LUẬT KHOA
12-04-21

https://www.luatkhoa.org/2021/04/lich-su-muon-mat-cua-mat-tran-tu-the-gioi-den-viet-nam/

Lịch sử muôn mặt của “mặt trận”: Từ thế giới đến Việt Nam

Khái niệm tổ chức chính trị “mặt trận” là từ đâu ra?

 Võ Văn Quản

Những ngày vừa qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQ VN) đã giương cao ngọn cờ “đại diện” cho mọi thành phần, mọi tầng lớp nhân dân để… thanh lọc và lựa chọn danh sách các đại biểu Quốc hội cho kỳ bầu cử sắp tới.

Ít người dân Việt Nam hiểu vai trò và mục tiêu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của tổ chức này. Thực tế cho thấy rằng mặt trận cũng ít có thực quyền trong cơ cấu chính trị và nhà nước hiện nay.

Tuy nhiên, với hàng loạt tổ chức chân rết thành viên cũng như một lực lượng lớn cán bộ được duy trì nhờ nguồn kinh phí nhà nước, MTTQ sẽ tiếp tục là một thế lực quan trọng với danh nghĩa tổ chức chính trị tự nguyện đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân.

Nếu tìm hiểu về lịch sử của chính quyền Việt Nam hiện nay, bạn đọc sẽ nhận ra rằng MTTQ không phải là hình thức tồn tại duy nhất của khái niệm mặt trận tại Việt Nam. Trước đó, có thể kể đến những cái tên lừng danh (hay khét tiếng) khác như Mặt trận Phản đế, Mặt trận Dân tộc Thống nhất hay Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Vậy khái niệm tổ chức chính trị “mặt trận” là từ đâu ra? Và lý do tồn tại của nó trong lịch sử cũng như hiện tại ở Việt Nam là gì?

Mặt trận trên thế giới

Lịch sử của hình thái tổ chức chính trị mặt trận (front) trên thế giới gắn liền với các chính đảng cánh tả và trung lập, mà đặc biệt là các đảng cộng sản. Tuy vậy, ngày nay rất nhiều chính đảng cánh hữu hay cực hữu khác (như Mặt trận Quốc dân – National Front tại Pháp) đều sử dụng tên gọi này cho mục tiêu chính trị của mình.

Nhìn chung, mặt trận được sử dụng khi người thành lập muốn gầy dựng nên một tổ chức chính trị có thể tập hợp nhiều nhất các thành phần giai cấp, tôn giáo, định hướng chính trị và hệ tư tưởng, nhằm tạo nên một sức mạnh chính trị chống lại một kẻ thù chung nhất định.

Tương tự như đánh trận, việc các bên bỏ qua khác biệt không mang tính chất sống còn để dồn lực vào chỉ một chiến trường, một mặt trận sẽ giúp các nguồn lực chính trị được tập trung và sử dụng hiệu quả hơn.

Thêm vào đó, những tổ chức chính trị có khả năng chi phối nội bộ và tổ chức của mặt trận còn có cơ hội tăng cường tính chính danh, tìm kiếm thêm sự ủng hộ và cơ hội đưa ra các diễn ngôn dân túy… biến mình trở thành đại diện chung của các giai tầng và tổ chức chính trị quần chúng cơ sở nhân dân.

Tổ chức chính trị có danh nghĩa mặt trận đầu tiên, cũng như có vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử chính trị thế giới là một tổ chức dưới quyền và chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của Quốc tế Cộng sản: Communist International, hay gọi tắt là Commitern.

Về mặt lịch sử, sự tiến hóa của hình thức tổ chức này tương đối phức tạp. Trước thập niên 1930, Đảng Cộng sản Đức (KPD) và Đảng Quốc xã Đức (Nazis) có kẻ thù chung là chính quyền dân chủ đầu tiên được thử nghiệm tại Đức – Cộng hòa Weimar.

Tuy nhiên, khác biệt về tư tưởng cũng như nhu cầu cạnh tranh sự ủng hộ của quần chúng để giành độc quyền kiểm soát nền chính trị Đức khiến cho cả hai chính đảng này kèn cựa và luôn đấu tranh với nhau rất lâu, đôi khi dẫn đến xung đột vũ trang.

Sau các cuộc khủng hoảng thừa và khủng hoảng tài chính thế giới liên tục vào các năm 1929, 1931 và 1933, nền chính trị Đức nhanh chóng bị Hitler và chủ nghĩa phát-xít (fascism) thu hút, đẩy các tổ chức cơ sở cộng sản vào thế bị truy lùng và đàn áp. Chủ nghĩa phát-xít từ đó bắt đầu tìm được tiếng nói tại Tây Ban Nha, Ý lẫn Áo.

Đức vì vậy được xem là mặt trận chính thống chống phát-xít, căn cứ trên nghị quyết – đường lối được công bố tại Đại hội lần thứ Bảy của Quốc tế Cộng sản.

Mô hình Mặt trận Nhân dân Phản chiến và Chống phát-xít (People’s Front of struggle against fascism and war, cũng có thể gọi là United Front hay Popular Front, ở Việt Nam hay gọi là Mặt trận Bình dân) được phát động. Nó trở thành nhiệm vụ chung đối với hầu hết các chính đảng cộng sản đang hoạt động trên toàn thế giới.

Nói một cách dễ hiểu, các chính đảng cộng sản sẽ chấp thuận từ bỏ đường lối chính trị cơ bản là muốn xây dựng chính quyền chuyên chính vô sản. Thay vào đó, họ chấp nhận liên minh với các hội, nhóm, chính đảng chính trị khác, miễn là có thể đồng thuận chung về mục tiêu chống phát-xít.

Về mặt định hướng, Quốc tế Cộng sản tin rằng đây là cách để các đảng cộng sản trong nước chứng minh năng lực, tăng cường tiếp xúc với nhiều đối tượng xã hội khác và từ đó thu hút sự ủng hộ, đi kèm với việc tạo lợi thế số đông chống lại chủ nghĩa phát-xít.

Mô hình này khiến cho khái niệm cũng như triết lý của một tổ chức mặt trận trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia đang trong tiến trình đấu tranh chống thực dân và giành độc lập.

Tuy nhiên, các tổ chức mặt trận cũng nhanh chóng hiện rõ vị thế là một tổ chức chính trị lệ thuộc vào định hướng và sự thao túng của Đảng Cộng sản Liên Xô nói chung và các đảng cộng sản địa phương nói riêng.

Vào năm 1939, Stalin quyết định liên minh với Hitler thông qua thỏa ước không xâm phạm lẫn nhau. Quyết định này giúp Stalin có thời gian xây dựng lại lực lượng quân sự rệu rã sau nhiều năm thanh trừng, từ đó chiếm cứ các vùng lãnh thổ, quốc gia khác (như Phần Lan) được cho là từng thuộc đế chế Nga tiền Cách mạng tháng Mười.

Kể từ đó, những mặt trận phản chiến và chống phát-xít trở mặt 180 độ.

Thay vì chống tư tưởng phát-xít và các tội ác diệt chủng lan rộng tại Đức, các mặt trận lại bắt đầu tuyên truyền cho hòa bình với chính quyền Đức. Họ lên án Anh – Mỹ vì cho rằng việc các nước này chuẩn bị cho chiến tranh chống Đức và giải phóng các vùng lãnh thổ bị Quốc xã chiếm đóng là hành vi tuyên truyền và làm leo thang “chiến tranh đế quốc”.

Nhiều tư liệu ghi nhận rằng các chính đảng cộng sản tại Anh hay Pháp đã hết sức bối rối về việc Liên Xô ký kết hòa ước với Đức. Họ phải nhiều lần yêu cầu có chỉ thị chung từ đích thân đồng chí Stalin về tương lai và định hướng của các tổ chức mặt trận.

Lịch sử cũng đã ghi nhận những tổ chức mặt trận “đổi gió” nhanh đến thế nào khi Đức chính thức tấn công Liên Xô. “Cuộc chiến đế quốc” bạo tàn vô nghĩa nhanh chóng trở thành cuộc thánh chiến vì dân chủ và tự do của nhân loại.

Mặt trận ở Việt Nam

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (tên tiếng Anh: Vietnam Fatherland Front) là một tổ chức chính trị cơ bản cấu thành hệ thống chính trị Việt Nam. Nó là hình thức tồn tại hiện nay của mô hình Mặt trận Dân tộc Thống nhất tại Việt Nam.

Bên cạnh sự lãnh đạo không thể phủ nhận của Đảng Cộng sản Việt Nam, MTTQ được xem là là tổ chức đại diện chung cho khối đại đoàn kết dân tộc, vừa là thành viên, song cũng thay mặt cho tất cả các tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp khác (như Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi, Liên đoàn Lao động…) trong đời sống chính trị – xã hội Việt Nam.

Chính vì tính “đại diện chung” này (dù do chỉ định mà có), MTTQ luôn xuất hiện trong những quy trình, chủ trương yêu cầu sự có mặt và có sự thống nhất của “đại diện nhân dân”, như quá trình hiệp thương để lựa chọn ứng viên bầu cử đại biểu nhân dân các cấp, hay cao hơn là ghế thành viên trong Hội đồng Bầu cử Quốc gia.

Nói về tên gọi thì có rất nhiều biến thể khác nhau của mô hình này.

Vào năm 1930, Hội Phản đế Đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, được hình thành với tiêu chí khá tương đồng với mục tiêu của mô hình mặt trận của Quốc tế Cộng sản. Đó là xây dựng một mô hình tập hợp các giai tầng trong xã hội, trong đó các đảng cộng sản vừa là người chủ xướng việc hình thành, vừa là người lãnh đạo, đồng thời là thành viên tích cực của tổ chức.

Tuy nhiên, phải đến năm 1936 thì tên gọi “mặt trận” mới chính thức xuất hiện, đi theo chủ trương chung của Quốc tế Cộng sản. Tổ chức đầu tiên mang tên Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế (Mặt trận Phản đế).

Do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập và kêu gọi, Mặt trận Phản đế trở thành tổ chức bình phong cũng như mang lại tiếng nói đại diện chung cho đảng này trong các hoạt động đối ngoại. Một ví dụ là việc dùng danh nghĩa của Mặt trận Phản đế để viết thư cho chính phủ Pháp và kêu gọi “tất cả các đảng phái chính trị, tất cả các tầng lớp nhân dân Đông Dương tham gia Mặt trận Nhân dân Đông Dương”.

Sau đó, tùy theo tình hình quốc tế, những biến thể của mặt trận nhanh chóng xuất hiện để tranh thủ sự ủng hộ.

Khi Mặt trận Bình dân Pháp thành công trong việc nắm quyền kiểm soát chính phủ Pháp, các tổ chức như Thanh niên Dân chủ Đông Dương, Hội Cứu tế bình dân, Công hội, Nông hội, Hội Ái hữu… vốn được các nhân tố cộng sản hình thành, giờ đây hợp nhau lại để cho ra đời Mặt trận Dân chủ Đông Dương.

Đến năm 1941, ngay thời điểm Liên Xô bị buộc phải tham chiến vào Chiến tranh Thế giới thứ Hai, mô hình mặt trận phát huy tác dụng mạnh mẽ và hiệu quả qua Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, cũng hay thường được gọi là Mặt trận Việt Minh.

Với mô hình này, Đảng Cộng sản Đông Dương nhanh chóng lui vào sau rèm nhiếp chính, bỏ qua yếu tố “cộng sản” trong cương lĩnh chính trị. Họ thu hút được sự ủng hộ không nhỏ của đồng bào yêu nước, từ công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản đến tư sản dân tộc, phú nông và địa chủ có tinh thần yêu nước.

Từ “đồng minh” được thêm vào khá khéo, biến Mặt trận Việt Minh trở thành một tổ chức được Hoa Kỳ chú ý và hỗ trợ nhiệt tình trong giai đoạn đầu.

Riêng trong chiến tranh Việt Nam, chính quyền Bắc Việt kiểm soát và chi viện cho ba hình thức tổ chức mặt trận khác nhau.

Thứ nhất là Mặt trận Tổ quốc (cùng tên gọi với mặt trận hiện nay), được thành lập vào năm 1955 tại miền Bắc Việt Nam, với mục tiêu đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, đấu tranh đánh bại “đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai”.

Tiếp theo chắc chắn không thể không nhắc đến Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (National Liberation Front of Southern Vietnam, thường gọi tắt là NLF, hay tổ chức Việt Cộng theo cách gọi của chính quyền Sài Gòn và quân đội Hoa Kỳ).

Thành lập vào năm 1960 và có liên hệ tổ chức với chính quyền Bắc Việt ngay từ trong trứng nước, NLF là tổ chức mặt trận độc lập duy nhất có chính quyền riêng, có quân đội riêng cũng như có ghế riêng trong quá trình thương thảo Hiệp định Paris.

NLF được chính quyền hiện nay ca ngợi là thành quả của cao trào đồng khởi của đồng bào miền Nam, là ý nguyện của người dân miền Nam trong việc đánh đuổi giặc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn.

Đến năm 1968, ngay sau khi cuộc tổng tiến công Mậu Thân thất bại với thương vong quá lớn, chính quyền Bắc Việt và NLF lại nhận thấy một chiến thắng tâm lý quan trọng đối với dân chúng Hoa Kỳ cũng như dư luận thế giới. Một là người dân thế giới biết thêm về sự tàn khốc của chiến tranh Việt Nam; trong khi chính quyền Johnson gần như bất lực trong việc thuyết phục dư luận cũng như Quốc hội Hoa Kỳ rằng chiến thắng và hòa bình tại miền Nam Việt Nam đã được bảo đảm, điều mà ông này luôn khẳng định trước đó.

Trên căn cứ đó, chính quyền Bắc Việt tiếp tục thành lập Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam (thành lập ngay ngày 20/4/1968, tức là lúc chiến dịch Mậu Thân tại một số nơi vẫn chưa hạ màn).

Tận dụng phong trào phản chiến ở Mỹ cũng như vai trò của nhiều nhân sĩ trí thức, lãnh tụ tôn giáo tại miền Nam Việt Nam, Liên minh thành công trong việc đổi chiều các thảo luận về chiến tranh Việt Nam, ảnh hưởng cơ bản lên cách nhìn của thế giới về cuộc chiến này.

Như vậy, cho đến khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một tay điều phối ba tổ chức mặt trận còn tồn tại trên dải đất hình chữ S, gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa Bình tại miền Bắc, và Mặt trận Dân tộc Giải phóng tại miền Nam Việt Nam.

Năm 1977, cả ba tổ chức mặt trận thống nhất họp tại Đại hội Mặt trận Dân tộc Thống nhất ở Sài Gòn (lúc này đã đổi tên thành thành phố Hồ Chí Minh). Họ hợp nhất lại chung dưới tên gọi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nhánh chính quyền và lực lượng vũ trang của NLF cũng từ đó giải thể và sáp nhập vào bộ máy của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.