Chủ nghĩa thân hữu
ăn sâu bám rễ
Nguyễn Quang Dy
Hiện
nay có nhiều vấn đề phải bàn trong chiến lược phát triển của Việt Nam.
Nhưng có hai vấn đề chính cần tháo gỡ để phát triển bền vững là chủ
nghĩa thân hữu ăn sâu bám rễ và đầu tư nước ngoài chệch hướng. Nếu không
tháo gỡ vấn đề thân hữu thì chống tham nhũng bất khả thi. Nếu đầu tư
nước ngoài không đúng hướng thì khó phát triển bền vững.
Chủ nghĩa tư bản
thân hữu Theo
ông Vũ ngọc Hoàng (nguyên Phó ban Tuyên giáo Trung ương), chủ nghĩa tư
bản thân hữu thực chất là sự bành trướng và biến tướng của nhóm lợi
ích. Ở Việt Nam, nhóm lợi ích đang chuyển biến dần sang chủ nghĩa tư
bản thân hữu. Đây là nguy cơ lớn nhất đang hiện hữu dần, đe dọa sự phát
triển lành mạnh của đất nước và sự tồn vong của chế độ. (Nguy
cơ lợi ích nhóm bao trùm lên mọi nguy cơ khác,
Vũ Ngọc Hoàng, Nhân dân,
28/7/2016). Chủ
nghĩa tư bản thân hữu đã ăn sâu bám rễ ở Việt Nam, do các nhóm lợi ích
liên kết giữa các quan chức suy thoái với các doanh nghiệp nhà nước
(SOE) để thao túng “định hướng XHCN”. Nhưng khi các tập đoàn nhà nước là
những “quả đấm thép” bị thua lỗ và bê bối thì vai trò đầu tàu kinh tế
của họ bị lấn át dần bởi các tập đoàn tư nhân lớn mạnh.
Theo ông Trần Đình Thiên
(nguyên viện trưởng Viện Kinh tế và thành viên tổ tư vấn kinh tế của thủ
tướng), “hơn
90% doanh nghiệp Việt Nam ở quy mô nhỏ, thậm chí siêu nhỏ” (Đại dịch Covid-19 là dịp để thay máu nền kinh tế,
CafeF, 18/5/2020). Trong khi một số tập
đoàn tư nhân lớn mạnh lên từ trong nước, thì các tập đoàn tư nhân khác
đã trở thành triệu phú đô la nhờ sản xuất mì ăn liền và kinh doanh tại
thị trường Liên Xô và Đông Âu cũ.
Các
triệu phú đó đã trở về Việt Nam từ thập niên 1990 khi đất nước bắt đầu
mở cửa và đổi mới. Họ đầu tư chủ yếu vào bất động sản và xây dựng quan
hệ là hai thứ tài sản có lợi nhất trong thời kỳ quá độ. Với túi tiền và
kinh nghiệm kinh doanh ở Liên Xô và Đông Âu, họ là những người cơ hội
(như “carpetbaggers”) đặc trưng của thời kỳ tích tụ tư bản hoang dã.
Đó
là vắn tắt bối cảnh thời kỳ quá độ của kinh tế thị trường và chủ nghĩa
thân hữu ở Việt Nam. Tuy hầu hết các tập đoàn tư nhân đã đầu tư vào bất
động sản, nhưng một số đã đa dạng hóa đầu tư vào các lĩnh vực khác như
ngân hàng (VP, VIB, Liên Việt), hàng không (Vietjet Air, Bamboo
Airways), thực phẩm (Masan), siêu thị (Vinmart), y tế (Vinmec), giáo dục
(Vinschool), xe hơi (Thaco, Vinfast), và công nghệ mới (AI, Big data)…
Các
tập đoàn này đã đóng góp đáng kể vào xây dựng hạ tầng, đặc biệt là bất
động sản (property development). Theo Forbes (25/5/2020) có sáu tập đoàn
tư nhân Việt Nam đã trở thành tỉ phú đô la. Nhưng có một nghịch lý đáng
buồn là trong khi họ làm giàu nhanh thì đa số người dân nghèo đi, và đất
nước vẫn tụt hậu, với năng xuất lao động càng thấp. Tại
các xã hội chuyển đổi như Trung Quốc hay Việt Nam, thói quen thu tô
(rent seeking) và móc ngoặc là miếng đất màu mỡ cho chủ nghĩa thân hữu
và tham nhũng, nên khó phát triển bền vững. Theo Minxin Pei (China’s
Crony Capitalism, Harvard University Press, 2016), “gốc rễ của chủ
nghĩa tư bản thân hữu nói chung và tham nhũng nói riêng đã ăn sâu”.
Ông
lý giải “sự tương tác của các thay đổi về thể chế trong quyền sở hữu nhà
đất và phản ứng thuận chiều của giới tinh hoa đã sinh ra chủ nghĩa tư
bản thân hữu”. Một phát hiện quan trọng của ông là chủ nghĩa tư bản thân
hữu ở Trung Quốc có đặc tính phân cấp. Các doanh nghiệp tư nhân có năng
lực vượt trội so với nhà nước trong khai thác tài sản công.
Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng một khi các doanh nghiệp tư nhân đã
giàu có về kinh tế và có quyền lực chính trị thì họ sẽ theo chủ nghĩa tư
bản tự do thay vì chủ nghĩa tư bản thân hữu. Sự trỗi dậy và cố thủ của
chủ nghĩa tư bản thân hữu trong kinh tế chính trị Trung Quốc là hệ quả
tất yếu của mô hình chuyên chế để hiện đại hóa kinh tế của Đặng Tiểu
Bình. Khi
giới tinh hoa nắm quyền lực không hạn chế thì họ sẽ dùng nó để chiếm
đoạt thành quả của tăng trưởng kinh tế, làm cho quá trình chuyển đổi khó
khăn và bất ổn hơn. Hệ lụy của chủ nghĩa tư bản thân hữu (như bất bình
đẳng về tài sản, thế lực mafia địa phương, sự cố thủ của giới tài phiệt
có đặc quyền) tạo điều kiện cho những kẻ chiếm được nhiều tài sản bất
minh trong xã hội có thế lực chính trị mạnh hơn trong một nền dân chủ
mới còn đầy bất ổn. Khi
quyền lực không bị kiểm soát thì các nhóm lợi ích thân hữu như “bên
thắng cuộc” sẽ coi thường dư luận và thao túng báo chí như công cụ của
họ. Vụ AVG là một ví dụ điển hình, khi hai bộ trưởng phụ trách truyền
thông phải vào tù. Nhưng AVG chỉ là phẩn nổi của tảng băng chìm. Một số
nhà báo có thể bị thao túng để viết bài nhằm diệt nước mắm truyền thống.
Một số quan chức có thể bị thao thao túng để trừng phạt báo Phụ Nữ thành
phố vì loạt bài điều tra dự án nghỉ dưỡng vi phạm quy định về rừng quốc
gia và bảo vệ môi trường.
Đầu tư nước ngoài
chệch hướng Đầu tư nước ngoài trực
tiếp (FDI) là một nhân tố quan trọng để giúp các nước chuyển đổi như
Việt Nam phát triển. Nhưng muốn phát triển bền vững thì chính sách thu
hút FDI của Việt Nam phải cài đặt đúng hướng. Theo
giáo sư Trần Văn Thọ (thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Việt
Nam), có bốn tiêu chí cơ bản để đánh giá chất lượng FDI.
Một là FDI phải được đặt trong một chiến lược phát triển kinh tế hoàn
chỉnh. Hai là phải tạo điều kiện để các dự án FDI theo mô hình liên
doanh với các đối tác trong nước. Ba là phải liên kết giữa FDI với các
công ty trong nước để hỗ trợ nhau. Bốn là phải đánh giá xem các dự án
FDI đến từ các nước tiên tiến hay từ các nước mới phát triển xung quanh
Việt Nam. (FDI,
Trung Quốc và kinh tế Việt Nam, Trần Văn Thọ, the Leader,
21/5/2020).
Trong thời kỳ bắt đầu đổi mới (thập niên 1990) cho đến khi gia nhập WTO
(2006) Việt Nam còn sợ FDI chi phối nền kinh tế nên luật đầu tư nước
ngoài chưa thông thoáng, và khi áp dụng lại gây khó dễ cho các nhà đầu
tư nước ngoài. Quy trình xét duyệt để cấp phép rất phức tạp và tốn thời
gian, làm nản lòng nhiều doanh nghiệp lớn từ các nước tiên tiến. Sau
này, người ta nhớ tới giai đoạn mở cửa ban đầu đó như là “bình minh ảo”
(false dawn).
Nhưng từ khi gia nhập WTO, Việt Nam lại quá dễ dãi trong quy chế phân
quyền xuống các địa phương (decentralization). Vì vậy, các tỉnh thường
tranh nhau dự án, và chạy dự án bằng mọi giá, thậm chí bất chấp rủi ro
về môi trường và an ninh quốc gia. Khi đánh giá về FDI, Việt Nam thường
chỉ chú ý đến số vốn, chứ ít khi chú ý đến chất lượng.
Dự án thép Formosa và đường sắt Cát Linh-Hà Đông là những ví dụ điển
hình và bài học đau đớn. Cũng may mà dư luận phản đối mạnh làm Thủ tướng
chính phủ phải dừng lại không cho làm dự án thép Hoa Sen Cà Ná (Ninh
Thuận) với tổng số vốn ảo $10 tỷ mà ông chủ tập đoàn Hoa Sen đã từng
tuyên bố “ngu gì mà không làm thép”.
Gần đây, thế giới cảnh giác hơn vì Trung Quốc đã bộc lộ ý đồ chi phối
nền kinh tế và can thiệp vào tình hình chính trị các nước khác thông qua
hình thức đầu tư, và họ đã đưa ra nhiều biện pháp để ngăn ngừa. Ví dụ,
Nhật Bản vừa mới sửa luật về ngoại hối, quy định chặt chẽ tỉ lệ tối đa
doanh nghiệp nước ngoài có thể mua cổ phần của doanh nghiệp Nhật.
Các nước phương Tây khác như Mỹ, Úc, Pháp, cũng đang tìm cách ngăn ngừa
Trung Quốc mua bán và sát nhập (M&A) những công ty thuộc diện có ảnh
hưởng tới an ninh kinh tế và an ninh quốc gia. Họ đã thông qua việc ban
hành các đạo luật mới hoặc sửa đổi các đạo luật cũ nhằm ngăn ngừa các dự
án FDI có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
Việt Nam là một nước đang phát triển và đang chuyển đổi, có vị trí địa
lý liền kề Trung Quốc, nên việc cảnh giác và đối phó với ý đồ thao túng
của Trung Quốc lại càng hệ trọng hơn so với các nước tiên tiến nói trên.
Theo Bộ Quốc Phòng Việt Nam, các doanh nghiệp Trung Quốc đang tìm cách
sở hữu các vị trí đất nhạy cảm đối với an ninh của Việt Nam.
Với tham vọng lãnh thổ và “kinh
tế cưỡng đoạt”, hoạt động của các doanh nghiệp Trung Quốc luôn ẩn tàng
âm mưu bành trướng của chính quyền Trung Quốc. Gần đây, Bộ Quốc Phòng
Việt Nam đã nói rõ các doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc thường núp bóng
để thâu tóm các bất động sản có vị trí quân sự xung yếu (tại Vân Đồn,
Phú Quốc, Đà nẵng, v.v).
Tuy Quốc Hội không thông qua Luật Đặc khu vì sức ép dư luận, nhưng các
nhóm lợi ích gắn với đặc khu không chịu bỏ cuộc, mà sẽ lặng lẽ vận động
Quốc Hội và Chính Phủ tìm cách khác. Theo báo Dân Trí (25/11/2019), Quốc
Hội đã bỏ phiếu thông qua quy định miễn thị thực cho người nước ngoài
tới các “khu kinh tế đặc biệt”. Với quy định này, Vân Đồn và Phú Quốc sẽ
biến thành đặc khu cho người Trung Quốc mà không cần thông qua luật.
Do ảnh hưởng bởi chiến tranh thương mại Mỹ-Trung và Covid-19, nhiều
doanh nghiệp Mỹ và phương Tây sẽ rút khỏi Trung Quốc, và Việt Nam là một
trong những nước để họ chọn. Việt Nam không nên lo ngại rằng nếu các
doanh nghiệp Trung Quốc không đến, thì các nước khác cũng không đến, vì
có nhiều doanh nghiệp khác nhau. Nay hiệp định CPTPP và EVFTA sẽ giúp
Việt Nam hội nhập đa dạng hơn, để giảm sự lệ thuộc vào Trung Quốc.
Đối với các nước phương Tây như Mỹ, EU và Nhật Bản, ngoài vốn đầu tư thì
họ có công nghệ cao, văn hóa kinh doanh lâu đời, và trách nhiệm xã hội
trong đó có ý thức bảo vệ môi trường. Trong khi đó, doanh nghiệp các
nước mới phát triển như Trung Quốc hay Đài Loan vẫn thiếu hụt văn hóa và
đạo đức kinh doanh, cũng như trách nhiệm xã hội cần thiết.
Nay Việt Nam đã trở thành nền kinh tế phụ thuộc cao độ vào FDI. Khu vực
FDI chiếm tới 50% sản lượng công nghiệp và 70% kim ngạch xuất khẩu,
nhưng không giúp Việt Nam chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, không đưa Việt
Nam tiến lên cao hơn trong chuỗi cung ứng giá trị, trong khi công nghiệp
phụ trợ chưa phát triển. Tuy Việt Nam thu hút nhiều FDI, nhưng xét theo
bốn tiêu chí của giáo sư Trần Văn Thọ về FDI thì Việt Nam không thành
công.
Theo giáo sư Trần Văn Thọ, Việt Nam phải kịp thời cài đặt lại toàn bộ
chiến lược thu hút FDI. Đã đến lúc Việt Nam phải sửa lại luật đầu tư
nước ngoài và sớm ban hành luật về an ninh kinh tế để ngăn ngừa người
nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực nhạy cảm về an ninh quốc phòng, và có
các điều khoản cụ thể để xử lý người trong nước tiếp tay cho người nước
ngoài lách luật. (Việt
Nam cần cảnh giác trước đầu tư của Trung Quốc, BBC,
7/6/2020).
Lời cuối
Muốn
đổi mới thể chế cần đồng thuận quốc gia, muốn chống tham những cần minh
bạch. Đáng mừng là quá trình “chống dịch như chống giặc” đã giúp Việt
Nam kiến tạo được đồng thuận quốc gia và minh bạch thông tin, là hai tài
sản qúy hiếm để đổi mới thể chế. Nếu không đổi mới thể chế kịp thời thì
Việt Nam sẽ đánh mất cơ hội đón nhận sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng
toàn cầu, và làm triệt tiêu luôn cả hai tài sản quý hiếm nói trên. Gần
đây, Việt Nam hay nói đến “dọn tổ để đón đại bàng”. Đúng là có nhiều đại
bàng đang rời Trung Quốc, nhưng tại sao 27 đại bàng Mỹ vừa rời Trung
Quốc lại không đến Việt Nam? Nếu không trả lời được câu hỏi đó để kịp
thời tháo gỡ ách tắc, thì nhiều đại bàng khác sắp rời Trung Quốc sẽ đến
Indonesia hay Ấn Độ, chứ không đến Việt Nam. Nếu chỉ chú trọng dọn tổ ở
Vân Đồn và Phú Quốc thì Việt Nam chỉ đón được kền kền Trung Quốc. Thế
giới phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, nhất là về thiết bị y tế và
dược phẩm. Đó là một nghịch lý và tử huyệt mà Mỹ và phương Tây đã nhận
ra sai lầm vì dính líu quá nhiều và quá lâu với Trung Quốc, nhưng vẫn
“đồng sàng dị mộng”. Nay Mỹ đang cố đảo ngược thực trạng đó bằng cách
“tách đôi” (decoupling), nhưng đây là một bài toán nói thì dễ nhưng làm
rất khó, vì Mỹ-Trung đã mắc kẹt vào cái “bẫy phụ thuộc lẫn nhau về kinh
tế”. Đối
đầu Mỹ-Trung khác với đối đầu Mỹ-Xô thời chiến tranh lạnh. Nếu trước đây
Mỹ-Xô chỉ đối đầu về quân sự và ý thức hệ, thì nay Mỹ-Trung còn đối đầu
về kinh tế và công nghệ, vì Trung Quốc là siêu cường kinh tế thứ hai thế
giới. Trong khi thế giới phải đối phó với đại dịch, thì Việt Nam có cơ
hội “biến nguy thành cơ”. Tuy Việt Nam có cơ hội thoát khỏi ngã ba đường
ý thức hệ, nhưng cơ hội này có thể mất nốt nếu đổi mới thể chế quá chậm
và quá ít.
NQD. 20/6/2020
NQD.
20/6/2020
|