Tình trạng tham
nhũng ở VN tính đến nay đã trở thành trung tâm sự chú ý của tất cả mọi
người dân và cũng là mối bận tâm
lớn nhất của Đảng và nhà nước. Tham
nhũng đã trở thành quốc bệnh quan hệ đến tồn vong của chế đô thì
chống tham nhũng đương nhiên cũng phải được coi là quốc sách hàng đầu,
cần đến sự nổ lực đồng bộ của toàn đảng toàn dân . Từ 20 năm nay, nhiều
luật lệ, chỉ thị về phòng chống tham nhũng đã được ban hành, cùng với
biết bao tiếng nói đóng góp của các vị nhân sĩ trí thức, nhưng thực tế
quốc bênh tham nhũng chẳng được đẩy lùi mà còn có biểu hiện ngày càng
tăng năng đến mức vô phương cứu chửa.
Tình trạng các giải
pháp đã đưa ra hoặc đã thực thi
đều tỏ ra vô hiệu kể cả việc “ đốt lò” , chúng tôi thiết tha mong muốn
xã hội ổn định , nền kinh tế đất nước phát triển nhân dân được hạnh
phúc, xin nêu ra sau đây một số quan điểm và giải pháp phòng chống tham
nhũng bằng một lộ trình hết sức thực tế và có tính khả thi.
Những ý kiến nêu ra
trong bản kiến nghị này có khả
năng gây tranh luận , nhưng chúng tôi vẫn mạnh dạn nêu lên để rộng đường
tham khảo.
QUAN ĐIỂM
VỀ CẢI CÁCH CHÍNH TRỊ
THÔNG QUA CÔNG CUỘC
PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
Lê Thân
Tham nhũng ở nước
ta đã trở thành quốc nạn là một thực tế hiển nhiên bất khả tranh luận mà
ai ai cũng phải thừa nhận. Càng đáng ngại hơn khi kết quả của những nỗ
lực chống tham nhũng do Đảng và Nhà nước phát động ít nhất từ gần nửa
thế kỷ nay cho thấy rất hạn chế nếu chưa muốn nói hoàn toàn vô hiệu:
tham nhũng chẳng những không giảm bớt mà còn có chiều hướng gia tăng về
quy mô, tính chất và mức độ phổ biến, biểu hiện một cách tinh vi thiên
hình vạn trạng vượt khỏi tầm kiểm soát của cả hệ thống chính trị,
dẫn đến thực tế số cán bộ tham nhũng từ trung ương đến địa phương
bị phát hiện vào tù ngày ) đông đảo, không kể những trường hợp “chưa bị
lộ”, đã khiến cho dân chúng ban đầu càng hi vọng bao nhiêu thì về sau
lại càng thất vọng bấy nhiêu, kể cả chiến dịch “đốt lò” mô phỏng theo mô
hình “đả hổ diệt ruồi” của Trung Quốc!
Ở nước ta cũng như
tại một số nước Châu Á đang phát triển, ngoài “tham nhũng đất đai”,
“tham nhũng dự án” rất phổ biến và nổi trội, với những mối lợi cực kỳ
hấp dẫn, còn có nạn “tham
nhũng quyền lực”, “tham nhũng chính trị”, mua quan bán chức ,điều kiện
để thiểu số nhóm lợi ích thủ đắc các quyền lợi vật
chất béo bở, với những khối tài sản của chìm của nổi kếch
xù và có cuộc sống còn hơn cả đế vương thời phong kiến. Tình trạng này
đặc biệt đúng với trường hợp của Việt Nam và Trung Quốc, hai nước có thể
chế chính trị gần giống hệt như nhau.
Trong thực tại Việt
Nam, nhìn đâu cũng thấy có nạn tham nhũng, từ tham nhũng lớn đến tham
nhũng vặt, “ăn không từ một thứ gì” (lời bà nguyên phó chủ tịch nước
NTD). Tình trạng ác hóa đến nỗi, có lần cố Tổng bí thư Đỗ Mười phải
than: “Như hiện nay, xin đi học, hay vào bệnh viện đều phải có... tí
phong bì”. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói về hiện tượng thoái hóa của
một số cán bộ nhà nước: “Nếu có phát hiện thì... hi sinh đời bố, củng
cố đời con!”... Cho nên có thể nói, tham nhũng đã và đang trở thành
tập tính của toàn thể giới cán bộ đảng viên đang nắm giữ các chức quyền
ở mọi ngành hoạt động trong bộ máy Đảng-Nhà nước, diễn ra khắp các cơ
quan đoàn thể từ hành chính sự nghiệp đến công an, bộ đội, tư pháp, các
ngành hoạt động tri thức về văn hóa-giáo dục-y tế-xuất bản, thâm nhập cả
vào trong các hội từ thiện, các chốn chùa chiền, và không loại trừ kể cả
những cơ quan trung ương chuyên biệt được đặt ra để phòng chống tham
nhũng, … vì thế có khả năng lan tỏa sâu rộng vào quảng đại quần chúng
trở thành một hiện tượng quen thuộc hầu như có thể gọi là tập tính của
xã hội người Việt.
Tham nhũng tràn lan
không chỉ làm mất lòng tin của dân chúng vào các nhà đương cuộc và chế
độ chính trị, mà còn làm cho nhân dân điêu đứng, dân khí bại hoại, quốc
lực hao mòn, bộ máy hành chính trở nên tê liệt, mất kiểm soát và bất
lực, trên bảo dưới không nghe, mọi ý đồ tốt đẹp của quốc gia về kinh
tế-xã hội đều bị phá sản, dẫn tới hậu quả tình trạng phân hóa giàu nghèo
và bất công xã hội ngày càng trở nên sâu sắc, các tệ nạn xã hội và tội
phạm hình sự, lừa đảo cũng gia tăng theo; đạo đức xã hội suy thoái, quan
hệ giữa người và người bớt lành mạnh đi, niềm tin vào tương lai cuộc
sống của dân chúng bị xói mòn đến mức gần như cạn kiệt.
Với tình trạng quốc
bênh tham nhũng trầm trọng và càng chống càng tăng như hiện nay, nước
Việt Nam mà đại diện chịu trách nhiệm là bộ máy cầm quyền hiện hữu, đang
giống hệt một con bệnh trầm kha tìm cách kéo dài sinh mệnh bằng thuốc để
chờ ngày kết thúc sự sống khi thuốc uống đã không còn hiệu lực. Nói theo
cách diễn đạt đông y, phải dùng cả thuốc “bổ” lẫn thuốc “tả”, và những
vị thuốc trung tính: thuốc bổ là những lời động viên học tập theo lời
dạy đạo đức của lãnh tụ tiền bối, đã tỏ ra hoàn toàn vô hiệu trước một
cơ địa đã rệu rã không còn khả năng tiếp nhận; thuốc trung tính có thể
ví như những đạo luật, nghị định, chỉ thị về phòng chống tham nhũng,
kiểm kê tài sản hoặc những bộ quy tắc ứng xử dành cho cán bộ công nhân
viên chức các cấp mà trên thực tế đã trở thành những mớ giấy lộn không
thể áp dụng vì cũng không hợp cơ địa; thuốc “tả” có tính công phạt mạnh
mang nhiều độc chất để cứu mạng bệnh nhân vào giờ chót, tương đương với
biện pháp bắt bớ “đốt lò” trên diện rộng, nhưng lại là con dao hai lưỡi,
có khả năng dẫn người bệnh càng đi nhanh đến chỗ tử vong.
Trong cơn thập tử
nhất sinh, cả bệnh nhân lẫn thầy thuốc đều trở nên mất bình tĩnh, tối
mắt không còn thấy con đường chữa trị hợp lý và có thể sẽ làm liều bằng
cách cho thuốc ẩu, nếu so sánh với hành động chính quyền của nhà cầm
quyền hiện tại thì đó chính là cách họ dùng lực lượng công an và hệ
thống tòa án để trấn áp, cầm tù những người dân khiếu kiện nạn tham
nhũng đất đai, như đã áp dụng trong trường hợp huy động lực lượng cả
ngàn quân công an trấn áp và tiêu diệt công dân/ đảng viên 84 tuổi đời
56 tuổi đảng Lê Đình Kình trong vụ án Đồng Tâm hiện vẫn còn đang gây
chấn động dư luận cả trong lẫn ngoài nước. Một cái cách thô bạo chà đạp
dân chủ dân quyền, đứng trên luật pháp và công luận mà người ta cho rằng
chính là biểu hiện cơn giãy chết của một chế độ chính trị đang suy tàn
tự đào mộ chôn mình vì nó đã dám chống lại nhân dân trong nước cùng tất
cả những người yêu chuộng công bằng trên toàn thế giới.
Trên thực tế hiện
nay, “đốt lò” đã tỏ ra không hiệu quả, vì muốn đốt lò bắt buộc phải dùng
các lực lượng công an, thanh tra, kiểm tra, viện kiểm sát, tòa án… trong
khi chính những lực lượng này do Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) độc tài
toàn trị chỉ đạo đứng trên luật pháp trong một nền tư pháp không độc lập
lại là những ổ vi trùng tham nhũng đôi khi còn nặng hơn cả những đối
tượng tham nhũng mà nó muốn tiêu diệt, biến công cuộc chống tham nhũng
trở thành cái cớ hoặc để tự nâng cao uy tín cá nhân của người chỉ huy
trước một đám quần chúng hãy còn hồn nhiên cả tin, hoặc để thanh trừng
nội bộ trong cuộc tranh giành quyền lực quyết liệt hình thành cục diện
chính trị quả đầu thu tóm quyền lực vào tay một số ít người hoặc nhóm
người trong giới chóp bu để chia quyền tham nhũng, điều đặc biệt lộ rõ
từ Đại hội XII ĐCSVN năm 2016 và nhất là trước thềm Đại hội XIII dự kiến
sẽ diễn ra vào đầu năm sau, 2021.
Chống tham nhũng
luôn vướng phải cái vòng luẩn quẩn: muốn làm được hiệu quả cần phải có
một chính phủ trong sạch lành mạnh, trong khi chính phủ đó đã và đang bị
nghiền nát do chính bệnh tham nhũng, trở nên mất kiểm soát và thụ động
bất lực. Khá đông trong thành phần cán bộ đảng viên có chức có quyền
thật ra họ chẳng muốn cho tình trạng hỗn loạn về luật pháp, hành chính
sớm được chấm dứt, để đục nước béo cò, trong chừng mực cho phép là Đảng
và chính phủ đó của họ vẫn chưa bị sụp đổ trước khi họ còn có thể kiếm
chác được, như thực tế trong vài chục năm nay đã từng chứng tỏ. Chống
tham nhũng rốt cuộc vì thế chỉ trở thành khẩu hiệu suông để tuyên truyền
chính trị, vì thực tế từ khi “đổi mới” năm 1986 với Đại hội Đảng VI trở
đi, tham nhũng trở thành đại dịch, năm sau cao hơn năm trước. Đến nay,
theo sự xếp hạng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế năm 2019, Việt Nam đạt vị
trí số 2 trong 5 quốc gia tham nhũng nhất thế giới, chỉ đứng sau Ấn Độ.
Nguyên nhân chủ yếu
của quốc nạn tham nhũng, người ta đã phân tích nhiều và ai cũng biết, đó
là do lỗi hệ thống, trong điều kiện ĐCSVN độc quyền toàn trị, triệt tiêu
dân chủ.
Vì không có dân chủ
nên thực tế cho thấy, công an, tòa án, quốc hội, các ban thanh tra
(Đảng, Chính phủ), nhà tù,… đều không chống được tham nhũng, do tất cả
các định chế/ tổ chức này đều một giuộc
như nhau, không ai độc lập với ai, và đều nằm dưới sự kiểm soát chỉ đạo
của một đảng chính trị độc quyền: Tuy Điều 4 Hiến pháp 2013 có nêu rõ “Các
tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” nhưng thực tế Đảng lại đứng
trên cả nhân dân và luật pháp, làm méo mó công lý, như hàng chục vụ xét
xử tham nhũng lớn đã từng chứng tỏ.
Trước tình trạng bi
thảm luẩn quẩn tiến thối lưỡng nan này của đất nước, rất nhiều người bức
xúc nhưng bi quan cho rằng như thế thì đã hỏng bét tuyệt đối, chống tham
nhũng là “kế bất khả thi”, chỉ còn cách duy nhất kiên nhẫn chịu đựng chờ
cho Đảng CS toàn trị ở Việt Nam sụp đổ, và nếu cứ khư khư không chịu sửa
đổi thì trước sau gì nó cũng sẽ sụp đổ, vấn đề chỉ còn là thời gian. Đây
là một loại ý kiến rất đáng được chú ý, không thể bỏ qua, và dường như
không ít đảng viên ĐCSVN cũng đã mường tượng ra cái kết quả bi thảm
tương tự trong tương lai, nên họ nhắc nhở nhau phải đề cao cảnh giác
nguy cơ, tìm cách cứu Đảng (viết ra trong các bài báo trên tạp chí
Cộng Sản, tạp chí
Xây Dựng Đảng…, hoặc nói
chuyện trong các buổi sinh hoạt cán bộ chủ chốt…), và một số người trong
họ khi có điều kiện cũng đã cho con em đi học nước ngoài (dặn ở luôn bên
đó đừng về…), gởi tiền ngân hàng nước ngoài, mua nhà nước ngoài, mua
quốc tịch nước ngoài…, dợm chân tháo chạy một khi Đảng CS thật sự sụp
đổ.
Quan điểm của chúng
tôi không phủ nhận hoàn toàn loại ý kiến như vừa nêu trên, nhưng có một
hướng nghĩ và niềm tin khác. Căn cứ vào thực tế lịch sử, nền chính trị
và thực tiễn xã hội đặc thù Việt Nam, chúng tôi cho rằng công cuộc chống
tham nhũng để mở đường cho đất nước tiến lên là còn có tính khả thi và
vẫn phải do ĐCSVN hiện tại thống nhất giềng mối chủ trì thực hiện, với
hi vọng thành công rất lớn, và với điều kiện phải có một quyết tâm chính
trị lớn tương đương, bằng con đường cải cách thể chế (gọi tắt “cải chế”)
theo hướng dân chủ hóa đời sống xã hội.
Trong bản tuyên bố
quan điểm này, chúng tôi thấy không cần mất thì giờ đưa ra những giải
pháp chống tham nhũng cụ thể, vì những giải pháp như vậy đã được bàn
thảo quá đầy đủ trên báo chí, trong bài viết của các vị nhân sĩ trí thức
tâm huyết, trong các cuộc hội thảo ở các cơ quan báo chí, trường đại
học, viện nghiên cứu, và nhất là tại diễn đàn Quốc hội, từ suốt mấy chục
năm nay, mà các nội dung cơ bản cũng đã được thể hiện phần lớn trong
Luật phòng chống tham nhũng 2018, trong các nghị quyết, nghị định, quyết
định, chỉ thị liên quan vấn đề do Đảng-Nhà nước ban hành rồi. Vấn đề cốt
lõi và có tính quyết định là làm sao phải thực hiện cho đúng những điều
đã ghi trong các loại văn bản kể trên, mà chúng tôi dù có cố nghĩ thêm
cũng không hơn được. Nếu cần, chúng ta có thể tham khảo thêm kinh nghiệm
phòng chống tham nhũng có sẵn rất hiệu quả của Hàn Quốc, Nhật Bản,
Singapore… là được, và tài liệu tham khảo thì có đầy, không phải mất
công kiếm đâu xa.
Tựu trung và đại
khái cũng chỉ là: Những người
lãnh đạo đất nước phải trong sạch, gương mẫu, bởi
một lẽ đơn giản gói gọn trong
chân lý bất di bất dịch “Thượng bất chính, hạ tắc loạn”, “Thượng chính,
hạ nghiêm”; thực hiện nguyên tắc công khai minh bạch trong hoạt động của
các cơ quan nhà nước; khi phát hiện các vụ việc tham nhũng phải tập
trung xử lý và xử lý nghiêm khắc, trừng trị thích đáng kẻ tham nhũng;
chống tham nhũng từ trên xuống, từ trong ra và không có vùng cấm.
Điều chúng tôi sắp
trình bày thậm chí cũng không muốn lặp lại ngay cả những điều vừa ghi
lại ở trên, đã quá nhàm, vì điều kiện tiên quyết thứ nhất ( “Thượng
chính, hạ nghiêm”) là đúng tuyệt đối, nhưng điều kiện tiên quyết này,
chúng ta phải thừa nhận một thực tế cay đắng và đau lòng, là đất nước
chúng ta, ít nhất cũng trong hiện tại, hầu như không còn có
“Thượng chính” nữa rồi, sau 45 năm xây dựng CNXH kiểu như đã làm
dưới chế độ độc đảng toàn trị dung túng cho các phần tử đặc quyền, vốn
là căn nguyên của tham nhũng. Lý do: Các nhà lãnh đạo cấp cao phần lớn
tay đều đã “nhúng chàm”, ở những mức độ khác nhau; kẻ liêm chính, ngay
thẳng, nhiều lý tưởng ít thủ đoạn và có đủ tài đức nếu không chịu quy ẩn
nghỉ hưu sớm thì cũng không thể nào trèo lên đến vị trí chỉ huy cao có
đầy đủ thực quyền; thảng hoặc có vị nào liêm khiết được đưa vào các tổ
chức chống tham nhũng thì trước sau cũng phải từ chức hoặc bị loại trừ…
Một số người ban đầu rất lý tưởng muốn phục vụ nhân dân, nhưng khi tham
gia lâu vào bộ máy độc quyền đạt địa vị cao thì cũng trở nên biến chất
thành quan tham, thụ động hoặc tích cực. Đây là một thực tế hùng hồn
sinh động, mà nếu không can đảm thừa nhận, mọi giải pháp đưa ra để phòng
chống tham nhũng ở Việt Nam trong điều kiện độc đảng cầm quyền đều trở
thành lý thuyết suông, vô vọng.
Điều nhận định như
trên được nêu ra có nghĩa rằng, chúng ta tạm thời
không đòi hỏi điều kiện lý tưởng
phải có những nhà lãnh đạo cấp cao đều trong sạch, vì đây là điều không
thể có được trong một bộ máy cầm quyền đã và đang bị thối nát gần như
tột độ. Cũng có nghĩa rằng chúng ta tạm thời
chấp nhận một số kẻ xấu cầm
quyền không trong sạch đã được ăn no, giàu có lên nhờ tham nhũng trong
hàng ngũ “tứ trụ” và trong một số cấp trung gian từ chức bộ trưởng trở
xuống, miễn tất cả họ đồng loạt nhận thức ra được tình hình mới, rằng từ
nay trở đi họ không chỉ phải dừng hành vi tham nhũng lại mà còn phải ra
tay điều trị quốc bệnh tham nhũng, chẳng cần bằng sáng kiến gì mới mà
chỉ cần bằng cách nghiêm minh thực thi những luật pháp do chính Đảng của
họ đặt ra, bởi nếu không thì bản thân họ cũng sẽ bị nhân dân nguyền rủa
lật đổ cùng với Đảng độc tài của họ. Người dân Việt Nam giờ đây đòi hỏi
sự “cải chế” cũng do chính ĐCSVN hiện tại lãnh đạo, bằng con đường dân
chủ hóa đời sống xã hội, thực thi đúng những điều Hiến pháp 2013 quy
định cho phép, trong đó có: Điều 4 nêu rõ “Các
tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”; Điều 7: “Việc bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc
phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ bỏ phiếu kín”; Điều 25: “Công dân
có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp,
lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”…
Một trong những
giải pháp được đưa ra để chống tham nhũng từ lâu và hiện nay là kiểm kê
tài sản cán bộ (mới nhất là Nghị định 130/2020/NĐ-CP ban hành ngày
30.10.2020), thì việc này, tuy không thể không làm, nhưng theo quan điểm
của chúng tôi, cũng lại không khả thi và không thể được coi là giải pháp
cơ bản. Bởi một lẽ đơn giản, trong điều kiện Đảng CS độc quyền lãnh đạo,
bất cứ người đầy tớ nào của nhân dân trở nên giàu có cũng đều nhờ tham
nhũng ít nhiều, chứ không bằng đồng lương, thể hiện dưới mọi hình thức
từ tinh vi đến trắng trợn, nên bảo họ kê khai tài sản trung thực là điều
hầu như không thể được. Cố Thủ tướng Phan Văn Khải đã từng phát biểu
trước diễn đàn Quốc hội hồi tháng 12.2004: “Khi đề bạt cán bộ thì bắt
khai tài sản, nhưng họ rất khôn khi để cho con đứng tên, vợ đứng tên...
Thành ra đặt vấn đề thu hồi tài sản bất chính là rất khó”. Nguyên
Phó thanh tra Chính phủ Vũ Phạm Quyết Thắng khi đó cũng nói: “Nếu bây
giờ kê khai, nhiều công chức đang có sẽ hóa ra không có tài sản, vì họ
đã ‘gửi’ cho cháu chắt hết rồi”.
Cho đến hiện nay,
cả khi tội phạm tham nhũng bị phát hiện và đã bị đem ra xét xử
trừng trị, người phạm tội bị phạt tù vài tháng hoặc vài năm, thì
những quyền lợi mà dân chúng bị mất về hành vi tham nhũng do họ gây ra
trên thực tế cũng không lấy lại được, nên chỉ còn lại chuyện ở tù trừ;
hoặc một số cấp dưới liên quan vụ việc đứng ra ở tù đại diện cho cấp
trên để chuẩn bị cho một chiến thuật hạ cánh an toàn tập thể trong một
nền tư pháp thiếu hẳn sự độc lập trong các khâu điều tra, xét xử.
Với những tình
trạng được miêu tả như trên, phải thẳng thắn nhận định rằng, nếu vẫn cứ
tiếp tục bằng những biện pháp cũ truyền thống như học tập nghị quyết, cổ
động nêu gương lãnh tụ, phê bình kiểm điểm, thanh tra kiểm tra, cảnh cáo
kỷ luật, đình chỉ công tác, thậm chí bắt bớ bỏ tù..., nạn tham nhũng vẫn
khó bị đẩy lùi, nếu như cái điều căn bản là toàn bộ hệ thống chính
trị-kinh tế do đặc điểm và những khuyết tật bên trong của nó mà tệ nạn
tham nhũng phát sinh, không được điều chỉnh một cách đúng mức cần thiết.
Về sự bất lực của
hệ thống, rất nhiều quan chức hiện nay đã công khai thừa nhận, như chính
cố Thủ tướng Phan Văn Khải trước đây khi vừa rời khỏi chính trường cũng
có lần phát biểu trả lời phỏng vấn trước Quốc hội: “Rất nhiều lần tôi
nói cả hệ thống chính trị chứ không chỉ hệ thống hành chính của chúng ta
có vấn đề, cần phải cải cách, chấn chỉnh, nâng cao năng lực, hiệu quả,
hiệu lực, chống cho được tham nhũng, tiêu cực, nhũng nhiễu...”.
Cùng một ý như trên
nhưng TS Lê Đăng Doanh thì lại có lối nói thực tế dễ hiểu hơn: “Chỉ
trừng phạt thôi thì người này đổ, người khác sẽ lên. Cơ chế nếu không
thay đổi thì người mới lên sẽ... tệ không kém, thậm chí còn ‘cáo’ hơn
anh trước”.
Xét bối cảnh lịch
sử cụ thể Việt Nam, từ hoàn cảnh chiến tranh, bao cấp, ăn độn, thiếu
thốn mọi bề trong một nền kinh tế khép kín nay chuyển sang kinh tế thị
trường, vậy nên hiện tượng tham nhũng-đặc quyền lan rộng trong tầng lớp
cán bộ (vốn cũng là những con người bằng xương bằng thịt và biết tham
lam chứ chẳng phải thánh nhân) tuy
thể không phê phán và tìm cách ngăn chận nhưng cũng cần được nhìn
nhận lại một cách khoan dung, nhân bản, khách quan và chân thật hơn, như
một tất yếu lịch sử, và như một hiện tượng mà thực tế sinh động của đời
sống không cho phép tránh khỏi, phủ nhận, chứ không phải chỉ có một mặt
tiêu cực như mọi người thường nghĩ. Nói cách khác, trong điều kiện lịch
sử cụ thể Việt Nam thời cận-hiện đại, trải qua hai đợt chiến tranh,
không xuất hiện quốc bệnh tham nhũng mới là chuyện lạ!
Theo cách nhìn nhận
của chúng tôi, lịch sử “trùng trùng duyên khởi”, nhân này tạo ra quả nọ
thành một chuỗi diễn biến liên tục và khách quan đôi khi vượt khỏi quyền
kiểm soát của con người. Lũ “âm binh” được tạo ra lập được thành tích
trong thời kỳ chiến tranh giờ đây được sống trong thời bình, chuyển sang
kinh tế thị trường, họ đã biết đòi quyền được hưởng thụ các điều kiện
vật chất, là một thực tế khách quan cận nhân tình, trong điều kiện quản
lý lỏng lẻo của bộ máy nhà nước, vừa do thiếu tri thức khoa học lãnh đạo
vừa có sự cố ý dung túng
của ĐCSVN tập trung quyền lợi cho các đảng viên đồng chí của mình, vì
thế họ khó thể không xâm phạm đến lợi ích của quần chúng nhân dân dưới
dạng tham nhũng tham ô đủ kiểu. Tuy nhiên, xét cho cùng, vẫn có thể coi
tài sản tích lũy do tham nhũng trong điều kiện chuyển đổi lịch sử khách
quan như trên là gần giống với giai đoạn tích luỹ tư bản ban đầu bằng
phương thức bóc lột của chủ nghĩa tư bản man rợ (capitalisme sauvage),
tuy được chiếm hữu vô kỷ luật vì không tôn trọng khế ước chung xã hội
nhưng khách quan nó sẽ trở thành đồng vốn được tái đầu tư vào trong xã
hội, để phát triển kinh tế, mang lại lợi ích và công ăn việc làm cho
người lao động. Thời gian bóc lột man rợ của tầng lớp đặc quyền “tư sản
đỏ” này ở Việt Nam đã kéo dài ít nhất 45 năm, (từ 30.4.1975), tính ra đã
đủ, và như có người đã nói, người
CS của bên thắng cuộc “không thể cứ mài mãi lịch sử ra để mà
sống”; họ phải biết khôn và biết chỗ dừng lại đúng lúc, nếu muốn được
tồn tại yên ổn, được sự chấp nhận lâu dài của người dân. Kết quả là đến
lúc này, tất cả những tài sản tích luỹ được không kể nguồn gốc của bất
kỳ ai, của con cháu cán bộ nhà nước hay của nhà doanh nghiệp, đều tất
nhiên sẽ được phân tán trở lại vào các công trình đầu tư hợp pháp được
tổ chức lại trên những nền tảng hoàn toàn mới của thể chế kinh tế-chính
trị sẽ được tái cấu trúc hợp lý hơn theo hướng tư nhân hóa các hoạt động
kinh tế hầu có thể xoá dần tệ nạn tham nhũng một cách căn cơ và lâu dài.
Từ những thực tế
sinh động và trên cơ sở nhận thức vấn đề một cách khách quan như trên,
chúng tôi mạnh dạn đề nghị thực hiện các gợi ý như sau đây, chúng tôi
xin thử nêu ra chỉ với tính cách tham khảo: Đối với một số người “lỡ”
đang bị ngồi tù về tội tham nhũng, cần động viên gia đình họ nộp bớt lại
một phần tài sản cho quốc gia dưới hình thức nhà cửa hoặc tiền mặt để
chuộc tội và để được phóng thích. Số tài sản quốc gia nhận lại được sẽ
được công khai minh bạch cho dân biết, rồi giao cho một ủy ban đặc trách
của chính phủ quản lý, với
người đứng đầu trong sạch, từ đó phân bổ ra để cung ứng cho các chương
trình thuộc an sinh xã hội phục vụ người nghèo. Đối với một số “đại gia”
giàu sụ nhờ tham nhũng mà vì lý do nào đó chưa bị xử án vào tù, cũng sẽ
không truy tố mà áp dụng biện pháp động viên tương tự, tạo điều kiện để
họ dùng tiền vào công việc từ thiện, cấp học bổng cho học sinh nghèo,
hoặc tài trợ, đầu tư cho các công trình phúc lợi như xây cất bệnh viện,
trường học, cầu cống, chùa chiền, trại nuôi trẻ mồ côi…. Các loại đối
tượng này, mặc dù không truy tố nhưng vẫn phải nắm . hồ sơ lý lịch tham
nhũng của họ; trong thời gian nhất định, cấm họ không được ra nước ngoài
định cư để giữ lại nguồn tiền tiêu dùng và nguồn vốn đầu tư trong nước;
nếu họ không “cải hóa tự tân” hướng thiện, tiếp tục vi phạm luật pháp
để trục lợi bất chính, lúc đó sẽ
ra tay trừng trị nặng theo đúng luật mới dành cho tội phạm tham nhũng,
cũng chưa muộn.
Do hoàn cảnh đặc
biệt riêng của mỗi nước, chúng ta nhất định không rập khuôn theo phương
châm “đả hổ diệt ruồi” kiểu Trung Quốc, mà áp dụng chính sách nhân hậu
“tiên lễ hậu binh”, trước thuyết phục sau cưỡng chế, trước động viên sau
mới dùng tòa án, bỏ qua lỗi cũ và chỉ tính tội mới, chính là để ổn định
nhân tâm và dung hòa lợi ích giữa các bên, trong đó người dân cũng được
lợi theo, và ta sẽ lấy quyền lợi của nhân dân làm luật pháp tối thượng.
Vì công cuộc phòng chống quốc bệnh tham nhũng
vốn không thể tách rời khỏi việc cải chế, nên cần thiết phải tính toán
đến những bước đi ôn hòa, tiệm tiến và có tính hiện thực khả thi về mặt
chính trị, tránh trường hợp có thể gây nên tình trạng động loạn mới, dẫn
đến mất kiểm soát kiểu mới. Tại đây, xin
được nhắc lại bằng cách tóm tắt ý chính một số đề nghị đã nêu trong bản
tuyên bố quan điểm của câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng hồi cuối tháng 10.2020
vừa qua, đó là việc cần phải
gấp rút cải chế
về đất
đai và về tư pháp.
Theo chúng tôi, một
trong những nội dung cải chế có tính đột phá khẩu để ổn định tình hình
chính trị hiện nay và phòng chống được tham nhũng là cần khởi đầu từ
việc sửa đổi chính sách sở hữu về đất đai, vì đây là một trong những
trung tâm điểm của những vụ tham nhũng phổ biến gây nên tình trạng động
loạn xã hội uy hiếp sự tồn tại của chế độ từ trước tới nay. Quy định
“Đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý” ghi trong Hiến pháp 2013 (Điều 53) và
trong Luật Đất đai 2003 (Điều 5) cần được xem xét sửa chữa. Đây cũng là
một ý quan trọng đã được Thủ tướng Chính phủ đề cập trong phiên họp Quốc
hội ngày 10.11.2020 vừa qua, nói trúng vào thực chất vấn đề mà chúng tôi
hết sức hoan nghênh ủng hộ.
Vấn đề cốt lõi thứ
hai, đó là việc tiến hành cải cách tư pháp, bằng cách để cho tư pháp độc
lập với chính quyền, vì hoạt động xét xử của tòa án phải công minh, đúng
pháp luật, không có sự can thiệp tùy tiện của Đảng thì mới chống được
nạn đặc quyền và trừ được quốc bệnh tham nhũng một cách hiệu quả. Với
tình trạng thiếu tính độc lập của ngành tư pháp như trước nay, nạn tham
nhũng chẳng những không bị trừng trị đích đáng theo đúng pháp luật mà
còn phát triển ngày càng tăng nặng cả về số lượng lẫn quy mô vụ án.
Trong khi chưa tiện nói đến đa nguyên đa đảng và tam quyền phân lập một
cách rạch ròi, chúng tôi coi việc cải cách tư pháp theo hướng nêu trên
như một động thái mở đầu tương đối nhẹ nhàng của quá trình cải chế, theo
hướng đi từ cái cụ thể đến cái tổng quát, để l dần được mở rộng thêm.
Để đảm bảo cải cách tư pháp hiệu quả, cần phát động một phong trào toàn
Đảng toàn dân thực thi hiến pháp, vì chỉ có thông qua con đường thực thi
đúng các điều khoản đã ghi trong hiến pháp, quốc gia mới được trị yên
theo pháp luật và nhờ thế các quyền công dân mới được bảo vệ, các giá
trị dân chủ mới được nảy nở, điều kiện chủ yếu để khắc phục quốc bệnh
tham nhũng thúc đẩy đất nước và xã hội tiến lên.
Công việc tiếp theo là phải tu chính hiến pháp, bầu
lại Quốc hội theo thể thức thật sự dân chủ (không có nạn cơ cấu, hiệp
thương… như một thể thức xếp đặt sẵn trước),
sửa lại một số điều luật trong những luật sẵn có, soạn thêm một vài luật
mới cho phù hợp với đường hướng cải chế, đổi mới CNXH, thực hiện cuộc
cách mạng ôn hòa lần thứ hai cũng do ĐCSVN lãnh đạo.
Ngoài ra, để khống
chế quốc bệnh tham nhũng, chúng
tôi xin đề nghị thêm một số việc cần làm, cụ thể như sau:
- Thực hiện đầy đủ
và trên thực chất các quyền tự do của công dân như Hiến pháp 2013 đã
ghi, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí, biểu tình, lập hội...
(Điều 25 Hiến pháp). Cho phép tư nhân ra báo và ra nhà xuất bản, hoạt
động theo khuôn khổ của Luật Báo chí và Luật Xuất bản; đặc biệt coi báo
chí là “đệ tứ quyền”, một công cụ hữu hiệu để phản biện, điều chỉnh các
hành vi chính quyền, trong đó có việc phát hiện, tố cáo và bài trừ tham
nhũng, như tất cả các nước văn minh đã làm rất thành công. Để cho báo
chí thật sự được tự do, đề nghị sáp nhập Ban Tuyên giáo Trung ương vào
Bộ Thông tin-Truyền thông, biên chế nhân sự của Ban Tuyên giáo cũng được
gộp chung vào Bộ này, hình thành đội ngũ hùng hậu và chất lượng cao để
tập trung lo phát triển các sự nghiệp đích thực về văn hóa (chứ không
chỉ làm những việc tuyên truyền giả dối không còn ai tin như từ trước
tới nay…).
- Về kinh tế, phải
tiếp tục thực hiện quá trình phi quốc doanh hóa, tiến tới một nền kinh
tế cơ bản là tư nhân, để mỗi tài sản đều có chủ hẳn hoi, hầu tránh được
nạn ăn cắp và lãng phí.
- Giảm hẳn một số
hạng mục dự án công trình thuộc loại chưa cấp bách (thà ít mà tốt!), trừ
trường hợp đối với trường học, bệnh viện (đang thiếu). Trước mắt cấm
tuyệt một số loại công trình vô ích như xây dựng các tượng đài, cổng
chào… ở các địa phương tỉnh, huyện, xã… Việc làm này vừa để tránh nạn
tham nhũng xen vào xà xẻo của công, vừa để tập trung vào quỹ lương nhằm
tăng lương đáng kể cho đội ngũ cán bộ công chức từ nhân viên cấp phường
xã đến chủ tịch nước.... Tăng lương là một trong những giải pháp cơ bản
nhất mà mọi quốc gia văn minh đều đã áp dụng để nâng cao tinh thần trách
nhiệm của người công chức nhà nước, góp phần hạn chế được nạn tham
nhũng. Đối lại, hạn chế được quốc bệnh tham nhũng thì ngân sách nhà nước
được bảo vệ, quỹ lương cũng sẽ được tăng lên, nhờ vậy mà việc tăng lương
phổ biến cho cán bộ công nhân viên là có tính khả thi.
-
Tùy theo tình hình thực tế cho
phép , giải thể dần dưới hình thức bán lại cho tư nhân những tổ chức
kinh doanh thuộc các cơ quan đơn vị của
Bộ Quốc Phòng và Bộ Công An, để giữ được tính khách quan và bình đẳng
giửa các thành phần kinh tế . Ngành Công
an chỉ chuyên lo trật tự an ninh , ngành Quốc Phòng chỉ chuyên lo Bảo vệ
tổ quốc.
- Mở các đợt sinh
hoạt chính trị rộng rãi từ các cơ quan, trường học xuống tận tổ dân phố
các phường xã trên toàn quốc về phòng chống tham nhũng.
Giảm bớt tối đa các
khẩu hiệu /bích chương/ pano vô ích tốn kém, thay vào đó là khẩu hiệu “
Toàn Đảng toàn dân kiên quyết phòng chống tham nhũng” ….dán các
nơi công cộng , trong phòng làm việc thuộc các cơ quan Đảng , nhà nước .
Ngày 27 tháng 11
năm 2020
Trân trọng
Lê Thân
(Câu lạc bộ Lê Hiếu
Đằng)
Tác giả gửi cho viet-studies
ngày 27-11-2020
|