Bruxelles và
Washington đều phản đối Trung Quốc trợ giá cho các tập đoàn để chiếm thị
trường các nước.
Philippe Le Corre (Havard KSG professor) nói rằng “Châu Âu không nên
ngây thơ trước Trung Quốc”. Trung Quốc tăng ngân sách 20% cho tuyên
truyền đối ngoại (charm offensive) để phát huy “quyền lực mềm” (soft
power) cũng như “quyền lực cứng” (kinh tế và quân sự). Rõ ràng đây không
chỉ là vấn đề kinh tế mà nằm trong chiến lược toàn cầu của Bắc Kinh.
Theo Le Core, những
tuyên bố bất cẩn của Trump tuy gây hoang mang cho đồng minh, nhưng châu
Âu nên đặt lợi ích chiến lược về lâu dài lên trên tính cách cá nhân của
Trump.
Nội bộ Trung Quốc ra sao
Về chính trị, gần đây có những dấu hiệu bất ổn trong nội bộ lãnh đạo
Trung Quốc. Nhân dân Nhật báo (20/7/2018) mới đăng một bài “báo lạ” có
tựa đề: “Diễn đàn Nhân dân Nhật báo: Vui mừng khi nghe những lời chỉ
trích là thể hiện đẳng cấp văn hóa”. Bài báo này trích dẫn Mao Trạch
Đông và nhấn mạnh “mỗi Đảng viên phải tự rèn luyện để có thể dám tiếp
nhận lời phê bình”. Thời điểm xuất hiện bài báo trùng hợp với những tin
đồn về chính biến tại Bắc Kinh và biến động nhân sự cấp cao. Có tin đồn
các “nguyên lão” có thể truy cứu trách nhiệm của Tập Cận Bình tại cuộc
họp tại Bắc Đới Hà (8/2018), liên quan đến vấn đề lãnh đạo tập thể, sửa
đổi Hiến pháp, chiến tranh thương mại và bất ổn tài chính. Trong thời
gian diễn ra hội nghị, lực lượng bảo vệ tại Bắc Kinh có thể được thay
thế, và thiết quân luật.
Nhưng đây không phải lần đầu có tin chính biến. Theo truyền thông Mỹ,
Tập Cận Bình đã trải qua ít nhất 10 vụ ám sát hụt. Chính Tập đã nói với
Thường vụ Bộ Chính trị (5/2016); “Nếu tôi bất ngờ bị hãm hại, bầu trời
sẽ không vì thế mà sụp xuống, con đường tổ quốc tiến lên sẽ không dừng
lại”. Lần này tuy chưa rõ thực hư, nhưng có thể các thế lực chống đối
Tập Cận Bình nhân cơ hội này đang tìm cách trỗi dậy, nên diễn biến còn
nhiều phức tạp.
Có lẽ vì vậy ngày 16/7/2018, Lật Chiến Thư (Li Zhanshu) chủ tịch Quốc
Hội (NPC) đã tổ chức họp lãnh đạo để kêu gọi phải đảm bảo quyền lực “hạt
nhân” Tập Cận Bình theo “định tại nhất tôn” (như vua). Ngày 18/7 Bộ
trưởng Công an Triệu Khắc Chí (Zhao Kezhi) tổ chức họp lãnh đạo Bộ Công
an để nhắc lại quan điểm của Lật Chiến Thư. Ngày 19/7, Bí thư tỉnh Quảng
Đông Mã Hưng Thụy (Ma Xingrui) cũng khẳng định lại quan điểm đó.
Về biến động nhân sự, sau ngày 4/7/2018, Vương Hộ Ninh (Wang Huning) đã
bất ngờ “mất tích”. Ngày 19/7, Tập Cận Bình đi thăm Emirates và bốn nước
châu Phi. Cùng đi có Đinh Tiết Tường (Ding Xuexiang) nhưng không có
Vương Hộ Ninh (như mọi khi). Theo nhà bình luận Trần Phá Không (Chen
Pokong) Vương Hộ Ninh là “tùy tùng nòng cốt” của Tập, nên đây là dấu
hiệu bất thường. Có tin “Tập vứt Vương (Hộ Ninh) bảo Lưu (Hạc)”. Vương
Hỗ Ninh có thể bị thanh trừng (vì lý do chiến tranh thương mại Mỹ-Trung)
và được thay bằng Đinh Tiết Tường (Chánh văn phòng TƯ). Có tin Hồ Xuân
Hoa (Hu Chunhua, phó thủ tướng) được vào Thường vụ Bộ Chính trị để trở
thành người kế nhiệm Tổng Bí thư. Nhưng Lật Chiến Thư mới là cánh tay
phải được Tập tin cậy nhất, ngoài Vương Kỳ Sơn (Wang Qishan).
Xét cho cùng, Vương Hỗ Ninh dù tài giỏi đến mấy, cũng không phải là
superman. Những tài sản chính trị (political
assets) do thành công của Vương trước đây (qua ba đời Tổng Bí Thư)
nay có thể trở thành món nợ chính trị (political
liability). Những biến động trong nội bộ Trung Quốc liên quan và
phản ánh những trục trặc trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế
của họ, mà chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đang làm bộc lộ những ẩn số.
Theo Lê Thu Hương (ANU/ASPI analyst), Trung
Quốc đã trở thành một cường quốc kinh tế quái vật (a
monstrous economic power) mà Richard Nixon gọi là
Frankenstein, không chịu bị
ràng buộc bởi luật lệ toàn cầu (như phương Tây mong đợi), mà ngược lại
trở thành “một bên tham gia tàn bạo” (a
ruthless stakeolder). Chiến thuật (tầm ăn dâu) của Trung Quốc tại
Biển Đông có thể thành công, vì họ biết tranh thủ thời cơ để quân sự hóa
và kiểm soát vùng biển này (như cái ao của mình) trong khi cộng đồng
quốc tế còn đang “xem xét” (keeps
pondering). Họ đã tranh thủ cơ hội để lấp lỗ hổng lãnh đạo toàn cầu
(filling the void in global
leadership) khi Trump đã biếu Tập Cận Bình một cơ hội chiến lược (strategic
opportunity). Thông qua “bẫy nợ” (debt
trap) như một quốc sách kinh tế (economic
statrecraft) và dùng BRI và AIIB làm đòn bẩy, Trung Quốc đã khống
chế được nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước láng giềng có tranh
chấp lãnh thổ hay lãnh hải như Malaysia, Philippines và Việt Nam. (Chinas
Aggression Is Starting to Backfire,
Huong Thu Le, National Interest, July 24, 2018).
Trên thực tế, “bẫy nợ” và các “tài sản quốc gia được nhượng lại” (compromised
national strategic assets)
là hệ quả đáng sợ nhất của đại dự án “Một Vành đai Một Con đường” (most
feared outcomes of the BRI). Trung Quốc biết khai thác điểm yếu nhất
của con người là “tham lam và sợ hãi” (greed
and fear). Họ đã chiếm được nhiều hải cảng từ Djiboutito (sừng châu
Phi) đến Hambantota (Ấn Độ Dương), từ Sihanoukvilles đến Darwin, và
giành được vị thế toàn cầu một cách nhanh chóng. Nhưng “chiến lược cưỡng
chế đầy tham vọng và nôn nóng của Tập Cận Bình lại tỏ ra vô cảm đối với
những giá trị, lợi ích và nhu cầu của cộng đồng cùng chung vận mệnh” (Xi
Jinping's ambitious and impatient strategy of assertion is insensitive
to fellow common community members' values, interests and needs).
Trung Quốc quyết theo đuổi một chiến lược tốn kém bằng cách “mua đứt”
những ai theo mình, chứ không cần chiếm được trái tim và khối óc của bạn
bè, đối tác (doubling down on a
costly strategy of buying followers rather than winning the hearts and
minds of friends and partners).
Theo tác giả, cách gây ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc đã vượt quá
mức chịu đựng của nhiều nước, nên dẫn đến một làn sóng phản ứng ngày
càng mạnh trên thế giới (a
growing wave of push-back from around the globe). Cách gây dựng quan
hệ cá nhân của Trung Quốc có thể “phản tác dụng” (backfire).
Malaysia là một bài học. Do tư duy “từ trên xuống” (top-down)
nên Trung Quốc có chiến lược nhắm vào những cá nhân lãnh đạo mà trước
mắt hiệu quả nhanh, nhưng không có cơ sở vững bền lâu dài, một khi họ bị
mất chức. Thủ tướng Najib Razak của Malaysia (hay thượng nghị sỹ Sam
Dastyari của Úc) là một ví dụ.
Việt Nam là một bài học khác. Quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam là một
ví dụ về tương quan gần gũi và lâu dài, vượt qua tầm cá nhân (như quan
hệ hai đảng). Hà Nội và Bắc Kinh đã phát triển mối quan hệ gắn bó qua
nhiều thập kỷ. Nhưng thay vì vun đắp mối quan hệ đó, Bắc Kinh đã vội vã
áp đặt tham vọng của họ tại Biển Đông, nên đã xô đẩy Việt Nam ngày càng
xa và ngả vào vòng tay người khác (trước đây là Nga, và bây giờ là Mỹ).
Không phải chỉ có Việt Nam muốn “thoát Trung”, mà nay Bắc Triều Tiên
cũng muốn như vậy.
Trở về
tương lai thời chiến tranh lạnh
Sau khi bắt tay Kim Jong-un tại cuộc gặp cấp cao Mỹ-Trung (đầy kịch
tính) tại Singapore (12/6/2018), để tháo ngòi nổ vấn đề Triều Tiên, nay
Trump lại bắt tay Putin tại cuộc gặp cấp cao Mỹ-Nga (đầy tranh cãi) tại
Helsinki (16/7/2018), để bình thường hóa với Nga. Cả hai nước cờ trên
đều nhắm đến một cái đích chính là cô lập Trung Quốc. Dường như bóng ma
Reagan lại lờ mờ hiện ra trong bức tranh thời chiến tranh lạnh (với hai
cực Mỹ-Xô). Liên Xô đã sụp đổ một phần là do chạy đua vũ trang với Mỹ
đến kiệt sức và cạn máu.
Đây là cuộc gặp thượng đỉnh có nhiều ý nghĩa chiến lược và chiến thuật,
mà Trump (và các cố vấn chủ chốt) đang tạo ra một bước ngoặt mới, có thể
làm thay đổi bàn cờ địa chính trị thế giới, mà trước đây đã bị Nga,
Trung Quốc, và Bắc Triều Tiên thao túng, trong khi Mỹ và các đồng minh
dường như bị bất lực. Đó là hệ quả của thời Clinton và Obama đã để Nga
lấn lướt (chiếm Crimea) trong khi để Trung Quốc qua mặt (kiểm soát Biển
Đông).
Tuy dư luận Mỹ (đặc biệt là giới báo chí) đã phản ứng tiêu cực đối với
cuộc gặp Trump-Putin (nhất là cuộc họp báo), nhưng giới phân tích chính
trị quốc tế không thể phủ nhận ý nghĩa quan trọng của nước cờ chiến lược
này của Mỹ (trong bối cảnh Trump vừa bắt tay với Kim Jong-un). Trong khi
Trump và Putin bắt tay nhau (dù chưa chặt lắm), chắc Tập Cận bình rất lo
ngại, vì sự kiện này đối với Bắc Kinh là tin dữ (chứ không phải tin
lành).
Có những động lực thúc đẩy sự kiện này: Putin muốn bắt tay với Trump để
hóa giải khó khăn kinh tế vì Nga bị phương Tây cấm vận (sau khi chiếm
Cremea và can thiệp vào Syria). Trump muốn bắt tay Putin để phân hóa Nga
nhằm cô lập Trung Quốc để dễ bề đối phó, đồng thời hóa giải sức ép chính
trị trong nước. Robert Mueller vẫn đang điều tra sự can thiệp của Nga
vào bầu cử Mỹ, và Bộ Tư Pháp Mỹ vừa truy tố 12 nhân viên tình báo Nga.
Có thể so sánh cái bắt tay Trump-Putin (7/2018) với cái bắt tay
Nixon-Mao (12/1972) trong trò chơi quyền lực giữa ba nước lớn (thời
chiến tranh lạnh). Nixon và Kissinger đã từng chơi “lá bài Trung Quốc”
để chống Nga. Nay Trump định chơi “lá bài Nga” để chống Trung Quốc đang
trỗi dậy đe dọa lợi ích toàn cầu của Mỹ. Tập Cận Bình đã từng chơi “lá
bài Nga” để chống Mỹ, thì nay Trump cũng có thể chơi “lá bài Nga” để lật
lại thế cờ. Có lẽ tam giác Mỹ-Trung-Nga đang “trở về tương lại” (back to
the future) như thời chiến tranh lạnh.
Đa số dư luận
Mỹ (cả Dân chủ và Cộng hòa) đều phản ứng tiêu cực trước cuộc gặp
Trump-Putin vì lâu nay người Mỹ nghi ngờ Putin chơi xấu, và bất bình
trước thái độ ứng xử bất cẩn của Trump. TNS John McCain đã bình luận
ngay sau cuộc họp báo Trump-Putin rằng “Trump là tổng thống Mỹ đã hành
xử một cách đáng xấu hổ nhất từ trước đến nay” (one
of the most disgraceful performances by an American president in memory).
Giới báo chí
Mỹ phản ứng càng mạnh còn vì lý do lâu nay Trump coi thường họ.
Washington Post (17/7/2018) bình luận cuộc gặp thưởng đỉnh Trump-Putin
tại Helsinki là “một sự kiện lịch sử - với nghĩa xấu nhất có thể” (a
historic event - in the worst possible way). Một số nhà báo còn cho
rằng Trump có thể “đã nháy mắt với Putin” (ám chỉ hai bên muốn thông
đồng với nhau). Dư luận phản đối Trump mạnh chủ yếu vì thái độ bất nhất
của ông như đổ thêm dầu vào lửa. Nhưng chỉ trích của báo chí có thể làm
lu mờ ý nghĩa thực sự của sự kiện này.
Theo Reuters (17/7/2018), Trump tuyên bố “Sẽ có kết quả lớn với Putin” (Big
results will come with Putin). Trump còn viết trên Twitter (như
khiêu khích dư luận): “Putin và tôi đã thảo luận nhiều chủ đề quan trọng
khi chúng tôi gặp nhau. Chúng tôi rất hợp nhau, làm nhiều người ghét tôi
vì họ chỉ muốn thấy một trận đấu quyền anh…” (Putin
and I discussed many important subjects at our earlier meeting. We got
along well which truly bothered many haters who wanted to see a boxing
match).
Theo NPR
(17/7/2018) một nhà bình luận Nga nói rằng Trump-Putin saummit tại
Helsinki “còn hơn cả tuyệt với” (Better
Than Super).
Trò
chơi quyền lực mới
Kế hoạch “Made in China 2025” chú trọng nâng cao sức sản xuất của Trung
Quốc trong 10 lĩnh vực chiến lược dựa trên công nghệ. Nhưng thay vì bỏ
tiền, công sức và thời gian để nghiên cứu và phát triển, Trung Quốc bị
cáo buộc đã tìm cách “đánh cắp công nghệ” của các nước khác, thông qua
tin tặc, gián điệp, thôn tính và ép các công ty nước ngoài đầu tư tại
Trung Quốc. Theo Reuters (17/1/2017), Trump và Cố vấn kinh tế Gary Cohn
đã cáo buộc Trung Quốc ép các công ty Mỹ phải chuyển giao tài sản trí
tuệ cho họ như điều kiện để được kinh doanh tại Trung Quốc, nên nhiều
công ty Mỹ đang rút khỏi đây. Nay chính quyền Trump quyết định hạn chế
các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Mỹ là để “khép chặt cánh cửa” đối
với Trung Quốc muốn tiếp cận hàng ngàn doanh nghiệp Mỹ. Đó là trò chơi
quyền lực mới.
Theo báo WSJ (6/4/2018) kiến trúc sư của chiến lược đối đầu thương mại
với Trung Quốc là Robert Lighthizer (đại diện thương mại hiện nay).
Lighthizer và Trump có nhiều điểm tương đồng nên khá thân nhau (the
two men are like-minded and bonded by a similar sense of humor).
Lighthizer thường được đi cùng máy bay Air Force One, và hay được Trump
gọi vào Oval Office để trao đổi. Theo Kevin Hassett (White House chief
economist) Lighthizer được nhiều người tin tưởng, tuy quan điểm về
thương mại có thể khác nhau.
Trong khi Peter Navarro (cố vấn thương mại) có tư tưởng chống Trung
Quốc, với vai trò đảm bảo Nhà Trắng thực hiện lời hứa của Tổng Thống
(khi tranh cử) là không để Trung Quốc trục lợi, thì Lighthizer thuộc
phái diều hâu, chống Trung Quốc bằng hành động. Lighthizer phụ trách
thương mại, đề xuất chiến lược và triển khai. Cả hai nhân vật này cộng
tác với nhau để xây dựng chính sách với Trung Quốc, tuy chiến thuật của
họ có thể khác nhau. Trong khi đó, các nhân vật thuộc phái “toàn cầu
hóa” như Gary Cohn (cựu giám đốc Hội đồng Kinh tế Quốc gia (NEC) thường
lo xung đột thương mại ảnh hưởng tới thị trường. Lighthizer là một luật
sư có nhiều kinh nghiệm về cách thức làm việc của Quốc Hội cũng như
Chính quyền.
Vai trò của Lighthizer khác hẳn vai trò của những chuyên gia về Trung
Quốc trong các chính quyền trước như Henry Paulson (cựu bộ trưởng tài
chính thời George Bush) đã từng chỉ đạo chính sách kinh tế với Trung
Quốc. Paulson đã từng giúp Trung Quốc triển khai chính sách tư nhân hóa
(privatizations) và tiếp tục quan hệ với lãnh đạo Trung Quốc. Nhưng thời
Hồ Cẩm Đào đã qua rồi, nay Trump phải đối phó với “hoàng đế đỏ” Tập Cận
Bình.
Theo giáo sư David Lampton (Johns Hopkins), quan hệ Mỹ-Trung hiện đang ở
thời điểm “bùng phát” (tipping point), và quan hệ này đang được điều
chỉnh để thoát khỏi tình trạng đã tồn tại 45 năm qua. Chính quyền Trump
quyết đẩy lùi Trung Quốc trên các lĩnh vực như ăn cắp tài sản trí tuệ,
hạn chế tiếp cận tại khu vực Biển Đông, sáng kiến Một vành đai Một con
đường (BRI). (Mattis’
Visit to China: Agree to Disagree?
Shannon Tiezzi, June 29, 2018).
Dấu ấn Lighthizer
Theo báo WSJ, chính sách cứng rắn của Trump đối với Trung Quốc bắt đầu
từ một cuộc họp tại Nhà Trắng (8/2017). Trong cuộc họp đó,
Lighthizer đã lập luận rằng
nhiều năm đàm phán với Bắc Kinh không có kết quả, nay đến lúc phải đối
đầu. Mấy ngày sau, Trump tuyên bố mở cuộc điều tra các vi phạm của Trung
Quốc về sở hữu trí tuệ (do Lighthizer cầm đầu).
Đó là mốc khởi đầu chủ trương mới “đầy kịch tính và rủi ro trong nhiều
thập kỷ” (most dramatic and
high-risk effort in decades) để buộc Trung Quốc phải thay đổi thái
độ ứng xử. Có thể nói rằng quyết định áp thuế cao lên hàng hóa Trung
Quốc mang đậm “dấu ấn Lighthizer”.
Chính quyền Trump đã chuyển sang chủ trương đối đầu với Trung Quốc từ
sau cuộc họp quan trọng đó. Nhưng Lighthizer đã phải cố gắng vận động để
mọi người nhất trí, vì có nhiều ý kiến bất đồng. Các chính quyền trước
thường không muốn đối đầu với Trung Quốc, vì sợ làm kinh tế toàn cầu bị
suy thoái, và sợ Trung Quốc sẽ không hợp tác về các vấn đề an ninh khác.
Điều đó chẳng khác gì Mỹ bị Trung Quốc “bắt chẹt” (blackmailed) bằng cái
“bẫy phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế” (economic
co-dependency trap), do chính người Mỹ đã tạo ra.
Điều đáng chú ý là Jim Mattis (Bộ trưởng Quốc phòng) đã ủng hộ quan điểm
cứng rắn với Trung Quốc, vì lo ngại Trung Quốc chiếm đoạt công nghệ của
Mỹ và có thể chiếm ưu thế quân sự. Những người cầm đầu cơ quan an ninh
quốc gia cũng mệt mỏi và đau đầu vì Trung Quốc thường không giữ lời hứa
về các vấn đề an ninh (như vấn đề Triều Tiên). Marcel Lettre (nguyên thứ
trưởng Quốc Phòng, phụ trách tình báo) nói rằng Trung Quốc có ngân sách
quốc phòng lớn thứ hai trên thế giới, có đội quân thường trực lớn nhất
thế giới, có không quân lớn thứ ba thế giới, và hải quân Trung Quốc có
300 tàu chiến, gồm 60 tàu ngầm.
Cuối tháng 2/2018, Trung Quốc cử Liu He (Lưu Hạc) là phó thủ tướng, làm
đặc phái viên kinh tế, đến Washington để đàm phán. Lưu Hạc hứa Bắc Kinh
sẽ mở cửa thị trường tài chính, nhưng phía Mỹ tỏ ra lạnh nhạt. Khi cửa
sổ cơ hội đã đóng lại rồi, thì cố gắng của Lưu Hạc là “quá ít quá muộn”
(too little too late). Vì vậy, Lưu Hạc không gặp được Trump, mà chỉ gặp
Robert Lighthizer, Gary Cohn và Steven Mnuchin (bộ trưởng tài chính).
Thông điệp của Mỹ rất đơn giản: họ sẽ không để bị lợi dụng (tapped
around) như chính quyền trước.
Sau khi Trung Quốc dọa trả đũa, Trump tuyên bố sẽ đánh thuế tăng lên gấp
ba lần (tripling the amount) vì Trung Quốc trả đũa không công bằng (unfair
retaliation). Trong khi đó người phát ngôn bộ Thương Mại Trung Quốc
vẫn tỏ ta cứng rắn: “Bắc Kinh sẵn sàng đáp trả mạnh mẽ không ngần ngại”
(Beijing is fully prepared to hit
back forcefully and without hesitation). Tuy chưa rõ vai trò của Lưu
Hạc, nhưng ó thể là sai lầm của Bắc Kinh khi họ quá tự tin nên bị bất
ngờ, nên các quan chức Trung Quốc “bị sốc” trước quyết định của Mỹ.
Nhận thức chiến lược mới
Tuy nhiều người Mỹ, kể cả phe Cộng Hòa (như John McCain) phản đối Trump
(chủ yếu vì tính cách và thái độ ứng xử), nhưng ngày càng nhiều người
ủng hộ lập trường cững rắn đối với Trung Quốc. Không chỉ có lãnh đạo bộ
Quốc Phòng (như Jim Mattis), mà cộng đồng an ninh và tình báo cũng đồng
thuận với lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc. Đây là một sự chuyển
biến cơ bản về nhận thức chiến lược, do chính Trung Quốc tạo ra.
Theo CNN (21/7/2018) tại “Diễn đàn An ninh Aspen” (Aspen Security Forum,
Colorado) Michael Collins
(trợ lý giám đốc CIA về Đông Á), tỏ ra lo ngại về sự trỗi dậy của Trung
Quốc. Theo Collins, “Tập Cận Bình và chế độ của ông đang tiến hành một
cuộc ‘chiến tranh lạnh’ chống
lại Mỹ…được người Trung Quốc xác định là “xung đột về hệ thống” (system
conflict). Mối đe dọa của Trung Quốc đối với Mỹ là “thách thức lớn
nhất toàn cầu” (the greatest
global challenge) còn hệ trọng hơn nhiều so với thách thức của Nga.
Christopher Wray (giám đốc FBI) và Dan Coats (giám đốc Tình báo Quốc
gia) cũng cho rằng “Trung Quốc là nguy cơ quan trọng nhất đối với Mỹ
hiện nay” (China as the most
significant danger for the US today)…Theo quan điểm phản gián (counterintelligence
perspective) thì Trung Quốc là “mối đe dọa và thách thức lớn nhất” (the
broadest, most challenging, most significant threat), về tình báo
kinh tế (economic espionage)
cũng như tình báo truyền thống (traditional
espionage), nhằm thu thập tin tức tình báo không thông thường, cũng
như hoạt động tình báo thông thường, bằng con người cũng như qua mạng
(hacking).
Susan Thornton, (quyền trợ lý ngoại trưởng về Đông Á-Thái Bình Dương)
chỉ ra sự bế tắc tại Biển Đông “là nơi mà sự có mặt của Mỹ có thể buộc
Bắc Kinh phải đàm phán với các nước khu vực có tranh chấp lãnh hải…Mấy
năm qua, Trung Quốc đã xây nhiều đảo nhân tạo và quân sự hóa Biển Đông,
gồm các trạm radar, tên lửa, và sân bay. Bắc Kinh khẳng định hầu hết
Biển Đông thuộc chủ quyền của họ, coi quan điểm của cộng đồng quốc tế là
sai trái…Liệu Trung Quốc có bị giàng buộc bởi luật pháp và liệu Trung
Quốc có chịu đàm phán với ASEAN như các đối tác đa phương hay sẽ phân
hóa từng nước một để họ dễ bắt nạt?”.
Chiến lược An ninh Quốc gia Mỹ (NSS) được công bố 12/2017, đã đề cập đến
các hành động nhằm đối phó với Trung Quốc về “lĩnh vực công nghệ và
mạng” (technological and cyber
fronts)”. Nhưng Mỹ cần hợp tác với các đối tác khác để đối phó với
các hoạt động của Trung Quốc và vận động Bắc Kinh chấp thuận công ước
quốc tế. Người Trung Quốc giỏi tranh thủ cơ hội. Trong khi Mỹ bận đối
phó với Trung Đông và khủng hoảng tài chính, Trung Quốc đã thừa cơ bắt
nạt các nước khu vực, để quân sự hóa và kiểm soát Biển Đông.
Việt Nam đang ở
đâu?
Thứ nhất, Việt Nam có thể trở thành bãi rác
cho công nghệ lạc hậu của Trung Quốc đang bị đào thải, gây ô nhiễm môi
trường, như các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than (như Vĩnh Tân) và các
nhà máy luyện thép (như Formosa). Thứ hai, Việt Nam đang trở thành sân
sau của Trung Quốc, tiếp tay cho họ tránh thuế nhập khẩu vào Mỹ bằng
cách dán nhãn “made in Việtnam”. Thứ ba, Việt Nam bị ảnh hưởng kinh
nghiệm xấu của Trung Quốc (như luật an ninh mạng và luật đặc khu kinh
tế) nhưng lại không học được kinh nghiệm tốt của họ.
Trong bối cảnh chiến tranh thương mại đang diễn ra và thị trường thế
giới đang co lại, thì nền kinh tế Việt Nam đã khai thác gần hết công
suất xuất-nhập khẩu (chủ yếu dựa vào FDI). Vì vậy, chiến tranh thương
mại Mỹ-Trung có thể tác động xấu đến Việt Nam. Tuy lần này chiến tranh
tiền tệ chưa diễn ra, nhưng bắt đầu có những dấu hiệu bất ổn như thị
trường chứng khoán vừa qua đã sụt giảm rất mạnh, và tỷ giá ngoại tệ biến
động bất thường.
Việt Nam thường neo tỷ giá hối đoái cố định vào đồng USD, và đang cất
giữ số tài sản là ngoại hối và trái phiếu của Mỹ nhiều nhất so với các
tài sản dự trữ khác. Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ nhiều hơn các nước ASEAN
(như Malaysia). Năm 2017, Việt Nam buôn bán với Mỹ đạt mức thặng dư
thương mại đáng ngạc nhiên là 38,4 tỷ USD, trong khi Malaysia chỉ đạt
mức 24,6 tỷ USD. Chỉ tính trong quý I/2018, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ
đạt 11,4 tỷ USD, và nhập khẩu từ Mỹ đạt 2,1 tỷ USD, nên thặng dư thương
mại (xuất siêu) với Mỹ là 9,3 tỷ USD, trong khi đó Malaysia chỉ đạt
thặng dư thương mại với Mỹ là 6,1 tỷ USD).
Theo tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh (Đại học Fulbright), FDI tạo ra hơn 70% giá
trị xuất khẩu. Tỷ lệ xuất nhập khẩu trên GDP của Việt Nam là 203%
(2017), trong khi tỷ lệ trung bình trên thế giới là 28%, và tỷ lệ của
Trung Quốc là 19,6%. FDI của Việt Nam chiếm 7,7% GDP, cao gấp đôi tỷ lệ
bình quân của thế giới là 3,1%. FDI tại Việt Nam xuất siêu gần 26 tỷ
USD. Có lẽ không có nước nào trên thế giới có tỷ lệ đầu tư nước ngoài so
với tổng đầu tư cao như Việt Nam. (Nghịch
lý FDI, Vũ Thành Tự Anh, Thời báo
Kinh tế Sài Gòn, 15/07/2018).
Ông Anh cho biết có 2 nghịch lý về FDI: Thứ nhất, “tuy công nghệ cao
nhưng kỹ năng lại thấp”. Thứ hai, “tuy công nghệ cao nhưng giá trị gia
tăng lại thấp”. Phụ thuộc vào FDI là “cái bẫy gia công giá trị thấp”.
Muốn thoát khỏi cái bẫy đó phải tháo gỡ ách tắc về thể chế để chuyển đổi
cơ cấu và tăng năng suất lao động. Hiện nay, hầu hết các dự án FDI chỉ
tận dụng nhân công rẻ mạt, mà không đóng góp đáng kể vào việc chuyển
giao công nghệ mới.
Gần đây Bộ Thương Mại Mỹ đã áp thuế nhập khẩu
25% lên sản phẩm thép và 10% lên sản phẩm nhôm (có nguồn gốc Trung
Quốc), để ngăn chặn hàng Trung Quốc xuất khẩu qua Việt Nam. Đó chỉ là
động thái ban đầu của Mỹ nhằm đảm bảo “công bằng và đối ứng”. Theo chủ
trương của Trump,
Mỹ đang “khép chặt cánh cửa” đối với Trung Quốc với những quy định mới.
Các công ty có từ 25% vốn sở hữu của Trung Quốc bị cấm mua lại những
công ty công nghệ cao của Mỹ (như không gian vũ trụ, người máy, công
nghiệp ô tô). Nếu Trump thực hiện lời đe dọa tăng thuế lên mức
200 tỷ và 500 tỷ USD để trừng phạt Trung Quốc, thì sẽ tạo ra một cơn sốc
mạnh, không chỉ tác động tới Trung Quốc, mà còn tới các nền kinh tế Châu
Á khác (trong đó có Việt Nam). Tác động tới đâu còn phụ thuộc vào diễn
biến của chiến tranh thương mại và quan hệ Viêt-Trung cũng như Việt-Mỹ.
Xét cho cùng, chiến tranh thương mại Mỹ-trung đem lại cả rủi ro và cơ
hội (như con dao hai lưỡi).
Trong khi đó, luật an ninh mạng và luật đặc khu kinh tế mang đậm dấu ấn
Trung Quốc. Nó mâu thuẫn với kinh tế thị trường và cam kết quốc tế khi
Việt Nam gia nhập WTO, đồng thời làm cản trở sự phát triển kinh tế của
Việt nam. Dù luật an ninh mạng có được thi hành không và luật đặc khu
kinh tế có được thông không, thì Việt Nam khó lòng thu hút được các công
ty công nghệ cao của Mỹ và phương Tây vào đầu tư. Luật pháp của họ cấm
các công ty đầu tư và kinh doanh tại các nước không có hệ sinh thái nhân
quyền và tự do thông tin.
Nếu chính quyền muốn ép Google và Facebook phải hợp tác để chặn tự do
truy cập mạng tại Việt Nam thì chắc chẳng có chuyên gia hay nhà đầu tư
nước ngoài nào (của Mỹ và phương Tây) muốn tới Việt Nam để làm việc.
Trung Quốc khác Việt Nam là họ đã xây dựng được các mạng nội địa (như
“WeChat” và “Baidu”) để phục người Trung Quốc, trong khi Việt Nam vẫn
chưa có bất cứ công cụ tìm kiếm nào để thay thế được Google hay
Facebook.
Việt Nam phải làm gì?
Theo tiến sỹ Vũ Quang Việt (chuyên gia thống kê LHQ), Việt Nam nên coi
tình huống chiến tranh thương mại Mỹ-Trung là một “tình trạng khẩn cấp”
(state of emergency) để kịp
thời có các biện pháp bảo vệ sản xuất nội địa của mình. Vấn đề là cần
xác định khi nào điều này xảy ra mà thôi. Việt Nam cần sửa soạn hành
động thích hợp khi có tình trạng khẩn cấp, vì các luật thương mại cho
phép các quốc gia bảo vệ thị trường của mình khi đối tác vi phạm hiệp
định (WTO). “Theo tôi, các biện pháp đối sách cần được sửa soạn, công bố
một cách rộng rãi và áp dụng trong trường hợp khẩn cấp khi chiến tranh
thương mại Mỹ-Trung được cho là chính thức xảy ra”. (Việt
Nam cần làm gì để bảo vệ sản xuất nội địa?
BBC, 24/7/2018).
Theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, Việt Nam cần đặc biệt đề phòng
hàng hóa của Trung Quốc tràn vào Việt Nam và hàng hóa của nước này “dán
nhãn mác của Việt Nam” để tránh thuế của Mỹ và các tác động tiêu cực
khác. Ông Doanh nói chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc hiện
nay đã bắt đầu và đang diễn biến rất phức tạp, có thể tác động tiêu cực
đến thương mại toàn cầu. Cuộc chiến tranh thương mại đó chắc chắn sẽ tác
động đến Việt Nam vì hiện nay các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI)
chiếm đến 71% tổng xuất khẩu của Việt Nam. “Phía Việt Nam phải hết sức
chủ động đề phòng và đề xuất các phương án để tìm kiếm những thị trường
thích hợp, tránh “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”.
Theo Nguyễn Minh Quang (Diplomat, 24/7/2018) “Trung Quốc càng mạnh, thì
nguy cơ càng lớn hơn đối với Việt Nam” (the
stronger China gets, the more serious of a potential threat Vietnam
faces). Theo tôi không phải chỉ vì Trung Quốc mạnh, mà còn vì họ
hung hăng muốn bắt nạt và thôn tính láng giềng. Tôi đồng ý với nhận định
của tác giả là do thất bại của “các chính sách kinh tế đầy rủi ro vì
không suy xét kỹ trước đây (failure
of recent risky and ill-conceived economic policies)
nên bây giờ chính phủ muốn chuyển sang làm kinh tế đặc khu (shifted
attention to the emergence of economic enclave initiatives). Nhưng
đây không chỉ là một giải pháp tình huống mà còn là bản chất của các
nhóm lợi ích muốn làm giàu nhanh qua đầu cơ và trục lợi bằng mọi giá
(bất chấp cả an ninh quốc gia), nên rủi ro còn lớn hơn trước. (Vietnam
- Dawn of the SEZs, Nguyen Minh Quang, Diplomat, July 24,
2018).
Theo VOA (10/7/2018)
Trung Quốc có thể dùng Việt Nam để “đỡ đạn” cho họ trong cuộc chiến
tranh thương mại Mỹ-Trung. Nếu
mô hình “khu hợp tác kinh tế qua biên giới” theo ý tưởng của Trung Quốc
được triển khai như dự kiến, thì Việt Nam sẽ trở thành một “nơi trú ẩn”
cho hàng hóa Trung Quốc đang bị Mỹ đánh thuế cao để trừng phạt. Không
biết Việt Nam có muốn chịu đòn thay cho “người bạn 16 chữ vàng” (vì
“cùng chung vận mệnh”).
“Khu hợp tác kinh tế qua biên giới” là một ý tưởng của Trung Quốc đưa ra
từ lâu nhưng vẫn đang đàm phán với các nước liên quan, trong đó có Việt
Nam. Mô hình này được mô tả là “hai nước một khu, tự do thương mại, vận
hành khép kín”. Khu hợp tác kinh tế qua biên giới có các phân khu theo
chức năng như khu chế tạo, gia công, kho bãi, thông quan hàng hóa, còn
trung tâm thương mại sẽ phối hợp quản lý, khai thác và phân chia lợi
nhuận.
Theo báo “South China Morning Post” (7/2018) các quan chức Quảng Tây
(Trung Quốc) đang nhắm 7 khu vực mậu dịch biên giới với Việt Nam để các
nhà xuất khẩu Trung Quốc đến lắp ráp các sản phẩm điện tử tại đây và dán
nhãn “made in Vietnam”. Một
trong những khu vực này là thị xã Bằng Tường, thuộc địa phận Sùng Tả của
Trung Quốc. Lu Hui (phó thị trưởng Bằng Tường) nói với báo SCMP rằng ông
rất muốn tạo ra một khu hợp tác với Việt Nam với “nguồn vật liệu, vốn và
nhân công tự do”. Các sản phẩm được sản xuất trong khu vực này có thể
được lựa chọn để dán nhãn “made
in Vietnam” hay “made in
China”.
Trong bối cảnh chiến tranh thương mại đang leo thang, các chuyên gia lo
ngại rằng nếu Việt Nam trở thành “nơi trú ẩn” cho hàng hóa Trung Quốc để
tránh bị Mỹ đánh thuế, thì quan hệ Việt-Mỹ chắc sẽ bị tổn thương. Theo
Muray Hiebert (CSIS) chính quyền Trump sẽ “để mắt kỹ hơn” nhằm theo dõi
nguồn hàng hóa Trung Quốc thông qua bên thứ ba (như Việt Nam) để xuất
khẩu sang Mỹ. Vì vậy, đây không phải là một “lối thoát dễ dàng”.
Muray Hiebert nói tuy còn quá sớm để kết luận cụ thể về tác động của
cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đối với kinh tế Việt Nam, nhưng
chuyên gia này cho rằng dù thế nào Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc
chiến thương mại giữa hai siêu cường, nhưng có thể ở một mức độ không
lớn lắm (so với mấy nước khác). Tuy nhiên, điều đó còn tùy thuộc vào khả
năng ứng phó từ bên trong (nội lực), chứ không chỉ do nguy cơ từ bên
ngoài.
Thay lời kết
Việt Nam phải làm gì với cuộc chiến tranh thương mại, từ dọa đến thật và
không có điểm dừng? Liệu Việt Nam có muốn trở thành “nơi trú ẩn” để
trung chuyển hàng hóa cho Trung Quốc nhằm
kiếm lợi như “cửu vạn”? và trở
thành “đặc khu kinh tế” của Trung Quốc để “chia lửa” với bạn, vì “cùng
chung vận mệnh”? Phải đặt câu chuyện “khu hợp tác kinh tế qua biên giới”
và “ba đặc khu kinh tế” trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ-Trung,
cũng như bàn cờ chiến lược toàn cầu giữa các siêu cường, thì mới hiểu rõ
bản chất thật của nó.
Muốn hiểu rõ bản chất thật và diễn biến cuộc chiến tranh thương mại
Mỹ-Trung hiện nay (còn nhiều ẩn số và biến số khó lường) phải đặt nó vào
bức tranh rộng lớn hơn của bàn cờ chiến lược toàn cầu, cũng như bối cảnh
chính trị trong nước Mỹ hiện nay. Muốn biết nó tác động thế nào đến Việt
Nam (và khu vực), thì cũng phải xét những gì đang diễn ra (như câu
chuyện chống tham nhũng, đổi mới thể chế và nhất thể hóa, luật đặc khu
và luật an ninh mạng) trong bối cảnh quốc tế phức tạp hiện nay, thì mới
không bị mơ hồ và ngộ nhận.
Trong bối cảnh đó, việc tranh cãi ồn ào giữa các cá nhân về mấy chi tiết
“nhạy cảm” trong cuốn sách “Gac Ma: Vòng tròn Bất tử” (vừa xuất bản sau
mấy năm bị cấm), càng bộc lộ sự phân hóa nội bộ (chỉ có lợi cho Trung
Quốc). Trong khi dư luận đang phản đối Luật An ninh Mạng (đã thông qua)
và Luật Ba Đặc khu Kinh tế (chưa thông qua), sự phân hóa nói trên càng
làm lu mờ và trệch hướng quá trình hòa giải dân tộc và đồng thuận quốc
gia. Hơn lúc nào hết, trước nguy cơ bắc Thuộc (như một thảm họa quốc
gia), người Việt mình phải tạm dẹp lợi ích riêng vì lợi ích dân tộc, tạm
dẹp mâu thuẫn nội bộ vì đồng thuận quốc gia (là một huyệt đạo dễ bị tổn
thương). Nếu không đổi mới thể chế và đồng thuận quốc gia, thì mỗi khi
“trâu bò húc nhau” Việt Nam sẽ càng bị mắc kẹt sâu hơn trong một đường
hầm không lối thoát.
Tham khảo
1.
The Architect of
Trump’s China Trade War,
Bob Davis, WSJ, April 6, 2018
2. Mattis’ Visit to China: Agree
to Disagree? Shannon Tiezzi, Diplomat, June 29, 2008
3.
How the Biggest Trade War in Economic History
Is Playing Out,
NYT,
July 6, 2018
4. China wants to replace the US
as a world superpower,
CNN, July 21, 2018
5.
Blunting
China’s Economic Coercion as Statecraft,
Ely Ratner,
statement before
Senate Foreign Relations
Committee hearing on The China Challenge, July 24, 2018).
6.
Vietnam - Dawn of the SEZs,
Nguyen Minh Quang, Diplomat, July 24, 2018
7.
Chinas Aggression Is Starting to Backfire,
Huong Thu Le, National Interest, July 24, 2018
8.
Trump’s Trade Wars Are Bad. They Could Soon Get a Lot Worse,
Keith Johnson, Foreign Policy, July 25, 2018
9.
Việt Nam-Trung Quốc: Hai Quốc gia, Một trạm
Kiểm soát Cửa khẩu,
VOA, 06/02/2018
10.
Nghịch lý FDI, Vũ Thành Tự
Anh, TBKTSG, 15/07/2018
11.
Việt Nam cần làm gì để bảo vệ sản xuất nội địa?
BBC, 24/07/2018
12.
Chiến tranh thương mại từng dẫn đến Thế chiến,
BBC, 24/07/2018
NQD.
26/07/2018
|