Foreign Affairs
HÃY COI CHỪNG SÚNG
ỐNG THÁNG TÁM - Ở CHÂU Á
Kevin Rudd
Dịch và
chú giải [cả trong móc vuông]: Một thân hữu của
viet-studies
Sự đe dọa tấn công
hay trừng phạt từ cả Bắc Kinh lẫn Washington đã trở nên ầm ĩ, không
khoan nhượng và dường như không có hồi kết. Mối quan hệ ấy chao đảo
từ khủng hoảng này đến khủng hoảng khác – từ việc đóng cửa các lãnh
sự quán tới những ngón ngoại giao 'chiến lang' gần đây nhất của
Trung Quốc cho đến những lời kêu gọi các quan chức Mỹ lật đổ Đảng
Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Tốc độ và cường độ của cái đó thảy đã
làm tê bì ngay cả những nhà quan sát dày dạn kinh nghiệm đối với quy
mô và tầm quan trọng của thay đổi trong nền chính trị cao cấp của
mối quan hệ Mỹ-Trung. Được kéo neo ra khỏi các giả định chiến lược
của 50 năm trước mà chẳng có chỗ dựa vào bất kỳ khuôn khổ được đồng
thuận chung nào để thay thế chúng, thế giới giờ đây thấy mình đang ở
thời điểm nguy hiểm nhất trong mối quan hệ ấy kể từ các cuộc khủng
hoảng eo biển Đài Loan những năm 1950s.
Câu hỏi đang được
đặt ra giờ đây, lặng lẽ nhưng đầy âu lo tại các thủ đô trên khắp thế
giới là điều này rồi sẽ kết thúc ở đâu? Kết cục một thời không thể
tưởng tượng được – xung đột vũ trang thực tế giữa Mỹ và Trung Quốc –
giờ đây xuất hiện, có thể là lần đầu tiên kể từ khi kết thúc Chiến
tranh Triều Tiên. Nói cách khác, chúng ta đang đối mặt với viễn cảnh
không chỉ là một cuộc Chiến tranh Lạnh mới mà còn cả là một cuộc
chiến nóng nữa. Các rủi ro sẽ đặc biệt cao trong vài tháng quan trọng từ giờ cho đến cuộc bầu cử tổng thống Mỹ tháng Mười Một, khi cả tổng thống Mỹ, Donald Trump, và chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình, đối đầu, và khai thác sự giao thoa lộn xộn của chính trị trong nước, các đòi hỏi an ninh quốc gia và quản lý khủng hoảng. Quan điểm chính trị trong nước ở cả hai nước đều đã hóa ra độc hại. Danh sách các điểm xích mích thì dài, từ gián điệp mạng và vũ khí hóa đồng dollar cho đến Hongkong và Biển Đông. Các kênh đối thoại chính trị và quân sự cấp cao đã teo tóp lại khi chúng cần thiết nhất. Và cả hai tổng thống/chủ tịch đều phải đối mặt với các áp lực chính trị nội bộ có thể khiến họ kéo giật cái đòn bẩy dân tộc chủ nghĩa.
Trong môi trường này, cả
Bắc Kinh và Washington nên suy ngẫm về lời khuyên răn 'hãy thận trọng
với những gì bạn muốn'. Nếu họ thất bại trong việc làm thế, ba tháng tới
cả thảy có thể dễ dàng làm tổn hại đến triển vọng hòa bình và sự ổn định
quốc tế trong 30 năm tới. Các cuộc chiến giữa các cường quốc, bao gồm cả
những bên vô tình, hiếm khi kết thúc tốt đẹp – cho bất kỳ ai.
NHỮNG CHUYỂN
DỊCH QUYỀN LỰC
Nhiều yếu tố đã đưa mối
quan hệ ấy đến trạng thái bấp bênh hiện tại của nó. Một số thì có tính
cấu trúc, những cái khác thì trực tiếp hơn. Cơ bản nhất là sự cân bằng
đang đổi thay về sức mạnh quân sự và kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc. Do
mẫu hình tăng trưởng kinh tế và quân sự thất thường của Mỹ, sự phân tâm
chiến lược quá dài của Mỹ ở Trung Đông và các tác động tích lũy của cuộc
khủng hoảng tài chính 2008-2009, Bắc Kinh đã kết luận rằng họ có nhiều
quyền tự do hơn trong luồn lách theo đuổi các lợi ích của mình. Xu hướng
này đã tăng lên dưới thời Tập, người mà kể từ khi lên nắm quyền năm 2013
đã chuyển chính trị và kinh tế của đất nước sang tả, đẩy chủ nghĩa dân
tộc sang hữu và áp dụng chiến lược quyết đoán hơn ở nước ngoài, cả ở tầm
khu vực lẫn toàn cầu.
Mỹ đã phản ứng với vị
thế đang thay đổi này của Trung Quốc với mức độ gây hấn ngày càng tăng.
Chính sách đã tuyên bố của nó đã làm rõ rằng 35 năm tham dự chiến lược
[với Trung Quốc] đã kết thúc và một kỷ nguyên cạnh tranh chiến lược mới,
vẫn còn chưa được xác định đầy đủ đã bắt đầu. Về mặt ngoại giao, nó [Mỹ]
đã mở ra một cuộc tấn công nhân quyền đối với Hongkong, Đài Loan và Tân
Cương. Nó đã phát động một cuộc chiến thương mại, công nghệ và nhân tài,
và cả sự khởi đầu của một cuộc chiến tài chính nữa. Và các lực lượng vũ
trang của cả hai nước đã tham gia vào một trò chơi xô đi đẩy lại ngày
càng gây hấn trên mặt biển khơi, trên không và trên không gian mạng.
Trong khi chiến lược của
Tập đã rõ ràng, chiến lược của Trump vẫn cứ hỗn loạn như phần còn lại
của nhiệm kỳ tổng thống của ông ta. Nhưng tác động chung cuộc là một mối
quan hệ bị chia tách của sự cô lập chính trị, kinh tế và ngoại giao đã
được nuôi dưỡng một cách cẩn thận trong nửa thế kỷ qua và suy biến xuống
hình thức thô thiển nhất của nó: một cuộc đấu tranh không giới hạn cho
sự thống trị song phương, khu vực và toàn cầu.
Trong mùa hoạt động
chính trị hiện nay, các áp lực trong nước đang có ở cả Bắc Kinh và
Washington khiến cho việc xử lý khủng hoảng trở nên khó khăn hơn. Ở
Trung Quốc, một nền kinh tế đã chậm lại, tác động vẫn tiếp tục của cuộc
chiến thương mại, và bây giờ là cuộc khủng hoảng COVID-19 đã đặt sự lãnh
đạo của Tập dưới áp lực nội bộ lớn nhất từ trước tới nay. Nhiều người
trong ĐCSTQ bực tức với chiến dịch chống tham nhũng tàn bạo của ông ta,
mà một phần được sử dụng để loại bỏ kẻ thù chính trị. Việc cải tổ quân
đội rộng lớn của ông ta đã gặp phải sự kháng cự từ hàng trăm ngàn cựu
chiến binh thua thiệt. Mức độ đối lập mà Tập phải đối mặt được thể hiện
qua số lượng lớn các thay đổi nhân sự chính mà ông ta đã tạo ra trong hệ
thống phân cấp của đảng về tình báo, an ninh và quân đội. Và đó là từ
trước 'chiến dịch chỉnh đốn đảng' mà ông ta đã phát động vào tháng Bảy
để cho ra rìa những kẻ chống đối và củng cố quyền lực của mình.
Ban lãnh đạo chính trị của Trung Quốc đã một
lần nữa nhổ trại đi tới thị trấn nghỉ mát ven biển Bắc Đới Hà[i]
nơi 'ẩn dật' vào tháng Tám hàng năm của ĐCSTQ. Ở đó, các lão làng của
đảng cũng có thể thách thức việc xử lý của Tập đối với nền kinh tế,
chính sách đối ngoại và sức khỏe cộng đồng. Tập, tuy vậy, là một chính
trị gia bậc thầy, chìm đắm trong nghệ thuật đen tối của mánh khóe
Machiavelli[ii]
của mình. Bất kỳ thách thức đáng kể nào đối với quyền bính của ông ta
đều có khả năng gặp phải vũ lực đánh phủ đầu – rồi sau đó là chiến dịch
chỉnh đốn đảng. Nhưng với những hoàn cảnh này, Tập cũng sẽ bị cám dỗ để
vạch ra đường lối cứng rắn hơn bao giờ hết ở nước ngoài, đặc biệt là
chống lại Mỹ.
Chính trị trong nước
cũng đang lèo lái chính sách của Mỹ. Với các cử tri Mỹ tham gia các cuộc
thăm dò trong ba tháng, Trung Quốc đã trở thành trung tâm của cuộc đua
hơn bao giờ hết. Nó giờ đây 'đóng khung' chính trị của tổng thống trong
gần như tất cả các vấn đề tranh cử chính, bao gồm nguồn gốc của COVID-19
và cách ứng phó thảm hại của Mỹ, mà đến giữa năm 2020 thôi đã khiến hơn
150 ngàn người Mỹ thiệt mạng; một cuộc khủng hoảng kinh tế được đánh dấu
bởi tỷ lệ thất nghiệp 14.7%, tỷ lệ phá sản tăng 43% và nợ công cực kỳ
kinh hãi; là còn chưa nói tới tương lai của sự lãnh đạo toàn cầu Mỹ.
Trong ba năm đầu tiên,
chính quyền Trump đã chia rẽ về vấn đề Trung Quốc, với chính Trump
thường xuyên can thiệp để làm thất vọng việc thực thi đầy đủ chính sách
cứng rắn do cựu cố vấn an ninh quốc gia của ông ta là H. R. McMaster đưa
ra và được làm rõ trong Chiến lược an ninh quốc gia phát hành vào tháng
Mười Hai 2017. Nhưng kể từ tháng Ba [năm nay], được thúc đẩy bởi sự sụt
giảm ủng hộ trong các cuộc thăm dò quốc gia, Trump đã đổ lỗi cho Trung
Quốc về toàn bộ các thảm họa chính trị, kinh tế và sức khỏe cộng đồng
trong nước. Luận điệu nóng bỏng của ông ta đã được làm một cách phù hợp
bằng các hành động trên thực địa: chẳng hạn, các lực lượng quân đội Mỹ
đã bắt đầu phản ứng mạnh mẽ hơn đối với các hành động của Trung Quốc ở
Biển Đông và Eo biển Đài Loan. Trong khi đó, đối thủ của Trump, cựu phó
tổng thống Joe Biden, quyết tâm không để bị Trump đánh tạt sườn về vấn
đề Trung Quốc, lại tạo nên một môi trường chính trị cực kỳ dễ bùng cháy.
Điều đó chẳng để lại mấy dư địa cho sắc thái chính sách đối ngoại, nói
gì đến thỏa hiệp quân sự, nếu có phát sinh bất kỳ khủng hoảng nào.
Khi được cộng thêm vào
những thay đổi sâu sắc hơn đang diễn ra trong mối quan hệ, tất cả những
điều này tạo nên một thứ cocktail chiến lược và chính trị nguy hiểm: một
Trump yếu đuối, một Biden không khoan nhượng và một Tập Cận Bình đang
chịu áp lực sẵn sàng kéo giật đòn bẩy dân tộc chủ nghĩa. Do đó, cả hai
bên nên xem xét cẩn thận các cuộc khủng hoảng có thể phát sinh trong vài
tháng tới (đặc biệt trên các vấn đề Hongkong, Đài Loan và Biển Đông) và
cân nhắc xem bất kỳ vấn đề nào trong số đó có thể từ từ biến thành một
điều gì đó tồi tệ hơn như thế nào. Bắc Kinh và Washington có được chuẩn
bị nghiêm túc hay không để leo thang trong một cuộc khủng hoảng nhằm bảo
vệ các vị thế trong nước của họ, ý thức được về cái giá chính trị trong
mỗi hệ thống nếu bị coi là yếu? Hay họ có được trang bị về mặt thể chế
và sự sẵn sàng chính trị để xuống thang nhằm tránh thảm họa?
MỘT QUỐC GIA,
MỘT CHẾ ĐỘ
Hôm mùng 1 tháng Bảy,
Trung Quốc đã thực thi luật an ninh quốc gia Hongkong hà khắc, hình sự
hóa hoạt động 'ly khai', 'nổi loạn' và 'khủng bố', cũng như bất kỳ sự
hợp tác nào trong các hoạt động như vậy với 'các thế lực nước ngoài'. Sử
dụng Đạo luật nhân quyền và dân chủ Hồng Kông năm 2019, ngoại trưởng Mỹ,
Mike Pompeo, đã đánh giá rằng Hongkong không còn được hưởng 'mức độ tự
trị cao' như được quy định theo nguyên tắc 'một quốc gia, hai chế độ'.
Sự xác quyết được tiếp tục vào ngày 14 tháng Bảy khi Trump ký Đạo luật
tự trị Hongkong. Trong 12 tháng tới, luật mới sẽ dẫn đến 'việc áp dụng
các biện pháp trừng phạt đối với những người nước ngoài [tức ngoài Mỹ]
góp phần cốt yếu vào việc phá hoại quyền tự trị Hongkong, tạo ra bởi
chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, cũng như đối với các tổ chức tài
chính nước ngoài tham gia vào các giao dịch quan trọng với những người
nước ngoài như vậy'. Đối với các cá nhân, những lệnh trừng phạt sẽ liên
quan đến việc cấm đi lại và giao dịch; đối với các tổ chức tài chính làm
ăn với các cá nhân được liệt kê, một loạt các biện pháp trừng phạt gây
tổn hại sẽ theo sau, có khả năng gây rủi ro cho khả năng hoạt động của
họ trong phạm vi quyền tài phán của Mỹ.
Vẫn chưa rõ các quan
chức Trung Quốc nào bị đưa vào danh sách theo luật này, song với việc
quyết định về luật an ninh quốc gia liên quan đến Ủy ban thường vụ Bộ
Chính trị, cơ quan quyết định hàng đầu của ĐCSTQ, cả bảy thành viên (bao
gồm cả Tập) đều có khả năng bị thương tổn. Tương tự, các tổ chức tài
chính Trung Quốc phục vụ các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể bị cấm hoạt
động tại Mỹ hoặc các khu vực tài phán có hợp tác [với Mỹ] khác. Cũng có
nguy cơ các tổ chức sẽ bị cấm khỏi hệ thống thương mại quốc tế bằng đồng
USD (mặc dù điều này vẫn còn tiếp tục được tranh luận giữa các quan chức
cao cấp của Bộ Tài chính và Nhà Trắng). Các quan chức Trung Quốc hiện
đang công khai xem xét làm thế nào để giảm thiểu tính dễ bị tổn thương
của đất nước họ đối với một hệ thống tài chính toàn cầu vẫn phụ thuộc
quá nhiều vào đồng bạc xanh. Họ đã bắt đầu nhấn mạnh đến 'các lằn ranh
đỏ tài chính' của người đối thoại nước ngoài, mà nếu vượt qua, có thể
gây ra một cuộc khủng hoảng lớn.
Nếu Hongkong trở nên hoàn toàn xấu đi trong
những tháng tới – đưa đến việc giam cầm các nhà lãnh đạo dân chủ như
Joshua Wong[iii],
việc đàn áp các phương tiện truyền thông tự do còn lại, hoặc thậm chí là
bạo lực quy mô lớn – Mỹ có thể sẽ đáp trả bằng các biện pháp trừng phạt
ngoại giao và kinh tế mạnh mẽ và thúc đẩy các đồng minh của mình cũng
làm như vậy. Nhưng bản thân Hongkong khó có thể dẫn đến một cuộc khủng
hoảng toàn diện; Vương quốc Anh, chứ không phải Mỹ, mới là cường quốc có
hiệp ước về câu hỏi đối với tình trạng chính trị của Hongkong, và vì
vậy, dù tình hình có trở nên tồi tệ đến đâu, sẽ không có cơ sở pháp lý
quốc tế cho bất kỳ hình thức can thiệp nào của Mỹ. Tuy nhiên, sự xấu đi
[của tình hình Hongkong] và phản ứng của Mỹ sẽ khiến mối quan hệ
Mỹ-Trung trở nên dễ tan vỡ hơn hiện nay, khiến các cuộc khủng hoảng khác
trong mối quan hệ song phương trở nên khó quản lý hơn, kể cả trong lĩnh
vực an ninh.
MỘT TRUNG QUỐC –
HAY LÀ HAI?
Đài
Loan từ lâu đã là thách thức đơn lẻ lớn nhất trong mối quan hệ Mỹ-Trung.
Từ quan điểm của ĐCSTQ, được đặt nền tảng trên cả ý thức hệ lẫn chủ
nghĩa dân tộc, 'sự trở về của Đài Loan trong vòng tay dịu dàng của quê
hương', như các lão thần của đảng đã đặt ra, sẽ hoàn thành cuộc cách
mạng năm 1949. Nhưng đối với Đài Loan, sự tiến hóa của một bản sắc riêng
qua vài trăm năm, quá trình dân chủ hóa tiến bộ của hòn đảo trong 30 năm
qua và thành công bầu cử liên tục của Đảng Dân tiến (DPP: Democratic
Progressive Party,
民主進步黨:
Dân chủ tiến bộ đảng) ủng hộ độc lập đã khiến cho triển vọng tái thống
nhất hòa bình ngày càng xa vời.
Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn đã tiếp tục
bác bỏ phiên bản Trung Quốc của cái gọi là 'đồng thuận 1992'[iv]
– một thỏa thuận chỉ có 'một Trung Quốc', ngay cả khi cả hai bên không
đồng ý về thuật ngữ 'Trung Quốc' thực sự có nghĩa gì. Đến lượt mình, Bắc
Kinh tin rằng sự từ chối của DPP trong việc chấp nhận Đồng thuận này
đang bác bỏ bất kỳ cuộc đàm phán nào về hình thức cụ thể của một quốc
gia, hai chế độ có thể áp dụng cho Đài Loan trong tương lai. Trung Quốc
thì đã nhận thấy sự đổ vỡ của nguyên tắc một quốc gia, hai chế độ ở Hồng
Kông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tái đắc cử của Thái Anh
Văn tháng Mười Một năm ngoái. Nó cũng đã góp phần vào sự cương quyết hơn
nói chung trong tình cảm của dân Đài Loan đối với bất kỳ hình thức thống
nhất nào với đại lục; các cuộc thăm dò ý kiến gần đây cho thấy một kỷ
lục 90% người dân Đài Loan hiện tự nhận mình là người Đài Loan chứ không
phải là người Trung Quốc.
Trong mối quan hệ
Mỹ-Trung, vấn đề Đài Loan đã được quản lý theo các điều khoản của ba
thông cáo được đàm phán trong thời gian giữa năm 1972 và năm 1982 trong
quá trình cởi mở và bình thường hóa, cùng với Đạo luật Quan hệ với Đài
Loan (TRA: Taiwan Relations Act) hồi năm 1979. TRA tuyên bố rằng 'Mỹ sẽ
làm cho Đài Loan có thể có được các sản phẩm và dịch vụ quốc phòng với
số lượng lớn đến mức cần thiết đủ để Đài Loan duy trì khả năng tự vệ'.
Nó cũng tuyên bố rằng Mỹ sẽ 'xem bất kỳ nỗ lực nào ngoài các biện pháp
hòa bình để xác định tương lai của Đài Loan, bao gồm tẩy chay hoặc cấm
vận, như một mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh của khu vực Tây Thái
Bình Dương và là mối quan ngại nghiêm trọng đối với Mỹ'. Và nó yêu cầu
Quốc hội 'duy trì khả năng của Mỹ chống lại bất kỳ biện pháp dùng vũ lực
hoặc các hình thức cưỡng chế nào khác gây nguy hiểm cho an ninh, hoặc hệ
thống kinh tế hay xã hội của nhân dân Đài Loan'. Mặc dù TRA không phải
là một hiệp ước phòng thủ lẫn nhau, các chính quyền kế tiếp nhau của Mỹ
đã dựa vào 'sự mơ hồ chiến lược' ẩn chứa trong đó để ngăn chặn bất kỳ sự
cân nhắc nào của Trung Quốc về việc tái thống nhất [Đài Loan vào Hoa
lục] bằng các biện pháp quân sự.
Chính quyền Trump đã
tăng quy mô và tần suất bán vũ khí cho Đài Loan, bao gồm mở rộng hệ
thống phòng thủ tên lửa Patriot của hòn đảo này và cung cấp các khả năng
tấn công mới như máy bay F-16V. Nó cũng đã bắt đầu thay đổi danh pháp
chính thức của mối quan hệ [giữa Mỹ với Đài Loan] – lần đầu tiên đề cập
chính thức đến bà Thái Anh Văn với danh xưng 'tổng thống' cao quý – và
gia tăng tiếp xúc công khai giữa các quan chức Mỹ và Đài Loan.
Washington cũng đã phát hành các đoạn video mang tính khiêu khích về các
cuộc tập trận quân sự Mỹ-Đài Loan trước đây không được công bố.
Bắc Kinh lập luận rằng
Washington đang tiến gần một cách nguy hiểm tới việc vượt qua lằn ranh
đỏ của Trung Quốc về vị thế quốc tế của Đài Loan, do đó gây nguy hiểm
cho cơ sở của toàn bộ mối quan hệ Mỹ-Trung. Hệ quả là, và được củng cố
bởi sự bất mãn chung của Trung Quốc với lãnh đạo Đài Loan hiện nay, Bắc
Kinh đã gia tăng áp lực ngoại giao, kinh tế và quân sự đối với Đài Bắc.
Các cuộc tập trận, chuyển quân và triển khai của PLA quanh hòn đảo này
và cả trên không phận của nó đã trở nên dữ dội và mang tính xâm phạm bừa
bãi hơn. Trung Quốc cũng đã bắt đầu giảm du lịch của dân đại lục sang
Đài Loan để tăng áp lực lên nền kinh tế, trả đũa trực tiếp các chính
sách của Thái Anh Văn.
Càng ngày càng rõ ràng
từ sự thiếu kiên nhẫn trong ngôn từ của Tập rằng ông ta muốn thấy Đài
Loan trở về với chủ quyền của Trung Quốc trong nhiệm kỳ chính trị của
mình. Liệu ông ta có thể làm như vậy hay không là một câu hỏi riêng
biệt. Giá mà Tập thành công, ông ta sẽ sánh ngang, và thậm chí có thể
vượt qua, vị trí của Mao trong lịch sử của đảng và dân tộc. (Tất nhiên,
điều này đặt ra câu hỏi về nhiệm kỳ của Tập sẽ kéo dài bao lâu: ông ta
đạt đến giới hạn hai nhiệm kỳ, được tuân thủ bởi những người tiền nhiệm,
vào năm 2022, nhưng một quyết định tại Đại hội Đảng lần thứ 19 năm 2017
đã bãi bỏ giới hạn nhiệm kỳ, và Tập hiện đang tỏ ra sẵn sàng tại vị cho
đến giữa những năm 2030, khi ông ta sẽ ở vào đầu những năm 80 tuổi của
mình).
Mặc dù các cuộc tập trận
trò chơi chiến tranh (tức tập trận giả định trên máy tính) của Trung
Quốc và Mỹ đều cho thấy Trung Quốc sẽ chiếm ưu thế trong bất kỳ cuộc
xung đột lớn nào ở eo biển Đài Loan, Bắc Kinh vẫn thận trọng, tìm cách
tránh rủi ro chính trị hoặc chiến lược không cần thiết. Rốt cuộc, thất
bại trong một nỗ lực như vậy, hoặc thành công với chi phí lớn, sẽ có khả
năng chấm dứt sự lãnh đạo của Tập và làm suy yếu tính hợp pháp của đảng.
Theo đó, bất kỳ sự đẩy mạnh quân sự nào của Trung Quốc chống lại Đài
Loan có nhiều khả năng sẽ đến muộn hơn trong những năm 2020s, khi mà Bắc
Kinh nghĩ rằng cán cân quân sự sẽ còn thay đổi hơn nữa theo hướng có lợi
cho nó – đủ để răn đe hiệu quả Mỹ và có thể khiến Đài Loan phải đầu hàng
mà không cần đến một cuộc chiến.
Cho đến nay, cả ba bên –
Bắc Kinh, Đài Bắc và Washington – đã chọn giữ nguyên trong các giới hạn
rộng rãi về hành vi cho phép. Và trong khi chính quyền DPP ở Đài Bắc gan
lỳ, đó không phải là liều lĩnh. Tuy nhiên, trong môi trường chính trị
hiện tại, chính quyền Trump có thể chọn leo thang – bằng cách, thí dụ
như, cho phép chuyến thăm của tàu hải quân Mỹ đến một cảng Đài Loan. Tác
động gây bất hòa của một hành động như vậy sẽ khiến giới lãnh đạo Trung
Quốc không thể bỏ qua về mặt chính trị. Có thể hình dung rằng Trung Quốc
có thể trả đũa bằng cách bắt đầu một cuộc xung đột ở 'cường độ thấp',
tập trung vào các đảo ngoài khơi của Đài Loan, như Quần đảo Dongsha
[quần đảo Đông Sa, hay quần đảo Pratas, nằm ở phía Bắc Biển Đông] hoặc
Đảo Taiping [Ba Bình] (cả hai đều ở Biển Đông) hoặc Đảo Wuqiu [đảo Ô
Khâu của Đài Loan] (ngay ngoài khơi bờ biển).
KHÔNG CÒN ĐƯỜNG
CHÍN ĐOẠN NỮA
Biển Đông có nguy cơ rủi
ro quân sự lớn hơn nhiều trong những tháng ngay tới đây. Bảy quốc gia
yêu sách nhiều mảnh lãnh thổ và biển khác nhau của Biển Đông: Brunei,
Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam. Vào
năm 2016, Tòa Trọng tài thường trực (PCA: Permanent Court of
Arbitration) đã ra phán quyết về một vụ kiện do Philippines đệ đơn, mà
nó đã bác bỏ toàn diện cơ sở pháp lý và lịch sử của yêu sách chủ quyền
của Trung Quốc ('đường chín đoạn') trên phần lớn Biển Đông. Mặc dù giận
dữ từ chối phán quyết, Bắc Kinh đồng thời bắt tay vào một cuộc tấn công
quyến rũ chính trị và kinh tế (đặc biệt là với chính phủ mới của Rodrigo
Duterte) trong khi duy trì các hoạt động hải quân, hải cảnh và đánh bắt
cá ở các khu vực tranh chấp. Biển đã trở thành một trường hợp điển hình
về chiến lược 'vùng xám' của Trung Quốc: sử dụng các hoạt động hải cảnh
và nghề cá để thiết lập các yêu sách lãnh thổ và hàng hải trên thực tế
trong khi tránh việc triển khai trực tiếp các phương tiện hải quân trừ
khi tuyệt đối cần thiết. Trung Quốc đã nhờ đó mà cố thủ các yêu sách của
mình theo thời gian, mà không có nguy cơ xung đột quân sự mở với các
nước láng giềng.
Cho đến tận năm 2016, Mỹ
đã tiến hành hành động quân sự không đáng kể để đáp trả các dự án cải
tạo đảo của Trung Quốc ở Biển Đông. (Bắc Kinh đã xây dựng bảy hòn đảo
nhân tạo từ năm 2013 đến 2015 và sau đó quân sự hóa một số tiền đồn này,
trái với những đảm bảo của Tập đối với tổng thống Mỹ Barack Obama). Kể
từ đó, hải quân Mỹ đã đẩy mạnh các hoạt động tự do hàng hải trong khu
vực đó của mình, tăng từ 2 chuyến trong năm 2015 đến 9 chuyến vào năm
2019. Mỹ cũng đã tiếp tục các chuyến bay do thám trên không dọc theo bờ
biển Trung Quốc và ngang trên Biển Đông.
Khi cuộc khủng hoảng
coronavirus tăng cao vào năm 2020, thái độ của cả Trung Quốc lẫn Mỹ ở
Biển Đông đều bắt đầu cứng rắn hơn nữa. Vào tháng Tư, Trung Quốc đã
tuyên bố thành lập hai đơn vị hành chính bổ sung - phù hợp với chiến
lược chung là kết hợp các hoạt động bán quân sự vùng xám để khẳng định
các yêu sách chủ quyền trên thực tế với các khẳng định mang tính luật
định về pháp lý và kiểm soát hành chính. Đáng kể hơn, nhịp độ và cường
độ của các phi vụ trinh sát hải quân và không quân Mỹ đã tăng lên rõ
rệt; Washington đã triển khai hai tàu sân bay đến Biển Đông và chúng
được các đơn vị hải quân đồng minh từ cả Australia và Nhật Bản tham gia.
Đến lượt mình, Trung Quốc đã triển khai một phi đội máy bay tiêm-cường
kích bổ sung tới quần đảo Hoàng Sa trong tầm với tới phía bắc Biển Đông.
Sau đó, vào ngày 13
tháng Bảy, Washington đã tuyên bố một sự thay đổi lớn về lập trường của
mình đối với tình trạng pháp lý của yêu sách đường dài chín đoạn của
Trung Quốc về chủ quyền ở Biển Đông. Trong quá khứ, Washington – bản
thân họ đã không phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS:
UN Convention for the Law of the Sea) – vẫn trung lập về tính hợp pháp
của các yêu sách của các bên. Bây giờ, lần đầu tiên, Washington đã chính
thức bác bỏ giá trị pháp lý quốc tế của tất cả các yêu sách hàng hải của
Trung Quốc. (Nước Úc, mười ngày sau đó, đã theo gương bằng một tuyên bố
chính thức với Liên Hợp Quốc). Thay đổi này chính thức gắn kết Mỹ với
các quốc gia Đông Nam Á vẫn đang thách thức các yêu sách hàng hải rộng
lớn của Trung Quốc; trước đây, Mỹ chỉ hành động để bảo vệ tự do hàng hải
ở Biển Đông, chứ không dựa trên tính hợp pháp của các yêu sách của các
bên.
Tập hợp các động thái
này của Mỹ đã làm tăng nhiệt giữa quân đội Mỹ và quân đội Trung Quốc.
Trung Quốc đã trả đũa vào cuối tháng Bảy: Một sửa đổi hành chính đối với
các quy định vận tải biển có từ lâu đã thay đổi việc định danh một khu
vực rộng lớn của Biển Đông, từ 'ngoài khơi' trở thành 'ven biển', và
không quân Trung Quốc bắt đầu triển khai máy bay ném bom tầm xa cho các
chuyến bay giám sát trên không trên các khu vực biển tranh chấp này.
Bản ghi nhớ hiện có về
các giao thức đã được thống nhất để tránh và quản lý các vụ va chạm trên
không và trên biển đã được đàm phán trong thời gian của chính quyền
Obama, từ trước sự sụp đổ gần như hoàn toàn về niềm tin giữa Bắc Kinh và
Washington. Không có gì bảo đảm rằng các giao thức này sẽ có hiệu quả
với sự gia tăng nhanh chóng của các phương tiện không quân, hải quân và
các trang bị quân sự khác trong khu vực, nơi đã có lịch sử gần như đã va
chạm giữa các tàu và máy bay quân sự của Mỹ và Trung Quốc.
Do đó, Biển Đông đã trở
thành một chiến địa căng thẳng, không ổn định và có khả năng bùng nổ vào
thời điểm khi những bất bình tích lũy đã đẩy mối quan hệ chính trị song
phương cơ bản xuống tới mức thấp nhất trong nửa thế kỷ. Số lượng tăng
vọt các phương tiện hải quân và không quân được cả hai bên triển khai
khiến cho một vụ va chạm ngoài ý muốn (hoặc thậm chí cố ý) ngày càng trở
nên có thể. Các thủ tục hành động tiêu chuẩn và các quy tắc giao chiến
đối với cả Mỹ và Trung Quốc đều là các tài liệu có độ mật cao một cách
tiêu biểu. Mẫu hình chung của các vụ suýt đâm va trong quá khứ đã cho
thấy máy bay hoặc tàu hải quân của Mỹ chuyển hướng và thay đổi hướng đi
vào phút cuối để tránh va chạm. Tuy nhiên, không rõ liệu các thủ tục
này, hoặc các thủ tục của hải quân và không quân Trung Quốc, hiện nay có
đã được điều chỉnh chuyển sang một tư thế tấn công hơn hay không.
Câu hỏi cho cả các nhà
lãnh đạo Mỹ lẫn Trung Quốc là, điều gì sẽ xảy ra giờ đây trong trường
hợp xảy ra va chạm đáng kể? Nếu một chiếc máy bay bị rơi, hoặc một tàu
hải quân bị chìm hoặc bị vô hiệu hóa, những bước tiếp theo nào đã được
thỏa thuận để tránh sự leo thang quân sự ngay lập tức? Một người đối
thoại Trung Quốc nhớ lại một cuộc tập trận trên máy tính gần đây được tổ
chức bởi một viện chính sách (think-tank) độc lập đã tập hợp các nhà
hoạch định chính sách và quân đội Trung Quốc và Mỹ đã nghỉ hưu để xem
xét một kịch bản như vậy. Kết quả thật đáng lo ngại. Mặc dù các sĩ quan
quân đội từ cả hai phía có thể đồng ý về một giao thức để moi ra một tàu
hải quân bị hư hại một cách an toàn, nhưng những người tham gia phi quân
sự, chú ý hơn đến lợi ích chính trị của chính phủ của họ, đã thất bại
thảm hại trong nhiệm vụ này. Một tập những người thực tiễn thì có ý định
xuống thang; một tập những người khác đã có ý định ngược lại hoàn toàn.
Trong một kịch bản trong
thế giới thực, vượt quá môi trường đơn giản của một cuộc diễn tập trên
máy tính, hoàn cảnh chính trị trong nước đang rất phổ biến ở Bắc Kinh và
Washington có thể quá dễ dàng đẩy cả hai bên đến leo thang. Các cố vấn
chính trị có thể lập luận rằng một sự leo thang quân sự cục bộ có thể
'kiềm chế' được trong các giới hạn xác định. Tuy nhiên, trong điều kiện
tình cảm cộng đồng quy trách niệm ở cả hai quốc gia và các phần cược
chính trị cao trong cuộc chơi cho nhà lãnh đạo của mỗi nước, có rất ít
lý do để lạc quan về các khả năng kiềm chế.
NHỮNG KẺ MỘNG DU
CỦA THẾ KỶ 21
Chúng ta thường buộc
phải nhớ những bài học lịch sử. Thật ra lịch sử hiếm khi lặp lại ở dạng
chính xác như đã từng. Nhưng đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc
ở cả Bắc Kinh và Washington, những người có thể không nhận ra việc tăng
đặt cược lên đã trở nên nghiêm trọng như thế nào, thì một bài đọc cuối
tuần tốt có lẽ là cuốn sách của Christopher Clark, một người đồng hương
của tôi, về những thất bại về quản lý khủng hoảng và ngoại giao năm
1914, có tựa đề là The Sleepwalkers (Những kẻ mộng du).
Bài học cốt lõi trong các sự kiện dẫn đến Thế
chiến I là một sự cố tương đối nhỏ (vụ ám sát một đại công tước Áo tại
Sarajevo vào cuối tháng Sáu năm 1914) có thể leo thang thành một cuộc
chiến giữa các cường quốc trong vài tuần. Bản miêu tả bằng đồ họa của
Clark là một bản báo cáo về sự leo thang không ngừng, ngoại giao không
đầy đủ và chủ nghĩa dân tộc thô thiển, cùng với sự hoài nghi của dân
chúng và các nhà lãnh đạo, tựa như xung đột thực sự đó thật khó tin được
- cho đến khi 'Súng ống tháng Tám'[v]
chứng minh điều ngược lại.
Đối với Mỹ, thách thức
Trung Quốc là có thật và đòi hỏi một chiến lược dài hạn, mạch lạc trên
tất cả các lĩnh vực chính sách và phối hợp với các đồng minh. Nó cũng
đòi hỏi một khuôn khổ mới cho mối quan hệ Mỹ-Trung, quan hệ dựa trên các
nguyên tắc cạnh tranh chiến lược 'quản lý được': cạnh tranh chính trị,
kinh tế, công nghệ và ý thức hệ với các lằn ranh đỏ được cả hai bên cùng
hiểu, các đường dây liên lạc mở ở cấp cao để tránh một sự leo thang vô
tình và các lĩnh vực hợp tác toàn cầu được xác định, nơi cùng có lợi
(như thể về các dịch bệnh và biến đổi khí hậu). Nhưng nhiệm vụ quan
trọng nhất bây giờ là tìm ra con đường đi một cách an toàn trong vài
tháng tới, để tránh vấp phải xung đột vào giữa chiến dịch tranh cử tổng
thống tại Mỹ và thời kỳ tranh chấp chính trị nội bộ ở Trung Quốc. Các
nhà lãnh đạo của cả hai bên nên nhớ rằng chủ nghĩa sô-vanh dân tộc chủ
nghĩa có xu hướng trở nên im lặng hơn sau khi súng bắt đầu nổ.
[i]
Bắc Đới
Hà (北戴河,
Běidàihé): Một khu bãi biển rất đẹp nằm ở tỉnh Hà Bắc, Trung
Quốc. Tại đây, gần như đã thành thông lệ, cuối tháng Bảy hay vào
tháng Tám hàng năm thì các nhà lãnh đạo ĐCSTQ thường tới nghỉ
mát, tránh cái nóng ở Bắc Kinh (nằm chỉ cách Bắc Đới Hà chừng 3
giờ chạy xe, ~285km), đồng thời có các cuộc họp mặt không chính
thức giữa các nhà lãnh đạo Trung Quốc chủ chốt nhất để 'mật
nghị' những vấn đề trọng yếu trong đối nội và đối ngoại. Các
cuộc họp mặt trong 'gian phòng đầy khói thuốc' (từ thời Mao
Trạch Đông) đằng sau những cánh cửa khép kín tại Bắc Đới Hà này
vẫn được gọi là các 'Hội nghị Bắc Đới Hà'.
[ii]
Machiavelli (Niccolò di Bernardo dei
Machiavelli, 1469-1527): Nhà ngoại giao, nhà triết học và nhà
văn người Ý, từng giữ chức vụ cao về ngoại giao và quân sự của
Cộng hòa Florentine (một thành bang trung cổ tại Florence, thuộc
nước Ý ngày nay) được coi là cha đẻ của triết học chính trị hay
ngành khoa học chính trị. Machiavelli đã xem xét và viết về các
trận chiến chính trị không qua lăng kính đạo đức mà trần trụi
như những ván cờ với những quy tắc (thường là lừa dối và tội
ác). Tên của Machiavelli thường được sử dụng để gắn với những
chính trị gia vô đạo đức, lừa dối, phản bội và không từ tội ác.
[iii]
Joshua Wong
(Hoàng Chi Phong,
黃之鋒),
thanh niên sinh năm 1996, là người lãnh đạo Phong trào dù vàng
năm 2014 tại Hongkong.
[iv]
Đồng
thuận 1992 (1992 Consensus,
九二共識:
cửu nhị cộng thức): Thuật ngữ liên quan tới kết quả cuộc gặp năm
1992 giữa các đại diện bán chính thức của Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa (CHNDTH) và Trung Hoa dân quốc (THDQ). Quốc dân đảng
của THDQ nói rằng có sự đồng thuận, trong khi Đảng Dân Tiến của
THDQ và tổng thống THDQ năm 1992, Lý Đăng Huy, phủ nhận sự tồn
tại của 'Đồng thuận 1992'. Thuật ngữ này, như thường được mô tả,
có nghĩa là về ‘Nguyên tắc một Trung Quốc’, cả hai bên thừa nhận
chỉ có một ‘Trung Quốc’, cả Trung Quốc đại lục và Đài Loan đều
thuộc Trung Quốc, nhưng đồng ý giải thích ý nghĩa của ‘một Trung
Quốc’ theo định nghĩa của mỗi bên.
[v]
'Súng ống tháng Tám' (The Guns of
August): Cuốn lịch sử quân sự xuất bản năm 1962 và đoạt giải
Pulitzer năm 1963, được viết bởi Barbara W. Tuchman, một sử gia
Mỹ, tác giả hai lần đoạt giải Pulitzer. 'Guns of August' tường
thuật về các giai đoạn đầu tiên của Thế chiến I (bắt đầu từ
28-7-1914, bùng lên dữ dội từ tháng Tám năm đó với việc nước Đức
bắt đầu tham chiến), từ các quyết định tham chiến, cho đến khi
bắt đầu cuộc tấn công Pháp-Anh ngăn chặn bước tiến của Đức vào
Pháp. Kevin Rudd đã mượn tên cuốn sách này để nói 'cuộc chiến
thực sự' hoàn toàn có thể xảy ra ở châu Á, nếu 'những kẻ mộng du
của thế kỷ 21' - các nhà lãnh đạo Mỹ và Trung Quốc - không chịu
cân nhắc cẩn thận để kiềm chế leo thang xung đột. |