Stephen
Kotkin:
Communism’s Bloody
Century Người dịch: Hiếu Chân
Thế kỷ máu của chủ nghĩa cộng sản Stephen Kotkin
Một trăm năm kể từ cuộc đảo chính
của Lenin ở Nga, cái ý thức hệ dấn thân cho sự nghiệp xóa bỏ thị trường
và quyền tư hữu đã để lại một
chặng đường dài hủy
diệt và chết chóc. Tầm
tuần này một thế kỷ trước, chủ nghĩa cộng sản chiếm được đế quốc Nga,
đất nước lớn nhất thế giới tại thời điểm đó. Các phong trào thiên tả đủ
loại đã lan tràn trong chính trị châu Âu trước khi diễn ra cuộc cách
mạng ngày 25 tháng Mười năm 1917 (trùng vào ngày 7 tháng Mười Một theo
lịch cải cách của Nga), nhưng Vladimir Lenin và những người
bolsheviks của ông thì khác
hẳn. Họ không chỉ mang một
niềm tin hoang tưởng mà còn linh hoạt trong chiến thuật và may
mắn hơn các đối thủ. Chủ
nghĩa cộng sản đi vào lịch sử như là sự kết tội chủ nghĩa tư bản, kịch
liệt nhưng đầy chất lý tưởng, và hứa hẹn một thế giới tốt đẹp hơn. Những
người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản, cũng như những người cánh tả khác, đều
đổ lỗi cho chủ nghĩa tư bản đã gây ra tình trạng bi thảm của nông dân và
công nhân cũng như sự lan tràn của lao động nhập cư và lao động trẻ em.
Những người cộng sản nhìn thấy cuộc tàn sát trong Chiến tranh Thế giới
lần thứ Nhất như là hậu quả trực tiếp của sự cạnh tranh khốc liệt giữa
các cường quốc để giành giật thị trường nước ngoài.
Nhưng một thế kỷ cầm quyền của chủ nghĩa cộng sản – mà ngày nay vẫn còn
đứng vững ở Cuba, Bắc Hàn và Trung Quốc – đã làm rõ cái giá
phải trả về nhân
mạng của một chương trình chính trị quyết tâm lật đổ chủ nghĩa tư bản.
Hết lần này đến lượt khác, nỗ lực xóa bỏ thị trường và quyền tư hữu đã
gây ra cái chết của một số lượng người đáng kinh ngạc. Từ năm 1917 - ở
Liên xô, Trung quốc, Mông cổ, Đông Âu, Đông Dương, Phi châu, Afghanistan
và nhiều nước châu Mỹ Latin – chủ nghĩa cộng sản đã làm thiệt mạng ít
nhất 65 triệu người, theo nghiên cứu cẩn thận của các nhà dân số học.
Những công cụ hủy diệt của chủ nghĩa cộng sản bao gồm việc trục xuất
hàng loạt, các trại cưỡng bức lao động và sự khủng bố của nhà nước cảnh
sát – một mô hình được lập
ra bởi Lenin và đặc biệt là người kế tục ông là Joseph Stalin. Mô
hình này được nhân rộng nhiều nơi. Dù chủ nghĩa cộng sản đã cố ý giết
chết một lượng lớn người dân nhưng thậm chí còn nhiều nạn nhân hơn đã
chết vì nạn đói - hậu quả của những dự án tàn bạo về cải tạo xã hội. Với
những tội ác mang “tầm
sử thi” này, Lenin và Stalin phải chịu trách nhiệm cá nhân, cũng như Mao
Trạch Đông ở Trung Quốc, Pol Pot ở Cambodia, gia
tộc họ Kim ở Bắc
Hàn và các nhà độc tài
cộng sản khác ít tàn bạo hơn. Nhưng chúng ta đừng bỏ qua các ý tưởng đã
thôi thúc những kẻ độc ác này tàn sát con người trên quy mô lớn như vậy,
cũng đừng quên cái bối cảnh dân tộc
thôi thúc họ đi
theo các ý tưởng này. Sự
nghiệp chống chủ nghĩa tư bản hấp dẫn họ do tính đúng đắn của
chính nó và trong tâm trí họ, đó cũng là công cụ để các quốc gia chậm
tiến nhảy vọt lên, đứng vào hàng ngũ các cường quốc. Giờ
đây, cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa đã lụi tàn, nhưng một trăm năm
của nó, xét như một sự nghiệp vĩ đại chống chủ nghĩa tư bản, vẫn đòi hỏi
một sự phân xử thích hợp. Vào
tháng Hai năm 2017, Nga hoàng Nicholas đệ Nhị thoái vị dưới áp lực của
các tướng lĩnh,
những người lo ngại rằng các cuộc biểu tình và tuần hành đòi cơm áo ở
thủ đô St. Petersburg đang xói mòn nỗ lực chiến tranh chống Đức và các
nước đồng minh của nó. Cuộc Cách mạng tháng Hai, như tên gọi biến cố ấy,
lập ra một chính phủ lâm thời không do người dân bầu lên; chính phủ này
cầm quyền mà không có một nghị viện dân cử. Nông dân bắt đầu giành lấy
ruộng đất và các xô-viết (tức là
các ủy ban chính
trị) bắt đầu được thành lập trong binh lính ở chiến trường, cũng giống
như các xô-viết đã được lập ra trước đó trong các nhóm chính trị ở đô
thị. Mùa
thu năm ấy, khi chiến tranh diễn ra ngày càng dữ dội, những người
bolshevik
của Lenin đã tiến hành một cuộc khởi nghĩa vũ trang, huy động được có lẽ
không quá 10.000 người. Cuộc đảo chính của họ không nhắm
lật đổ chính phủ
lâm thời từ lâu đã trở nên dở sống dở chết; thay vì vậy họ chống lại các
xô-viết chính ở thủ đô do những người xã hội chủ nghĩa ôn hòa hơn thống
trị. Cuộc Cách mạng tháng Mười bắt đầu là một cuộc lật đổ chớp nhoáng mà
những người cánh tả cấp tiến thực hiện để chống lại phần còn lại của
cánh tả, thành phần tố cáo những người
bolshevik vi
phạm quy tắc và sau đó đã
bỏ ra khỏi các xô-viết.
Những người
bolshevik, cũng
như nhiều đối thủ của họ - là môn đệ trung thành của Karl Marx, nhà tư
tưởng cho rằng đấu tranh giai cấp là động lực vĩ đại của lịch sử. Cái mà
ông gọi là chế độ phong kiến sẽ phải nhường chỗ cho chủ nghĩa tư bản,
rồi đến lượt mình, chủ nghĩa tư bản sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng
sản và cuối cùng là một thế giới đại đồng không tưởng xa xăm! Marx hình
dung ra một kỷ nguyên mới của tự do và sung túc, và điều kiện tiên quyết
của nó là sự phá hủy “chế độ nô lệ tiền lương” và sự bóc lột của chủ
nghĩa tư bản. Như ông và người cộng sự Friedrich Engels từng tuyên bố
trong Tuyên ngôn Cộng sản năm 1848, học thuyết của họ “có thể được tóm
gọn trong một câu đơn nhất: bãi bỏ quyền tư hữu”. Một
khi đã giành được quyền lực vào đầu năm 1918, những người
bolshevik
tự đổi tên thành đảng Cộng sản và họ tìm cách buộc nước Nga phải
cấp tốc đi lên chủ
nghĩa xã hội, đi tới giai đoạn cuối cùng của lịch sử. Hàng triệu người
bắt đầu tập sống theo những phương cách mới. Tuy nhiên không ai biết
chính xác xã hội mới sẽ ra làm sao. “Chúng tôi không thể mô tả đặc điểm
của chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi không biết, chúng tôi không thể nói chủ
nghĩa xã hội sẽ như thế nào khi nó đạt đến hình thức hoàn
hảo của nó”, Lenin
kết luận như vậy vào tháng Ba năm 1918.
Nhưng với họ có một điều rõ ràng: chủ nghĩa xã hội không giống chủ nghĩa
tư bản. Chế độ xã hội chủ nghĩa thay thế quyền tư hữu bằng sở hữu tập
thể, thị trường thay bằng kế hoạch hóa và các nghị viện “tư sản” thay
bằng “quyền lực nhân dân”. Tuy vậy
vào thời điểm đó ngay
cả một số người cộng sản
đã rút ra kết luận
là trong thực tế không thể nào thực hiện được kế hoạch hóa khoa
học. Còn công cuộc tập thể hóa quyền
tư hữu
đã đem lại quyền
lực không phải cho nhân dân mà cho nhà nước. Quá
trình do người cộng sản phát động đã kéo theo sự bành trướng rộng rãi
một guồng máy công an mật vụ để xử lý các vụ bắt bớ, lưu đày
trong nước và hành
quyết những “kẻ thù giai cấp”. Sự truất hữu các nhà tư bản cũng làm giàu
cho một giai cấp mới các cán bộ nhà nước, những người nắm quyền kiểm
soát tài sản quốc gia. Tất cả các đảng phái và quan điểm nằm bên ngoài
học thuyết chính thống đều bị đàn áp, chính trị như là một cơ chế để
điều chỉnh bị xóa bỏ.
Những mục tiêu được tuyên bố của cuộc cách mạng năm 1917 là sự sung túc
và công bằng xã hội, nhưng sự tiêu diệt chủ nghĩa tư bản đã sinh ra
những cơ cấu làm cho các mục tiêu đó không bao giờ đạt được. Ở
khu vực đô thị, chế độ xô-viết có khả năng dựa vào lực lượng công nhân
nhà máy có vũ trang, những người mới kết nạp đảng đầy nhiệt huyết và
công an chìm, dựa vào những người trẻ nôn nóng xây dựng thế giới mới.
Nhưng ở nông thôn, người nông dân – có khoảng 120 triệu người như vậy –
đã thực hiện cuộc cách mạng của riêng họ, lật đổ giới quý tộc và thiết
lập trong thực tế quyền sở hữu ruộng đất của nông dân. Với
một đất nước bị tàn phá đang đi tới bờ vực của nạn đói, Lenin bắt buộc
các cán bộ đảng còn miễn cưỡng phải chấp nhận cuộc cách mạng riêng rẽ
của nông dân trong thời điểm đó. Ở nông thôn một nền kinh tế gần giống
kinh tế thị trường vẫn được cho phép vận hành, bất chấp sự phản đối của
các đảng viên cộng sản thuần túy. Khi
Lenin qua đời vào năm 1924, sự nhân nhượng với nông dân đã trở thành vấn
đề của Stalin. Cho đến năm 1928, có chưa tới 1% diện tích đất canh tác
đã được hợp tác hóa một cách tự nguyện. Vào thời điểm ấy, phần lớn các
nhà máy chủ yếu đều đã do
nhà nước làm chủ và chính quyền đã cam kết một kế hoạch 5 năm công
nghiệp hóa. Các nhà cách mạng bực tức khi thấy giờ đây Liên xô có hai hệ
thống không tương thích với nhau – chủ nghĩa xã hội ở thành phố và chủ
nghĩa tư bản ở làng quê.
Stalin đã không trì hoãn. Ông áp đặt công cuộc tập thể hóa cưỡng bức
trên toàn quốc, từ ven biển Baltic tới ven bờ Thái Bình Dương, bất chấp
những cuộc nổi loạn của quần chúng nông dân. Ông đe dọa các cán bộ đảng,
bảo họ rằng nếu như họ không nghiêm túc trong việc xóa bỏ chủ nghĩa tư
bản, họ hãy chuẩn bị sẵn sàng để giao quyền lực cho những nhà tư sản
đang nổi lên ở nông thôn. Ông kích hoạt cuộc chiến tranh giai cấp chống
lại “kulak” (trung nông và
điền chủ), và bất cứ ai bảo vệ họ, áp đặt hạn ngạch
(quota) cho việc bắt bớ tràn
lan và lưu đày nội địa.
Stalin nói rõ nguyên lý cơ bản về ý thức hệ của ông: “Chúng ta có thể
phát triển nông nghiệp theo kiểu
kulak, kiểu nông trại cá nhân,
bên cạnh trang trại
quy mô lớn” giống như ở “Mỹ và các nước khác” hay không? Ông hỏi.
“Không, chúng ta không thể. Chúng ta là đất nước Xô-viết. Chúng ta muốn
xây dựng một nền
kinh tế tập thể, không chỉ trong công nghiệp mà cả trong nông nghiệp”. Và
ông đã không bao giờ thoái lui, ngay cả khi, do hậu quả các chính sách
của ông mà đất nước Nga rơi vào một nạn đói nữa vào các năm 1931-1933.
Tập thể hóa cưỡng bức trong mấy năm ngắn ngủi đó đã cướp đi sinh mạng
của khoảng từ 5 đến 7 triệu người.
Tiền lệ khủng khiếp của Liên xô đã không ngăn cản được các nhà cách mạng
cộng sản khác. Mao Trạch Đông, một người cứng rắn như Stalin, đã vươn
lên vị trí cao nhất của phong trào cộng sản Trung Hoa và vào năm 1949,
ông và các đồng chí của ông trở thành người chiến thắng trong cuộc nội
chiến ở Trung Quốc. Mao đã thấy cái giá nhân mạng khổng lồ trong cuộc
thử nghiệm của Liên xô như là yếu tố nội tại của thành công!
Chính sách Đại Nhảy Vọt của Mao, một chiến dịch bạo lực diễn ra từ 1958
tới 1962, là nỗ lực tập thể hóa khoảng 700 triệu nông dân Trung Quốc và
mở rộng công nghiệp về nông thôn. “Ba năm lao động cần cù và chịu đựng
[để có] ngàn năm thịnh vượng”, là một trong những câu khẩu hiệu nổi bật
thời đó.
Các
báo cáo sai lệch về những vụ thu hoạch thắng lợi và nông dân sung sướng
vui vẻ tràn ngập các khu nhà ở được cung cấp đầy đủ của giới tinh hoa
cộng sản cầm quyền ở Bắc Kinh. Nhưng trong thực tế, chương trình của Mao
đã dẫn tới một trong những nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử, làm
chết đói khoảng từ 16 đến 32 triệu người. Sau thảm họa, mà những người
sống sót nói tới như là
“làn gió cộng sản”, Mao dập tắt hết những lời kêu gọi ngừng tập
thể hóa nông nghiệp. Như ông từng tuyên bố: “nông dân muốn tự do nhưng
chúng ta muốn chủ nghĩa xã hội”.
Những mất mát khủng khiếp này vẫn không ngăn chặn được sự lặp lại tính
tàn bạo cộng sản nhân danh
xóa bỏ chủ nghĩa tư bản. Sau khi chinh phục được Cambodia vào năm
1975, Pol Pot và phe Khmer Đỏ của ông ta đã đuổi hàng triệu người ra
khỏi các thành phố, đẩy họ
về nông thôn làm
việc trong các công xã và các dự án cưỡng bức lao động. Họ tìm
cách biến Cambodia thành một xã hội thuần nông không có giai cấp.
Khmer Đỏ bãi bỏ đồng tiền, cấm đánh bắt cá để kinh doanh, hành
quyết các tu sĩ Phật giáo, Hồi giáo; các cộng đồng thiểu số gốc Việt và
gốc Hoa của đất nước bị coi là “kẻ xâm nhập”. Chế độ của Pol Pot cũng
tập trung trẻ em để ngăn ngừa việc chúng bị
lây nhiễm ý thức hệ
từ cha mẹ “tư bản” của chúng.
Được biết đã có khoảng 2 triệu người Cambodia, tương đương một phần tư
dân số vào thời ấy, đã chết
vì đói
rét, bệnh tật, bị hành quyết hàng loạt trong bốn năm ác mộng dưới
ách cai trị của Pol Pot. Ở một số khu vực, ao chuôm nào
đào lên cũng thấy
sọ người.
Phân tích về giai cấp của Marx
bác bỏ tính chính
danh của mọi phong trào chính trị đối lập, không chỉ từ các phần tử “tư
sản” mà từ ngay bên trong các phong trào cộng sản – bởi vì những người
đối lập phục vụ “một cách khách quan” cho lợi ích của trật tự tư bản
quốc tế. Cái lô-gic về cách mạng không ngừng nghỉ chống chủ nghĩa tư bản
sẽ chỉ tới một lãnh
tụ duy nhất trên đỉnh một hệ thống độc đảng. Từ
Nga tới Trung Quốc, từ Bắc Hàn tới Cuba, các nhà độc tài cộng sản đều
chia sẻ những đặc điểm chung chủ yếu. Tất cả đều ít nhiều tuân theo
khuôn mẫu của Lenin: một sự pha trộn hệ tư tưởng đấu tranh với những thủ
đoạn vô nguyên tắc. Và tất cả đều có sức mạnh ý chí tuyệt vời – điều
kiện tiên quyết để thủ đắc những gì chỉ
có sự đổ máu không
tính nổi mới có thể mang lại. Tuy
nhiên, trong
thế kỷ vừa qua chủ nghĩa cộng sản không phải là tác nhân duy nhất thực
hiện các vụ tàn sát. Sự đàn áp của chủ nghĩa quốc xã
(Nazi), những cuộc chiến
tranh thanh lọc sắc tộc cũng đã giết hại khoảng 40 triệu người. Và trong
thời Chiến tranh Lạnh, phong trào chống cộng
sản đã kích hoạt
những cơn bùng phát bạo động bất ngờ và dữ dội ở Indonesia, châu Mỹ
Latin và nhiều nơi khác.
Nhưng bằng chứng về nỗi kinh hoàng cộng sản nổi lên liên tục trong nhiều
thập niên đã gây sốc nặng cho những người cánh tả và theo tư tưởng tự do
ở phương Tây, những người
cùng chia sẻ nhiều mục tiêu công bằng
xã hội của các nhà
cách mạng. Nhiều người phản đối Liên xô đã làm méo mó chủ nghĩa xã hội,
và quy những tội ác của chế độ Xô-viết cho tình trạng lạc hậu của nước
Nga, cho tính khí của Lenin và Stalin. Dù sao, Marx không bao giờ ủng hộ
việc tàn sát hàng loạt hoặc các trại lao động kiểu
Gulag. Không tìm đâu thấy ông
biện luận rằng công an chìm, trục xuất người trên xe chở súc vật và chết
đói hàng loạt là những biện pháp nên dùng để thiết lập các trang trại
tập thể.
Nhưng nếu chúng ta phải học có một bài học từ một thế kỷ cộng sản thì đó
chính là: để thực thi các lý tưởng của Marx thì cần phải phản bội chúng.
Đòi hỏi của Marx “bãi bỏ quyền tư hữu” là tiếng kèn xung trận kêu gọi
hành động – nhưng cũng là con đường kiên định dẫn tới sự hình thành nhà
nước đàn áp, không bị kiểm soát. Một
số nhà xã hội chủ nghĩa bắt đầu nhận ra rằng, không thể có tự do nếu
không có thị trường và sở hữu tư nhân. Khi họ bắt đầu giải hòa với sự
tồn tại của chủ nghĩa tư bản, hy vọng sẽ điều tiết thay vì
xóa bỏ nó, họ bị
cáo buộc là những kẻ phản bội. Theo thời gian, ngày càng có nhiều nhà xã
hội chủ nghĩa chấp nhận kiểu nhà nước phúc lợi, hoặc kinh tế thị trường
có sự phân phối. Nhưng tiếng
còi kêu gọi vượt
qua chủ nghĩa tư bản vẫn còn vang vọng trong một số người cánh tả.
Những thành trì cố thủ quan trọng của thế kỷ cộng sản vẫn còn
tồn tại, dù không
theo kiểu Marxist chính thống, ở Nga và Trung Quốc. Cả hai quốc gia này
vẫn tiếp tục hoài nghi những gì có lẽ là quan trọng nhất của thị trường
tự do và sở hữu tư nhân: khả năng đem lại cho người dân thường sự độc
lập trong suy nghĩ và hành động, cho họ quyền theo đuổi những lợi ích
của chính họ mà họ thấy phù hợp, trong đời sống riêng tư, xã hội dân sự
và không gian chính trị.
Nhưng chống chủ nghĩa tư bản
còn được sử dụng
như một chương trình thay thế trật tự thế giới bằng một trật tự mới,
trong đó những mục tiêu dân tộc chủ nghĩa từ lâu bị đè nén sẽ được hiện
thực hóa. Đối với Stalin và Mao, người thừa kế những nền văn minh cổ đầy
tự hào, châu Âu và Hoa Kỳ đại diện cho sức cám dỗ và mối đe dọa của một
phương Tây siêu việt. Những người cộng sản tự đặt ra cho mình nhiệm vụ
phải đuổi kịp và vượt qua các đối thủ tư bản chủ nghĩa và giành cho đất
nước mình vị thế trung tâm trên sân khấu quốc tế. Cuộc đấu tranh cách
mạng cho phép nước Nga thỏa mãn cái ý thức kéo dài nhiều thế kỷ về sứ
mệnh đặc biệt của mình trên thế giới, trong khi nó cho Trung Quốc cơ hội
để tuyên xưng một lần nữa là Vương quốc Trung tâm. Sự
chống đối phương Tây của Vladimir Putin, cùng với sự pha trộn đặc thù
của ông trong đó
niềm hoài vọng về thời đại Xô-viết
hòa với sự phục hồi
Chính thống giáo Nga, được xây dựng trên tiền lệ của Stalin. Về phần
mình, tất nhiên Trung Quốc vẫn là cường quốc cộng sản cuối cùng, ngay cả
khi Bắc Kinh quảng bá và cố gắng kiểm soát một nền kinh tế phần lớn là
thị trường. Giờ đây, dưới
quyền ông Tập Cận Bình, đất nước này vừa đi theo hệ tư tưởng cộng sản
vừa khai thác văn hóa truyền thống Trung Hoa trong nỗ lực nâng cao vị
thế quốc gia như là một sự thay thế phương Tây. Thế
kỷ máu của chủ nghĩa cộng sản đã đi tới
lúc kết thúc, và
chúng ta có thể bày tỏ niềm vui về sự lụi tàn của nó. Nhưng những khía
cạnh đáng lo ngại
trong di sản của nó thì vẫn còn dai dẳng!
Stephen Kotkin là giáo sư sử học
và quan hệ quốc tế đại học Princeton và nghiên cứu viên cao cấp tại Viện
Hoover của đại học Stanford. Cuốn sách mới nhất của ông, “Stalin: Chờ
đợi Hitler, 1929-1941” vừa được Penguin Press xuất bản tháng trước.
|