Trích từ "Việt Nam: hôm nay và ngày mai", do Trần Văn Thọ và Nguyễn Xuân Xanh chủ biên,
Ban Tu thư Đại học Hoa Sen và Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản và phát hành, 2021.

 

 

Dẫn nhập

Từ hôm nay nghĩ về ngày mai Việt Nam

 

Trần Văn Thọ

Nguyễn Xuân Xanh

  

   Nước Việt Nam thân yêu của chúng ta đang ở trên đường phát triển nhưng còn đối diện nhiều vấn đề mà trí thức cần đóng góp trí tuệ để góp phần làm cho tương lai đất nước tốt đẹp hơn. Nhìn từ góc độ nào, từ văn hóa, giáo dục, y tế đến kinh tế, xã hội, nghiên cứu khoa học, ta đều thấy có nhiều vấn đề cần cải cách, cải thiện, trong đó không ít vấn đề làm mình bức xúc. Dân số nước ta sắp đạt 100 triệu. Hiếm có nước nào đông dân như thế mà có sự thống nhất cao về văn hóa, ngôn ngữ, và hầu như không có mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo. Một nước có các tính chất đó rất dễ phát triển thành một nước tiên tiến. Tiềm năng để Việt Nam trở thành một nước giàu mạnh là rất lớn. Nhưng những vấn đề, những bức xúc về nhiều mặt hiện nay phải được giải quyết thì tiềm năng mới được khơi dây. Năm nay (2020) ngẫu nhiên có nhiều sự kiện mở đầu một giai đoạn mới của Việt Nam: Hậu đại dịch Covid-19, kỷ niệm 75 năm Quốc khánh, 45 năm từ ngày có hòa bình và thống nhất đất nước, đón một thập niên mới đánh dấu bằng Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, v.v.. Nhân cơ hội nầy, trước những vấn đề cần giải quyết, chúng ta có thể phát đi một thông điệp, đưa ra các ý tưởng để góp phần thúc đẩy đất nước phát triển không?

 

         Đó là suy nghĩ chung của chúng tôi, những người tham gia thực hiện cuốn sách nầy. Nhưng còn một lý do nữa để viết cuốn sách nầy. Chúng tôi muốn làm một món quà văn hóa để tăng người bạn thân thiết và khả kính, Giáo sư Cao Huy Thuần, Giáo sư Danh dự Đại Học Picardie (Pháp). Vừa bước qua tuổi bát tuần, anh Thuần tuy làm việc và sinh sống tại Pháp, chủ yếu giảng dạy và nghiên cứu về chính trị, luật học, văn hóa, tôn giáo, nhưng luôn hướng về tổ quốc, mong muốn đất nước phát triển. Tặng anh Cao Huy Thuần chúng tôi không làm theo cách thường thấy, nghĩa là không viết về anh Thuần (dù chúng ta có rất nhiều kỷ niệm đối với anh), không đánh giá, bình luận về hoạt động khoa học và giáo dục của anh (dù việc nầy rất đáng làm), mà viết một cuốn sách về các vấn đề hiện nay của Việt Nam, những vấn đề mà chính anh Thuần cũng từng trăn trở.

 

I

         

Giáo sư Cao Huy Thuần sinh năm 1937 tại Bình Sơn, Quảng Ngãi. Sau 1945 về Huế, chánh quán của gia đình, học trung học tại trường Khải Định (Quốc Học) rồi vào Saigon học Đại Học Luật và từ năm 1962 dạy Luật tại Đại Học Huế. Cuối năm 1964 anh nhận học bổng của chính phủ Pháp và sang Paris du học. Sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại Học Paris đầu năm 1969, anh được bổ nhiệm giảng dạy tại Đại Học Paris, sau đó chuyển sang Đại Học Lille rồi Đại Học Picardie (tại đây anh kiêm nhiệm Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Cộng đồng châu Âu). Anh về hưu với chức danh Giáo sư Danh dự Đại học Picardie. Anh là tác giả hoặc đồng tác giả của hàng chục bài nghiên cứu và hơn chục tác phẩm bằng tiếng Pháp. 

Giáo sư Cao Huy Thuần cũng là người gắn bó nhiều với quê hương. Do những đóng góp to lớn cho sự nghiệp văn hóa và giáo dục Việt Nam, năm 2017 anh được trao Giải văn hóa Phan Châu Trinh vì sự nghiệp đó. Thay mặt ban chủ trương trao giải, nhà văn Nguyên Ngọc đã có những đánh giá chính xác và đầy đủ về Giáo sư Cao Huy Thuần. Dưới đây chúng tôi xin trích một số đoạn chính:

“Những tác phẩm của ông, hầu hết đều đã được xuất bản ở Việt Nam, đều được người đọc ở trong nước đón đợi…. Ông thuộc thế hệ những nhà trí thức và hoạt động văn hóa xuất hiện ở miền Nam đầu những năm 1960, đã tham gia cuộc vận động chống áp bức, đòi hòa bình, phát huy văn hóa dân tộc trong hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt thời bấy giờ. Năm 1964, khi là giảng viên đại học Huế, ông chủ trương tuần báo Lập trường, tiếng nói đấu tranh chống độc tài, hướng tới một đất nước thống nhất, tự do và dân chủ. Du học và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về đề tài Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam 1857-1914 vào năm 1969 tại Paris, ông trở thành giáo sư giảng dạy môn chính trị học tại đây. Hơn bốn thập niên qua, giáo sư Cao Huy Thuần được biết đến như là nhà nghiên cứu chuyên sâu về tôn giáo, luật học và chính trị học. Những công trình của ông về mặt này đã xuất bản ở trong nước có Thượng đế, Thiên nhiên, Người, Tôi và ta, Giáo sĩ thừa sai và chính sách của Pháp tại Việt Nam (1857-1914),  Từ Đông sang Tây,  Tôn giáo và xã hội hiện đại.

… Thấm đẫm trong mỗi trang viết của ông là niềm ưu tư về nhân sinh và thế cuộc, từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, tất nhiên tập trung nhất là về chính mảnh đất quê hương này mà ông thiết tha và trăn trở yêu và từng ngày chiêm nghiệm, lo lắng không chỉ trước những suy đồi trong đời sống văn hóa và giáo dục của đất nước, mà cả những biểu hiện khủng hoảng tinh thần và hiểm nguy có tính chất toàn cầu, Cao Huy Thuần tha thiết muốn truyền trao cho con người, cho nhân dân của mình, trước hết là cho thế hệ trẻ những giá trị tinh thần của dân tộc và của nhân loại làm sức mạnh giúp họ đứng vững khi đối mặt với những tác động của một thế giới có nguy cơ sa vào vực thẳm của tuyệt vọng. Lời nói của ông thống thiết mà tinh tế, uyên bác mà giản dị và gần gủi, cao vời mà thầm thỉ tâm sự, nhẹ nhàng và uyển chuyển, lúc như thỏ thẻ lúc như đùa bỡn, không hề lên giọng răn dạy, tạo sức thuyết phục nhẹ và sâu. Văn của Cao Huy Thuần là một thứ văn rất có duyên. Các tản văn của ông tập họp trong các cuốn sách sâu sắc về nội dung, nhuần nhị về nghệ thuật, như Nắng và hoa, Thế giới quanh ta, Thấy Phật, Khi tựa gối khi cúi đầu, Chuyện trò, Nhật ký sen trắng, Sợi tơ nhện, Đến với Phật cùng tôi đã thật sự gõ cửa được tâm hồn con người, có lẽ bắt nguồn từ một nguyên nhân sâu xa: ông là một nhà văn hóa và nhà giáo dục luôn vững tin rằng mặc dầu tất cả, trong tận cùng của mỗi con người vẫn không bao giờ mất đi những hạt mầm của phẩm hạnh. Cao Huy Thuần là người tin rằng chức năng thiêng liêng của nhà giáo dục là luôn giữ vững niềm tin ở những hạt mầm tốt đẹp ấy và bằng mọi cách kiên trì đánh thức nó dậy. Chúng ta cám ơn Cao Huy Thuần vì bài học quý đó”.

Đúng là chúng ta cám ơn Cao Huy Thuần vì những đóng góp quý giá cho đất nước Việt Nam. Chúng tôi mong anh Thuần, người bạn thân thiết, sẽ tiếp tục khỏe mạnh và truyền đi các thông điệp cần thiết cho Việt Nam hôm nay và ngày mai.

 

II

 

Cuốn sách nầy gồm 4 phần, bao gồm gần hết các mặt của đất nước Việt Nam hiện nay. Hầu hết các bài viết phân tích từ góc nhìn những vấn đề hôm nay và gợi ý, phát ra thông điệp cải cách hoặc kiến tạo để Việt Nam có ngày mai thịnh vượng, tươi đẹp. Ở mỗi chương sách đều có phần tóm tắt nhưng ở đây chúng tôi tóm lược ngắn hơn những điểm chính của mỗi phần và mỗi chương.

Phần I (Lịch sử, Văn hóa) gồm 6 chương nhìn lại quá khứ để hướng đến tương lai, từ cấp độ lịch sử dân tộc đến giá trị xưa và nay của Sài gòn, lịch sử đoạn đường nối Huế Đà Nẵng, và vấn đề bảo tồn di sản văn hóa.

Huỳnh Bửu Sơn trong Đoàn kết để cường thịnh – Từ quá khứ nhìn về tương lai cho rằng “Ý thức hệ dân tộc, nhà nước chính danh và một giới tinh hoa yêu nước là 3 nhân tố cần thiết giúp xây dựng đoàn kết thống nhất trong cộng đồng dân tộc”. Đó là điều đặc biệt đúng trong lúc này để “phát huy mạnh mẽ ý thức hệ dân tộc, phát triển giới tinh hoa và tranh thủ sự hưởng ứng của họ, để đoàn kết, bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước cường thịnh.”

Nguyễn Quang Ngọc trong Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa xác nhận lại lịch sử chủ quyền và sự thực thi đầy đủ của các vua Việt Nam đối với hai quần đảo này, cho thấy muộn nhất là từ đầu thế kỷ XVII đã có đội Hoàng Sa xuất hiện. Chỉ từ năm 1909 chính quyền tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) cử người ra Hoàng Sa ngang nhiên tuyên bố đã phát hiện ra quần đảo này và đặt tên là quần đảo Tây Sa mới gây ra cuộc tranh chấp như hiện nay.

Trong Bản sắc đô thị Sài gòn trong bối cảnh Nam bộ, Nguyễn Thị Hậu dựng lại sự hình thành của Sài gòn và vai trò đại diện của nó cho Nam bộ, vừa là thủ phủ của chính quyền thực dân, vừa là trung tâm thương mại nối liền thế giới, có văn hóa đa dạng của những người bản xứ và người đến lập nghiệp, nối liền cả “hệ sinh thái Nam bộ” từ Miền Đông, Trung và Nam bộ trù phú. Sức sống của nó vẫn còn được chứng minh sau 1975 với vai trò “cùng cả nước vì cả nước”.

Trần Hữu Phúc Tiến trong Sài Gòn mỹ lệ xuyên thời gian và không gian khẳng định tính cách đặc biệt của người Sài gòn: đa xứ, đa văn, có máu khai phá của dân “đi về miền Tây” ở Mỹ, từng là Kinh đô Đàng Trong, là thủ đô Đông Dương công nghiệp hóa, là Thủ đô của Quốc Gia Việt Nam, rồi Thủ đô Việt Nam Cộng Hòa; và sau 1975 trở thành căn cứ “chòi đạp” để các “nhà tư sản và tiểu thương từ trong bóng tối khổ đau trở lại thương trường” xác lập lại tên tuổi.

Nguyễn Tùng mô tả lại trong bài Đoạn đường Huế-Đà Nẵng thời xưa những gian nan giao thông của khúc đường này chủ yếu trong thế kỷ 19. Đi từ Huế vào Đà Nẵng phải mất hai ngày: «Đi bộ thì sợ Hải Vân, Đi thủy thì sợ sóng thần hang Giơi». Còn từ Gia Định ra Huế thường phải mất đến 30 ngày! Cảm xúc lần đầu tiên của Paul Doumer: “Dưới kia vịnh Đà Nẵng hiện ra. Thực tuyệt vời!  Không một cảnh quan thần tiên nào của Địa Trung Hải có được cái đẹp và cái hùng tráng này…”

Trong Bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam hiện nay, Thực trạng và Giải pháp, Trần Đức Anh Sơn đưa ra cái nhìn khái quát về lịch sử bảo tồn di sản từ lúc Việt Nam có chính quyền đầu tiên năm 1945, bàn về những khái niệm chuyên môn về di sản văn hóa của Việt Nam và UNESCO, những thành tựu giành được, và những vấn đề còn tồn tại. Hai trường hợp thành công điển hình là Di sản văn hóa Huế, và Quần thể danh thắng Tràng An.

 Phần II (Tư tưởng , Thể chế) gồm 6 chương bàn về những giá trị truyền thống và hiện đại, vấn đề khai sáng thực học, và các vấn đề về cải cách thể chế để đất nước phát triển.

     Theo Trần Ngọc Vương trong Vấn đề chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa quốc gia ở Việt Nam hiện nay,  chủ nghĩa quốc gia ở Việt Nam, khởi đầu từ Triệu Đà, được nối tiếp thông qua mọi thời gian và triều đại hiện hữu trong lịch sử quốc gia - dân tộc, càng về sau càng được củng cố và vun đắp, lành mạnh hơn và toàn diện hơn. Ngoài ra, tác giả cho rằng tư tưởng của Hồ Chí Minh tại nhiều thời điểm có tính dân tộc và đã đi ngược lại tư tưởng chính thống của Đệ tam quốc tế. 

   Độc lập, tự do và phát triển  của Vũ Ngọc Hoàng cho rằng những giá trị Dân chủ, Cộng hòa, Độc lập, Tự do và Hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập 75 năm trước cần được bảo vệ trước “sự tha hóa quyền lực” đã diễn ra lâu năm do thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực và thực thi dân chủ, các khuyết điểm của nhiều nhiệm kỳ trong công tác cán bộ, cũng như do khoa học chưa làm được nền tảng cho các cải cách và quyết sách.

Trong Fukuzawa Yukichi, Francis Bacon và Việt Nam, Nguyễn Xuân Xanh bàn về khai sáng Bacon, Fukuzawa và cả khai sáng Ngũ Tứ Trung Quốc nữa, tất cả đều lấy khoa học hữu dụng, hay thực học, làm nền tảng để phụng sự con người, xây dựng quốc gia. Khai sáng Ngũ Tứ cần thêm Dân chủ để giải phóng con người bị đè nén quá lâu. Đó là những ngọn gió của Tinh thần thế giới thổi trên địa cầu từ bốn trăm năm qua, nhưng tại sao nó vẫn chưa đến Việt Nam? Tác giả tìm cách lý giải.

Nguyễn Trung trong Suy nghĩ về thế giới và nước ta sau đại dịch covid-19 muốn gửi đến công chúng thông điệp rằng sau đại dịch chỉ có một trật tự quốc tế mới dành cho nhân dân Việt Nam “một con đường sống duy nhất”. Đó là “phải trở thành một dân tộc trưởng thành và dấn thân, …, quyết xây dựng quốc gia phát triển, và dấn thân cùng với trào lưu tiến bộ của nhân loại cho hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển! Với tất cả ý chí: Sống hay là chết!”

        Trong bài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa – đặc thù chính trị của Việt Nam, Trương Trọng Nghĩa xem xét sự tiến hóa của Hiến Pháp từ 1945 đến nay, từ “dân chủ nhân dân”, “nhà nước chuyên chính vô sản”, đến “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” kéo dài đến hôm nay. NNPQXHCN hay kinh tế thị trường định hướng XHCN có đem lại “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đến năm 2045 như nghị quyết hay không, đó là điều còn chờ thực tế sẽ trả lời.

         Trong Suy nghĩ về con đường phát triển của Việt Nam, Huỳnh Thế Du cho rằng mô hình của Việt nam hiện đang gặp “trục trặc”, và tác giả gợi ý rằng, để đạt đến các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” cần giảm nhẹ tính chất “ý thức hệ” để có những cuộc thảo luận khoa học, cởi mở và hữu ích hơn giữa Đảng và giới trí thức. Đảng cũng cần chấp nhận việc kết nạp người tài vào bộ máy quản trị đất nước, vì lợi ích tối cao của quốc gia.

Phần III (Giáo dục, Y tế) gồm 5 chương đề cập đến những vấn đề giáo dục trung học và đại học, chuyển đổi số như mệnh lệnh thời đại, và bàn về phát triển hệ thống y tế Việt Nam thời hậu-covid 19.

Nguyên Ngọc trong Đại chúng hay tinh hoa?, dựa trên các bài thi triết học của những kỳ thi Tú tài Pháp cho học sinh tất cả các ban, nêu lên sự khác biệt lớn giữa Tây và Ta: Giáo dục Tây chú ý vừa tính đại chúng, nhưng cũng vừa có tính tinh hoa cho thiểu số để có năng lực nhận ra và lý giải những câu hỏi lớn của thời đại, tức phải biết „nghĩ khác“, trong khi giáo dục Việt Nam nhằm đào tạo con người „đồng dạng“, điều chưa hẳn tốt cho phát triển.

Trong Xây dựng và Quản trị trường học phổ thông Giáp Văn Dương chia sẻ kinh nghiệm về tầm nhìn và cách quản trị. Cách mạng công nghiệp là quyết định và tình hình chưa bao giờ thuận lợi như hôm nay. Người làm giáo dục phải có tầm nhìn tối thiểu 30-50 năm về tương lai, để việc giáo dục những học sinh 6 tuổi năm nay bước vào lớp 1, thì 30 năm sau sẽ đơm hoa kết trái, để Việt Nam sẽ vươn lên trở thành một nước phát triển và hùng cường trên thế giới.

Với Chuyển đổi số và Giáo dục Hồ Tú Bảo nhận định Việt Nam đã luôn „đứng ngoài những cơ hội (công nghiệp hóa) của lịch sử“. Cuộc Cách mạng công nghệ số cốt lõi đang đến, mở ra những cơ hội số của sản xuất thông minh và một xã hội thông minh”. Đó là cơ hội có một không hai để Việt Nam có thể vượt lên trong một vài thập kỷ tới. Tác giả cũng bàn đến những thách thức của chuyển đổi số trong giáo dục.

Giáo dục Đại học Việt Nam bước vào những năm 2020 của Huỳnh Như Phương nhận xét giáo dục đại học Việt Nam là một di sản phức tạp với nhiều khuyết tật. Tác giả mô tả tính phức tạp, chỉ ra các khuyết tật và đề khởi cách giải quyết, đồng thời hy vọng những nhà giáo dục chân chính “dù vẫn nhận đồng lương quá thấp và chịu những áp lực ngày càng đè nặng trên vai, họ vẫn cho thấy nghề giáo là một nghề đòi hỏi nhiều lương tri,” và “chính họ mới là những người có tư cách đại diện cho nghề nghiệp cao quý”.

Trong Đại dịch Covid-19 và Y tế Việt Nam Phạm Duy Thoại đưa ra những kiến thức cơ bản về virus, và các phương pháp xét nghiệm, ngăn ngừa, v.v.. Đại dịch là một thử thách nghiêm trọng cho từng quốc gia. Việt Nam, với nền y tế chưa phát triển nhưng đã khống chế được dịch bệnh rất hiệu quả khiến thế giới phải ngả mũ. Tuy nhiên, Việt Nam nên nhân cơ hội này gấp rút nâng cấp toàn bộ hệ thống y tế và bảo hiểm phòng cho mọi bất trắc.

Phần IV (kinh tế, kinh doanh) gồm 5 chương bàn về các vấn đề kinh tế hiện nay của Việt Nam và đề khởi chiến lược, chính sách để phát triển trong tương lai.

Trong Chính trị và kinh tế thế giới sau đại dịch: Cơ hội và thử thách cho Việt Nam, Trần Quốc Hùng cho rằng với ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và cạnh tranh chiến lược Mỹ -Trung, tình trạng “một thế giới, hai hệ thống” và những xáo trộn về chuỗi giá trị cung ứng sẽ xảy ra. Việt Nam phải củng cố nội lực để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội do những thay đổi của chính trị, kinh tế thế giới mang lại mới phát triển bền vững trong thời gian tới.

Tương lai kinh tế Việt Nam nhìn từ đại dịch của Trần Văn Thọ cho rằng  với tiền đề mọi người sẽ phải sống chung với đại dịch, kinh tế thế giới sẽ phải thay đổi và tư duy phát triển của Việt Nam cũng phải khác với các lý luận đã có. Với tư duy mới về các quan hệ như tập trung và phân tán, đô thị và nông thôn, công nghiệp và nông nghiệp, ., cùng với chiến lược chuyển dịch cơ cấu, Việt Nam sẽ phát triển bền vững với mô hình mới trong thập niên 2020.

Trong Doanh nghiệp Việt và giấc mơ Việt Nam thịnh vượng, Phạm Chi Lan  phân tích thực trạng doanh nghiệp Việt Nam và suy nghĩ về hướng đi tương lai, khi mọi người đang mong thực hiện giấc mơ Việt Nam thịnh vượng vào khoảng giữa thế kỷ này. Tác giả cho rằng phải thúc đẩy tăng cường nền tảng vi mô của kinh tế thị trường, học hỏi và sáng tạo về công nghệ và quản trị, liên kết và hội nhập là những hướng đi chính để doanh nghiệp Việt phát triển và góp sức hiện thực hóa giấc mơ Việt Nam thịnh vượng.

Trong Tài nguyên bản địa và vấn đề phát triển bền vững, Kim Hạnh chủ trương để thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp cần nhấn mạnh “tài nguyên bản địa” , một khái niệm chỉ nguồn lực có sẵn cần khai thác, chế biến, tìm kiếm thị trường. Ngoài ra cần chú ý bảo tồn tài nguyên bản địa nhất là các giống cây, giống con bản địa để bảo vệ đa dạng sinh học, sự hài hòa giữa thiên nhiên, con người và văn hóa truyền thống. Trong văn mạch nầy, thực hiện “kinh tế tuần hoàn” là cần thiết.

Tái cơ cấu nông nghiệp và phát triển nông thôn của Đặng Kim Sơn phân tích vai trò của nông nghiệp trong kinh tế Việt Nam và đưa ra các ý tưởng để nông nghiệp phát triển trong giai đoạn mới có các đặc tính như toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, đô thị hóa và công nghiệp hóa. Tác giả chủ trương cần thay đổi từ phát triển theo chiều rộng, thâm dụng tài nguyên sang một nền nông nghiệp toàn diện, vừa phát huy lợi thế vùng, ngành; vừa đảm bảo sự vững bền về xã hội và môi trường.

Nội dung của các chương sách phản ảnh sự chuyên sâu trong lãnh vực của các tác giả nhưng được trình bày với văn phong dễ hiểu cho mọi độc giả có trình độ hiểu biết nhất định. Ý kiến trình bày trong các chương dĩ nhiên là ý kiến riêng của các tác giả và các tác giả chịu trách nhiệm về nội dung và sự chính xác của bài viết của mình. Là những người chủ biên, chúng tôi xin cám ơn các tác giả đã đáp ứng yêu cầu về mục tiêu của cuốn sách và đã hoàn thành bài viết trong thời gian rất ngắn.

 

III

 

Tập sách nầy ra đời bắt nguồn từ trao đổi qua emails giữa một số thành viên của Hội thảo Hè, một sinh hoạt hầu như hằng năm của một nhóm trí thức người Việt Nam ở nước ngoài bắt đầu từ năm 1997. Năm nay (2020) vì dịch Covid19 nên không tổ chức. Sau vài trao đổi qua emails, nhiều người có ý kiến nên cùng viết vài cuốn sách phân tích các vấn đề của Việt Nam, và nhân tiện trao tặng những người bạn lớn tuổi và qua hoạt động khoa học hay xã hội đã để lại dấu ấn tại quê hương. Người tiêu biểu đầu tiên được mọi người chọn để tặng cuốn sách đầu tiên là anh Cao Huy Thuần mà sự nghiệp khoa học cũng như sự găn bó với quê hương của anh đã được giới thiệu ở trên.

 

Nhưng khi tiến hành kế hoạch xuất bản sách, chúng tôi vui mừng nhận được sự hưởng ứng tích cực từ đông đảo trí thức, nhất là trí thức trong nước. Ngoài 22 người phụ trách các chương trong sách nầy còn nhiều anh chị vì điều kiện sức khỏe và thì giờ tuy rất muốn nhưng không thể tham gia được. Qui mô của thành phần tham gia cuốn sách đã vượt phạm vi của Hội thảo Hè nói trên, tuy hầu hết các bạn có mặt trong sách nầy đều là bạn bè thân thiết của anh Cao Huy Thuần và của các thành viên khác trong ban Tổ chức Hội thảo Hè. Nhân đây chúng tôi xin đặc biệt cám ơn anh Trần Hữu Dũng, Giáo sư Danh dự Đại học Wright State (Hoa Kỳ), người bạn thân thiết của hầu hết các tác giả trong sách nầy, lẽ ra cũng là một người trong ban chủ biên cuốn sách vì lúc đầu dự định như thế và anh cũng đã đóng góp nhiều ý tưởng lúc khởi đầu dự án, nhưng điều kiện thì giờ không cho phép anh tiếp tục tham gia.

 

Người Việt Nam đang có “giấc mơ hóa rồng”, tạo ra được những sản phẩm công nghệ đẳng cấp trên thị trường thế giới, có những tập đoàn công nghệ mạnh, để có thể nâng cấp nhanh chóng nền kinh tế lên tầm mức thế giới. Điều đó rất chính đáng. Vâng, người Việt Nam thấy cần thay đổi cả vận mệnh lịch sử của mình cho tốt hơn, như các dân tộc xung quanh từng làm, nhanh chóng hơn, quyết đoán hơn, đặc biệt như tấm gương Hàn Quốc để lại cho thế giới. Từ nhiều thập niên qua các loại công nghệ có tính bứt phá, đột biến lần lượt ra đời làm thay đổi cuộc sống và nền kinh tế. Sự phát triển đã đạt tốc độ hàm mũ (exponential). Kinh tế không còn chỉ là “kinh tế tri thức” mà trở thành “kinh tế đổi mới sáng tạo”. Nhà nước cần phải có tính chất đổi mới sáng tạo, dẫn dắt đổi mới sáng tạo, “kiến tạo và phát triển”, và có những chính sách để thực hiện đổi mới sáng tạo trong tất cả các thành phần xã hội, trên tất các lãnh vực kinh tế, khoa học, giáo dục, học thuật, khuyến khích mọi người tư duy, động não theo hướng đổi mới sáng tạo. Trong một thế giới không đứng yên, chúng ta không thể phát triển chậm theo tuyến tính, mà phải có những bước đi bứt phá, cần phải có nhiều chất xám đổi mới sáng tạo để “đốt giai đoạn”. Chỉ có phát triển nhanh, và liên tục, để thành một quốc gia công nghiệp hóa mới đem lại sức mạnh cần thiết cho quốc gia, vừa đem lại phồn vinh, vừa bảo vệ non sông, và giữ gìn được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

 

Trong tinh thần đó, các bài viết trong tập sách này đều đượm chất đổi mới sáng tạo, xuất phát từ những người có tấm lòng với đất nước muốn thấy đất nước nhanh chóng vượt những rào cản khó khăn để tiến bước nhanh. Các tác giả thật sự quan ngại đất nước lại chậm bước, lỡ thời vận thêm trên con đường chấn hưng. “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Vì thế chúng tôi xin gửi gắm những tình cảm và suy nghĩ rất khiêm tốn có tính xây dựng của mình trong quyển sách này, để góp phần đổi mới đất nước nhiều hơn nữa.

 

Cuối cùng, về khâu xuất bản và phát hành, chúng tôi rất may mắn được sự trợ giúp của chị Quách Thu Nguyệt, một người yêu quý sách và có kinh nghiệm xuất bản, phát hành sách, và cũng là người bạn thân thiết của hầu hết chúng tôi ở đây. Chị Nguyệt từng là Giám đốc Nhà xuất bản Trẻ, hiện nay là thành viên ban Giám khảo Giải Sách Hay và là thường trực Ban tu thư của Đại học Hoa Sen. Cám ơn chị Nguyệt đã bỏ nhiều công sức để cuốn sách ra đời theo đúng kế hoạch.

 

Cuối cùng, nhưng không ít, chúng tôi cám ơn Ban Tu Thư Đại Học Hoa Sen đã liên kết xuất bản với Nhà Xuất bản Đà Nẵng để quyển sách này được đến với bạn đọc .

 

Tokyo/TPHCM, 25/10/2020

 

 

Chú: Các buổi giới thiệu sách này sẽ được thực hiện ở Đường Sách TPHCM từ 9:00 ngày 24/4/2021, tại Hà Nội từ 14:00 ngày 8/5/2021 (Caphe Trung Nguyên, 52 Hai Bà Trưng) và tại Đà Nẵng từ 9:00 ngày 15/5/2021 (Khách sạn Hilton, 50 Bạch Đằng)