Cuộc chiến gián tiếp Pháp-Mỹ ở Việt Nam (1948-1963)
"La guerre indirecte franco-américaine au Vietnam (1948-1963)"
Revue Historique des Armées,
no. 276, (3ième trimestre 2014), pp. 44-56
(Tạp
chí Lịch sử quân đội,
số 276, (quý 3 năm 2014), trang 44-56)
Christopher Goscha
Minh Toàn dịch
Cựu hoàng của Việt Nam biết rằng : họ sẽ đến gõ cửa nhà ông. Đó là điều
họ vẫn làm. Việc Bảo Đại thoái vị năm 1945, việc ông đã năn nỉ Charles
de Gaulle đừng dùng vũ lực tái chinh phục nước Việt Nam và việc ông vẫn
là cố vấn trong chính phủ quốc gia mới của Hồ Chí Minh, thành lập năm
1945, cũng không làm họ ngừng lại. Những người này muốn có được từ ông
chính xác cùng một thứ mà người Pháp đã thao túng ông từ khi ông còn tấm
bé : hoàng đế là hiện thân của một vũ khí thuộc địa để chống lại những
người quốc gia và những người cộng sản, một biểu tượng sống động cho sự
hợp tác Pháp-Việt. Ông là gương mặt hoàng gia cho phép người Pháp huy
động quần chúng nông dân, là công cụ hành chính cho phép cai trị gián
tiếp đất nước này.
Tuy nhiên, "giải pháp Bảo Đại" không sinh ra sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, mà đã ra đời ngay sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1). Léon
Pignon, Cao ủy Pháp ở Đông Dương trong khoảng từ năm 1948 đến 1950, do
kinh nghiệm lâu năm của mình trước chiến tranh ở thuộc địa, ông cũng
biết rất rõ là Bảo Đại sẽ được huy động lần nữa. Tuy nhiên, ba khía cạnh
phân biệt giải pháp Bảo Đại được hình dung bởi Pignon với những phiên
bản trước đó là : người Pháp hiện tại chấp nhận mở rộng nền quân chủ ra
toàn cõi Việt Nam; vua Việt Nam làm việc sóng đôi với các quốc vương ở
Lào và ở Campuchia dưới sự kiểm soát của Pháp, trong khuôn khổ một giải
pháp Đông Dương; người Pháp làm thích nghi ba nhà nước liên kết này với
phương Tây, nhằm dùng Chiến tranh lạnh để gián tiếp kéo dài quyền lực
thuộc địa ở Đông Dương (2).
Cuối cùng, Pignon tìm kiếm hậu thuẫn quốc tế cho nền quân chủ thuộc địa.
Việc người Pháp nghĩ đến việc kêu gọi Mỹ để giữ Đông Nam Á là sự thực
được biết rõ. Người Anh làm y hệt. Đối mặt với các cuộc nổi dậy do cộng
sản lãnh đạo ở Mã Lai và ở Việt Nam, Pháp và Anh thúc giục Mỹ, ban đầu
còn do dự, vượt qua sự ngập ngừng của họ để tham gia bảo vệ an ninh ở
Đông Nam Á chống lại một tai họa còn lớn hơn chủ nghĩa thực dân : đó là
sự bành trướng của cộng sản Trung-Xô. Từ năm 1948, người Pháp, được
người Anh hỗ trợ, bắt đầu đưa ra giải pháp Bảo Đại trong các cuộc đối
thoại với các nhà ngoại giao Mỹ, trong khi các chiến lược gia ở
Washington ra sức tài trợ việc tái thiết nhanh chóng Nhật Bản, là bộ
phận chủ đạo trong việc ngăn chặn của Mỹ ở Châu Á, đặc biệt nhờ vào thu
nhập của xuất khẩu ở Đông Nam Á. Giải pháp Bảo Đại ngày càng trở nên hấp
dẫn (3).
Về phần mình, người Mỹ thấy trong việc Pháp đề nghị được trợ giúp về
ngoại giao và quân sự một cơ hội gián tiếp kiềm chế chủ nghĩa cộng sản Á
Âu. Đặc biệt, điều này đúng là như vậy kể từ năm 1950, sau chiến thắng
của cộng sản Trung Quốc vào năm 1949 và sự phát động chiến tranh Triều
Tiên sau đó một năm. Kể từ đó, người Mỹ đặt nặng vào cán cân giải pháp
Bảo Đại. Họ công nhận các quốc gia liên kết của Việt Nam, Lào, Campuchia
và bắt đầu đem đến sự giúp đỡ quân sự cho người Pháp, trên danh nghĩa là
sự nỗ lực toàn cầu mà họ tiến hành để ngăn ngừa việc phát tán chủ nghĩa
cộng sản Á Âu. Trong khoảng từ tháng sáu 1950 đến tháng bảy 1953, họ
tham chiến trực tiếp chống Trung Quốc và Bắc Hàn. Nhưng nếu năm 1954
chấm dứt chiến tranh do người Pháp chỉ đạo ở Đông Dương, thì điều này
không đúng với Mỹ. Những người này nhanh chóng tìm kiếm để thay thế
người Pháp bằng một đồng minh khác nhằm theo đuổi chiến lược ngăn chặn
gián tiếp ở Đông Dương. Washington tìm thấy đồng minh này nơi Ngô Đình
Diệm và Việt Nam Cộng Hòa. Người Mỹ, nói cách khác, không "thay thế"
người Pháp ở Đông Dương - họ đã có mặt tại chỗ rồi. Những năm 1953-1954,
chính Ngô Đình Diệm là người thay thế người Pháp bằng người Mỹ.
Chế độ bảo hộ Đông Dương của Léon Pignon và hậu thuẫn quốc tế
của nó
Một nhà nước liên kết của Việt Nam
Léon Pignon, tại vị trong chính quyền Đông Dương kể từ đầu những năm
1930, là đầu não của "giải pháp Bảo Đại" sau chiến tranh. Ngay từ tháng
bảy 1946, ông đã khiển trách bộ chỉ huy quân đội Pháp vì đã kết hợp lực
lượng của họ với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) nhằm trục xuất những
người quốc gia không cộng sản của Việt Nam bằng cách lợi dụng sự rút lui
của quân đội Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Đừng tin vào giọng điệu kịch liệt
chống Pháp mà những người này có thể công khai nhận vào, vị cố vấn chính
trị cho Cao ủy tuyên bố như thế. Họ chống chủ nghĩa cộng sản còn mạnh
hơn chống chủ nghĩa thuộc địa. Do đó người Pháp phải khai thác sự đối
lập của những người quốc gia chống cộng sản để đánh lại kẻ thù thực sự
của Pháp, đó là VNDCCH. Một cách ngắn gọn, năm 1946, Pignon trình bày
chiến lược của mình với cấp trên như sau : "Phe
đối lập với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hiện tại phải phục vụ
quyền lợi thường trực của Pháp ở đất nước này. Phải lợi dụng điều đó,
bất kể đặc tính hay bản chất của khuynh hướng bề ngoài của nó đối với
chúng ta có là gì đi nữa" (5). Ông khuyên Cao ủy nên dựa vào nền
quân chủ để tập hợp những người quốc gia không cộng sản quanh một giải
pháp thân Pháp. Tháng một 1947, Cao ủy Georges Thierry d'Argenlieu tán
thành và đề nghị chính phủ của mình tiến hành khôi phục "thể chế quân
chủ truyền thống" (6). Không chậm trễ hơn nữa, ông sai các cựu quan chức
đã làm việc trước chiến tranh ở Đông Dương liên lạc với Bảo Đại tại miền
nam Trung Quốc và bắt đầu đàm phán.
Tuy chấp nhận mở ra các cuộc thương lượng với Emile Bollaert người kế vị
của Thierry d'Argenlieu, nhưng Bảo Đại từ chối trở về Việt Nam, trừ phi
người Pháp thực hiện nghiêm túc việc thống nhất đất nước và chấp thuận
cho nước ông độc lập. Người Pháp thất bại trong mưu toan của họ nhằm phá
hủy chính phủ Hồ Chí Minh trong chiến dịch Việt Bắc (l'Opération Léa)
vào mùa thu 1947, nhắm tới việc mở đường cho một chính phủ không cộng
sản có vua đứng đầu. Bảo Đại giữ vững lập trường của mình. Năm 1947 và
1948, nhiều người quốc gia không cộng sản, trong và ngoài nước, khuyến
khích Bảo Đại theo đuổi đòi hỏi của mình, tin chắc rằng họ có thể dựng
lên nền quân chủ chống Pháp và cộng sản, thậm chí còn đạt được cả ủng hộ
của Mỹ cho kế hoạch của họ. Nhiều cuộc họp đã diễn ra, ở mọi phía (bao
gồm cả với người Mỹ ở Trung Quốc), nhưng chúng không đạt được bất kỳ
tiến triển đáng kể nào.
Tuy nhiên, đối với người Pháp, thất bại là ngoài dự kiến. Vào tháng mười
1948, khi họ gia tăng nỗ lực xây dựng một nhà nước quanh Bảo Đại, chính
phủ của Phong trào cộng hòa nhân
dân bổ nhiệm Léon Pignon vào vị trí Cao ủy cho Đông Dương (7). Với
sự ủng hộ của chính phủ của mình, Pignon ngay lập tức huy động các mạng
lưới Đông Dương và dành hết năng lượng của mình để giải quyết vấn đề
Việt Nam bằng phương tiện là giải pháp Bảo Đại. Hơn nữa, vị tân Cao ủy
là một nhà quan sát tinh tế chính trường quốc tế. Ông chăm chú theo dõi
cách mà cuộc khủng hoảng ở Berlin, cú Praha, và kế hoạch Marshall dẫn
những đại cường đến bờ vực thẳm ở Châu Âu. Sự phân cực của định chế quốc
tế sau chiến tranh thành hai khối là rõ rệt, cũng như việc tham gia ngày
càng tăng của Mỹ vào Tây Âu, tượng trưng bằng việc thành lập Tổ Chức
Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) vào tháng tư năm 1949. Ở Châu Á,
Pignon hiểu rằng những sự kiện ở Trung Quốc ảnh hưởng trực tiếp đến số
phận của Đông Dương thuộc Pháp. Mà đầu năm 1949 này khởi đầu không có gì
là tốt đẹp : Mao Trạch Đông sửa soạn đánh Tưởng Giới Thạch và, không còn
nghi ngờ gì nữa, để ký kết một liên minh với Liên Xô mà có thể sẽ có
hiệu ứng kéo dài khối cộng sản đến tận biên giới phía bắc Đông Dương.
Một tiến triển khác cũng đáng lo ngại manh nha ló dạng : đó là sự phi
thuộc địa hóa đang diễn ra ở Châu Á - Miến Điện, Ấn Độ và Philippines kể
từ nay giành được độc lập. Pignon cũng theo dõi lĩnh hội cách thức người
Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc và Ấn Độ gây sức ép lên người Hà Lan để họ buông
hẳn Indonesia ra.
Trái với mọi mong đợi, Cao ủy, ê-kíp của ông và chính phủ Pháp vẫn tin
chắc rằng việc duy trì Đông Dương thuộc Pháp (và Châu Phi) là cốt yếu
cho lợi ích của Pháp và giải pháp Bảo Đại là phương tiện tốt nhất để bảo
toàn điều này. Như thế Pignon tạo ra một chiến lược gồm ba khía cạnh
nhằm làm dịu một số đề nghị từ phía những người Việt Nam không cộng sản,
nhưng không vì thế chấm dứt việc cai trị thuộc địa gián tiếp của Pháp ở
Đông Dương. Khía cạnh thứ nhất, Cao ủy hủy bỏ khuôn khổ năm bên của Liên
Bang Đông Dương (đã tồn tại de
facto [trên thực tế] từ
năm 1945) để thuận lợi cho việc tạo thành các quốc gia liên kết của Đông
Dương : là Việt Nam, Lào và Campuchia. Với Việt Nam điều này có nghĩa là
người Pháp chấp nhận chấm dứt tình trạng thuộc địa của Nam Kỳ và họ công
nhận việc thống nhất nó với các vùng đất bảo hộ An Nam và Bắc Kỳ, với
điều kiện duy nhất là Bảo Đại quay về lãnh đạo
Nhà nước liên kết này trong
Liên Hiệp Pháp. Sự "liên kết" này che đậy hai khía cạnh. Việt Nam của
Bảo Đại sẽ liên kết với hai Nhà nước khác của Đông Dương là Lào và
Campuchia, cả ba nước này cùng liên kết với Liên Hiệp Pháp do Paris lãnh
đạo. Người Pháp sẵn sàng chấp thuận cho ba nước Đông Dương này một sự
độc lập rộng lớn hơn, nếu mỗi nước này chấp nhận cho Pháp tiếp tục đóng
vai trò của thành viên "thứ tư", trên danh nghĩa là nước lãnh đạo Liên
Hiệp, chịu trách nhiệm về quan hệ giữa các nước này với nhau, cũng như
các hoạt động quân sự và công việc ngoại giao. Đó là ý nghĩa của thuật
ngữ chủ nghĩa bốn bên được
đưa vào từ vựng luật mới của ê-kíp Pignon : nước Pháp được tính là một
thành viên, thêm vào trong ba Nhà nước liên kết. Với danh nghĩa ngày,
Pháp định nhận lấy những phần việc liên bang - thuế quan, nhập cư và
tiền tệ lưu hành, đồng bạc Đông Dương.
Đại chiến lược các Nhà nước liên kết Đông Dương chỉ có thể hoạt động với
điều kiện mỗi nước tỏ ra trung thành với nền quân chủ của chính quốc gia
họ. Đó là khía cạnh thứ hai của chiến lược này dưới mắt của Cao ủy.
Pignon, giống những cộng tác thân cận của ông, tin chắc rằng quần chúng
nông dân Đông Dương vẫn còn trung thành với vua của họ và phương tiện
tốt nhất để làm đổi hướng sự tuyên truyền cộng sản, mà vẫn giữ được kiểm
soát trên họ, là hành động thông qua trung gian những vị vua này. Vị vua
trẻ tuổi Campuchia, Sihanouk, đã ngả theo người Pháp năm 1946, về phần
đồng cấp Lào của ông, Sisavang Vong thì vẫn luôn tỏ ra trung thành với
họ. Để hậu thuẫn các vua này và củng cố tính chính danh của họ, Pignon
mở ra các cuộc thương lượng để tập hợp các nhóm ly khai theo chủ nghĩa
quốc gia trong mỗi nước của ba nước này. Nói cách khác, nhằm đạt được
hậu thuẫn của các nhóm Khơ-me và Lào theo chủ nghĩa quốc gia mà các lãnh
đạo của họ ẩn náu ở Thái Lan và không thừa nhận chính quyền Pháp kể từ
Chiến Tranh Thế Giới thứ hai. Những người Lào Tự Do (Laos
Issara) đã thành lập một chính phủ lưu vong ở Băng Cốc ngay từ năm
1946. Còn đối với phong
trào của những người Khơ-me Tự Do (Khmer
Issarak), họ cũng thành lập một chính phủ kháng chiến năm 1948. Các
chính phủ lưu vong này, riêng sự tồn tại của họ (và cũng do phẩm cách
các nhà lãnh đạo của họ) đã đe dọa tính chính danh của các nền quân chủ
Khơ-me và Lào. Sau một loạt những nỗ lực có trả chi phí, Pignon và ê-kíp
của ông đạt được việc tập hợp phần lớn các lãnh đạo ly khai cho đại
chiến lược quân chủ ở Đông Dương của mình (8). Việt Nam là cái chốt
chính của kế hoạch. Mà không có Bảo Đại thì không thể có giải pháp bảo
hoàng và họ bắt đầu thiếu thời gian. Vào tháng tư 1949, lúc Hồng Quân
Trung Quốc băng qua sông Dương Tử đi về hướng Đông Dương, chính phủ chấp
nhận việc thống nhất Nam Kỳ với An Nam (Trung Kỳ) và Bắc Kỳ. Đổi lại,
Bảo Đại phải về nước đứng đầu Nhà nước liên kết của Việt Nam cộng tác
với Sisavang Vong, Sihanouk và Léon Pignon, là người tạo ra các vua Đông
Dương. "Chúng tôi cũng cần một
người hùng", một ngày nọ ông thổ lộ với Lucien Bodard, ông nói thêm
: "để chống lại Hồ Chí Minh,
chúng tôi cần phải có một người chống-Hồ Chí Minh"(9).
Khía cạnh thứ ba trong chiến lược của Pignon là nhằm lấy được sự ủng hộ
quốc tế cho chế độ bảo hộ bốn thành phần ở Đông Dương, do người Pháp
soạn thảo. Kể từ 1948, người Pháp đã bắt đầu xem xét lại cuộc chiến
chống VNDCCH và vai trò của các Nhà nước liên kết như là thành phần tham
dự của cuộc đấu tranh rộng lớn hơn do Phương Tây cầm đầu, trong khuôn
khổ của Chiến tranh lạnh, chống lại sự đi lên của chủ nghĩa cộng sản Á
Âu. Như Mark Lawrence đã chứng minh, mục đích nhằm huy động sự ủng hộ
của Tây Dương quanh giải pháp Bảo Đại. Pignon đánh cược rằng ý muốn
chiến lược của Hoa Kỳ nhằm ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản rốt cục sẽ thắng
sự do dự của họ có từ năm 1945. Sự lưỡng lự này được giải thích bởi việc
họ e ngại sẽ gây ấn tượng là nước ủng hộ chế độ thuộc địa Pháp lỗi thời.
Người Pháp lặp đi lặp lại cho những người muốn nghe - tức cho các văn
phòng Châu Âu và Đông Nam Á của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ở Washington, với
các lãnh sự ở Hà Nội và ở Sài Gòn, cũng như đại sứ Mỹ ở Paris - rằng
Pháp (Tây Âu) và Đông Dương thuộc Pháp (Đông Nam Á) là những mắt xích
trọng yếu cho chiến lược ngăn chặn toàn cầu của Hoa Kỳ. Và việc lập luận
tiếp tục lôgíc của nó : khả năng nước Pháp làm thành con đập ngăn chủ
nghĩa cộng sản ở Châu Âu sẽ gắn liền với cuộc chiến mà nó đứng đầu chống
lại những người cộng sản ở Đông Dương. Hồ Chí Minh không còn là mối đe
dọa quốc gia chủ nghĩa chống lại trật tự thuộc địa, nhưng là một mắt
xích của mối đe dọa cộng sản quốc tế lên Phương Tây. Vì chiến tranh kéo
dài và một cuộc xung đột còn rộng lớn hơn manh nha xuất hiện, bộ tư lệnh
tối cao ở Đông Dương, nơi hết sức cần sự gia tăng trợ giúp quân sự đã
gióng lên cảnh báo cho các bên thân cận. Năm 1949, do Anh thúc đẩy,
người Mỹ chấp nhận cấp viện trợ cho chế độ bảo hộ ở Đông Dương của
Pignon.
Ngày 8 tháng ba 1949, những nỗ lực bền bỉ của Pignon đã được đền đáp
(10) : Bảo Đại ký Hiệp định Élysée với tổng thống Vincent Auriol, đóng
dấu sự ra đời của Nhà nước liên kết Việt Nam. Các hiệp định tương tự
theo ngay sau đó cho Lào và Campuchia. Những trở ngại về hiến pháp dường
như chặn lại theo kiểu không vượt qua được việc thống nhất của Nam Kỳ
với Việt Nam. Điều đó biến mất khi vào tháng năm Quốc hội Pháp đã bỏ
phiếu cho sự hợp nhất này, là việc bị làm lu mờ đi trong những năm 1860
và như thế được lần đầu tiên khôi phục lại. Vài tuần sau, Bảo Đại, được
ủng hộ, hay chính xác hơn là bị liên minh Đại Tây Dương thúc đẩy, quay
về Việt Nam nơi ông chủ trì chính thức việc thành lập Nhà nước liên kết
Việt Nam ngày 2 tháng bảy 1949. Chúng tôi đã đề cập : sự hiện hữu chủ
nghĩa bốn bên của Pháp và việc nằm trong Liên hiệp Pháp có nghĩa rằng
các Nhà nước liên kết không thể hưởng được trọn vẹn độc lập của mình
trên phương diện tài chính, thương mại, quân sự và ngoại giao. Ngắn gọn
và sáng suốt, Lucien Bodard đã viết "‘chủ nghĩa bốn bên’ là sự kéo dài
của Đông Dương dưới một hình thức gián tiếp"(11).
Tuy nhiên cũng phải ghi nhận rằng người Pháp không phải là những người
duy nhất tiến hành theo thể thức ấy. Cùng thời điểm, phản ứng lại việc
tạo lập các "Nhà nước liên kết ở Đông Dương" do Pignon điều khiển, chính
phủ của Hồ Chí Minh tạo ra các Nhà nước liên kết riêng của mình vào
những năm 1949-1950, bằng cách tổ chức các chính phủ kháng chiến và các
mặt trận quốc gia của Lào Issarak và của Khơ-me Issarak. Như thế "cộng
sản Việt Nam" đáp lại "thực dân Pháp" bằng cách đưa ra quyền lực gián
tiếp riêng của họ ở Đông Dương. Thực tế họ đã thêm vào hai nhà nước mới
trong cuộc tranh giành chủ quyền hậu thuộc địa. Bằng cách không chấp
nhận từ bỏ Đông Dương, người Pháp cũng như người Việt, đã tạo điều kiện
cho nội chiến bao trùm toàn bộ lãnh thổ Đông Dương.
Sự quốc tế hóa chủ nghĩa bốn bên của Pháp lên Đông Dương muốn bởi Pignon
đạt tới đỉnh điểm vào tháng một năm 1950, khi Mao và Stalin công nhận
VNDCCH. Sợ sự hỗ trợ của Trung-Xô dành cho VNDCCH có thể đảo ngược tương
quan quân sự chống lại người Pháp, Cao ủy lặp đi lặp lại không quanh co
với chính phủ của mình là tại sao hiện nay Pháp phải quốc tế hóa chiến
tranh. Người Pháp tiếp tục vật lộn để giữ Đông Dương khỏi gọng kìm cộng
sản Á Âu, nhưng bù lại Anh và Mỹ phải gia tăng sự trợ giúp quân sự của
họ, công nhận về mặt ngoại giao các nhà nước liên kết của Đông Dương và
chấp nhận sự hiện diện kéo dài của thuộc địa Pháp. Bản chất của trao đổi
không thể rõ ràng hơn, như Pignon đã lặp lại với chính phủ của ông "vì
đó là cái giá duy nhất mà chúng ta có thể chấp nhận sức nặng của nó"
(12). Tháng hai 1950, Anh và Mỹ thực hiện hợp thức hóa việc công nhận
các quốc gia liên kết Đông Dương. Tháng chín, trong khi người Mỹ gửi các
đội quân chiến đấu bảo vệ Nam Hàn, Washington cho phép thành lập ở Sài
Gòn Phái bộ Cố vấn Quân sự (Military
Assistance Advisory Group – MAAG), có nhiệm vụ dẫn dắt và phối hợp
giúp đỡ quân sự cho các quốc gia liên kết của Việt Nam, Lào và Campuchia
thông qua trung gian người Pháp. Đó cũng là khuynh hướng của chủ nghĩa
bốn bên - Pignon viết vào tháng một : "Sự
giúp đỡ nếu có cho các quốc gia liên kết cũng phải thông qua trung gian
chúng ta để đến với họ". Người Pháp đi chinh chiến, thậm chí có thể
cho người Việt nhập ngũ để giữ chủ nghĩa cộng sản dưới sự kiểm soát ở
Đông Nam Á, nhưng đổi lại người Mỹ phải công nhận rằng người Pháp giữ
dây cương quyền lực, chứ không phải là người Đông Dương. Washington chấp
nhận giao kèo và như thế bước vào cuộc chiến ngăn chặn gián tiếp ở Đông
Dương, đồng thời chỉ huy trực tiếp cuộc chiến ở Triều Tiên và bằng cách
thiết lập hàng loạt các căn cứ quân sự, các trợ giúp kinh tế và các liên
minh an ninh với Tây Âu (Đức) cho đến tận Đông Á (Nhật). Pháp tiếp tục
lãnh đạo gián tiếp Đông Dương trong khi Mỹ đảm bảo rằng người Pháp ở tại
chỗ tiếp tục đi theo hướng chiến lược ngăn chặn toàn cầu của họ. Điều
làm các chiến lược gia Mỹ quan tâm nhất ở Đông Dương là sự có mặt của
hải quân, không quân và nhất là quân đội viễn chinh Pháp ở Bắc Bộ, còn
việc độc lập tức thì cho Việt Nam thì ít hơn. Nhìn trong một viễn cảnh
toàn cầu, ta có phải thực sự ngạc nhiên khi biết rằng sự phát triển của
"chiến tranh tâm lý" Pháp kể từ năm 1950, cũng như việc thành lập
Lực lượng Biệt kích Không vận Hỗn
hợp (Groupement de Commandos
Mixtes Aéroportés - GCMA) nổi tiếng là các tác phẩm của Pháp-Mỹ
không? (13)
Cuộc chiến của Mỹ ở Đông Dương tuy gián tiếp nhưng đã bắt đầu vào năm
1950, chứ không phải năm 1954. Về nhiều mặt, sự ngăn chặn gián tiếp ít
tốn kém hơn là gửi quân đội Mỹ đến, điều khiển một quốc gia mới ló dạng
và huấn luyện quân đội bản địa. Người Pháp có thể lo liệu được việc này.
Cũng không nên phóng đại sự bài chủ nghĩa thuộc địa của Mỹ. Nhà Trắng
không có chút đắn đo nào để chuyển sự giúp đỡ của họ đến thông qua người
Pháp. Trong giai đoạn quyết định và nóng bỏng của Chiến tranh lạnh, các
nhà lãnh đạo Mỹ cũng không ngại ngần kêu gọi những người quốc gia không
cộng sản bình tĩnh. Đây là những người đòi hỏi to và rõ việc phi thuộc
địa hóa đối với người Pháp. Khi thủ tướng của Bảo Đại, Nguyễn Phan Long,
thử đạt được sự giúp đỡ từ Mỹ nhằm thúc đẩy Pháp chấp thuận độc lập cho
Việt Nam, ông này đơn giản đã bị gạt ra khỏi quyền lực và bị thay thế.
Người Mỹ nhắm mắt làm ngơ. Các nhà ngoại giao và nhà báo chống thuộc địa
có hối tiếc chính sách này đi nữa thì điều này không hề có hiệu ứng lên
chiến lược Pháp-Mỹ. Nhân dịp thăm Việt Nam cuối năm 1953, phó tổng thống
Richard Nixon đề nghị những người Việt Nam quốc gia đừng quấy rối người
Pháp quá khi họ đang đi đến việc chạm trán ở Điện Biên Phủ. Và cùng năm,
lúc Norodom Sihanouk trình bày với người Mỹ cuộc thánh chiến đòi độc
lập, John Foster Dulles tức giận, quở trách vị vua này khi tuyên bố với
ông rằng giờ không phải là thời điểm để đòi độc lập với người Pháp.
Tuy nhiên có những tiếng nói ly khai của người Mỹ. Trước hết là tiếng
nói của thượng nghị sĩ dân chủ bang Massachusetts, John F. Kennedy.
Chính ông đã đến Việt Nam vào năm 1951 và đã gặp một số lớn các thành
phần những nhân vật Pháp và Việt Nam ở đó. Tuy rằng người Pháp đảm bảo
với ông mọi thứ đều ổn, Kennedy rời đất nước này với ấn tượng rõ ràng
rằng Pháp không sẵn sàng từ bỏ quyền lực thuộc địa của họ và bằng việc
hậu thuẫn người Pháp thay vì người Việt Nam, những người có trách nhiệm
của Mỹ đã gây tổn hại đến chiến lược của chính họ về Chiến tranh lạnh
bằng cách mạo hiểm chơi trò chơi của những người cộng sản. Thượng nghị
sĩ dân chủ Mike Mansfield, người cũng đến Việt Nam vào năm đó, đã đi đến
những kết luận tương tự (14). Có thế mạnh với vị trí của họ bên trong Ủy
ban Quan hệ Quốc tế ở Thượng viện, họ kêu gọi Nhà Trắng gây áp lực lên
người Pháp để những người này chấp thuận độc lập hoàn toàn cho Việt Nam.
Theo họ, đó là phương tiện tốt nhất để đánh lại chính phủ cộng sản của
Hồ Chí Minh. Tháng bảy năm 1953, Kennedy nhận xét rằng "Những nhượng bộ
của Pháp cho một sự độc lập hạn chế đối với dân tộc Việt Nam vẫn quá nhỏ
và quá muộn" (15). Những người cộng hòa phản đối các điểm sửa đổi bổ
sung của họ, tin chắc rằng sự ràng buộc như thế có thể khiến người Pháp
rút quân khỏi Đông Dương. Chiến lược của Pignon, nhắm đến việc loại
người Pháp khỏi những dự định phi thuộc địa hóa của Mỹ, đã hoạt động mỹ
mãn.
Việc ngăn chặn gián tiếp tiếp tục :
Ngô Đình Diệm thay thế người Pháp
Sự lên ngôi của nhà họ Ngô và loạt ngăn chặn gián tiếp mới
(16)
Ít nhất giả dụ là Ngô Đình Diệm - người mà Pháp thải hồi trong những năm
1930, trong giải pháp Bảo Đại lần thứ nhất, rồi thêm lần nữa năm 1948 -
không quyết định đích thân đứng ra bênh vực cho chủ đích không cộng sản
với người Mỹ. Tuy họ không có bất kỳ kế hoạch dứt khoát nào khi rời khỏi
Việt Nam năm 1950, anh em ông và chính ông muốn ít ra xoay chuyển những
ủng hộ của Mỹ mang lại cho Pháp để hướng chúng về những người quốc gia
Việt Nam không cộng sản, còn không thì hướng về trực tiếp cho chính họ.
Diệm bắt đầu cho Hoa Kỳ nghe thấy chủ ý của mình nơi nhiều nhân vật
thuộc các lĩnh vực ngoại giao, chính trị, tôn giáo, đại học và báo chí
của đất nước. Khi chủ nghĩa McCarthy làm rung chuyển sâu sắc trật tự
chính trị Mỹ, Ngô Đình Diệm nói đi nói lại với những người đối thoại với
ông rằng bằng cách từ chối buông Đông Dương ra, người Pháp tham gia trò
chơi của những người cộng sản trong một thế giới đang phi thuộc địa hóa
nhanh chóng. Ông không bao giờ quên nhấn mạnh là Pháp dùng Mỹ để duy trì
quyền lực thuộc địa của họ (17).
Tuy gặp khó khăn, đặc biệt là người ta đã không ngớt khuyên ông đừng quá
thúc giục người Pháp chấp thuận cho nước ông độc lập, Diệm chậm mà chắc,
xây dựng mạng lưới ủng hộ cho chủ định của mình mà nó vượt xa những mối
quan hệ công giáo. Đầu năm 1954, những tiếp xúc của ông mở rộng đến
những người Mỹ có ảnh hưởng nhất thời ấy : thượng nghị sĩ Kennedy và
Mansfield, chính khách Dean Acheson, William O. Douglas ở Tòa án tối
cao, William Donovan phục vụ trong tình báo và hồng y có ảnh hưởng
Francis Spellman. Sự hình thành mạng lưới này đã khiến ông trở nên đúng
là người cho vị trí này, trong khi ngày càng nhiều nhà chức trách Mỹ
nghi ngờ tính thích đáng sách lược của việc ủng hộ chủ nghĩa thuộc địa
Pháp, thì họ cũng tỏ ra lưỡng lự với ý tưởng can thiệp trực tiếp ở Đông
Dương. Tháng năm 1953, Mansfield sau buổi ăn tối với Diệm kết luận rằng
ông "cảm thấy nếu ai đó có thể
nắm miền Nam Việt Nam thì đó chính là người như Ngô Đình Diệm" (18).
Tại chỗ ở Việt Nam, các thành viên của gia đình Diệm, chủ yếu em của ông
là Ngô Đình Nhu, phổ biến chủ định quốc gia ra trong giới chính trị Việt
Nam, các tổ chức thanh niên, công giáo, công đoàn và trong giới lao
động. Nhu, bản thân là một người tranh đấu, là người gầy dựng một đảng
chính trị mới được biết đến dưới tên gọi
Cần lao nhân vị cách mạng.
Ảnh hưởng bởi học thuyết của triết gia Pháp Emmanuel Mounier, "chủ nghĩa
nhân vị", giống như một bộ phận đạo Công giáo Pháp đổi hướng sang cánh
tả hướng về hành động xã hội và chống chủ nghĩa thực dân, Nhu nhập cảng
tư tưởng của thuyết nhân vị vào Việt Nam. Gia tộc họ Ngô nghĩ rằng những
tư tưởng này hợp làm một với tư tưởng chủ nghĩa quốc gia sẽ đặt Việt Nam
vào đường ray của kỷ nguyên hậu thuộc địa và có thể quyến rũ người công
giáo cũng như người không công giáo.
Chiến lược của anh em họ Ngô - đặt họ và chủ đích của họ đứng về phía
người Mỹ và phía những người Việt bất mãn - rốt cục đưa họ lên đằng đầu
khi tình thế Đông Dương và quốc tế tiến triển nhanh chóng vào năm 1953
và 1954. Ở bình diện địa phương, sự thụ động của Bảo Đại đã thuyết phục
hơn một người quốc gia là họ phải nắm chủ đích của mình trong tay hoặc
sẽ bị biến thành con rối. Hơn nữa, sự ức chế ngày càng lớn này biểu lộ ở
ước muốn ngày càng mãnh liệt nhằm tạo ra những đảng phái chính trị thực
thụ, một quốc hội, một nền cộng hòa, đến nỗi những người quốc gia có thể
huy động các đảng phái chính trị và nền dân chủ chống lại Bảo Đại, các
bộ trưởng của ông và những người bỏ ra vốn liếng thuộc địa cho họ. Cuối
cùng, quyết định của chính phủ Pháp đơn phương phá giá đồng Đông Dương
vào tháng năm 1953 là quá thể đối với tất cả họ. Quyết định này đóng vai
trò là tiếng thét tập hợp những người quốc gia giận dữ, nếu cần, là một
minh chứng nhục nhã của tính chất thuộc địa mà mối quan hệ Pháp-Việt bảo
tồn. Khi chính phủ mới của Pháp do Joseph Daniel đứng đầu hứa "hoàn
thiện" nền độc lập của Nhà nước liên kết Việt Nam, anh em họ Ngô rốt cục
đã sẵn sàng và nhất quyết đạt được mục đích của họ.
Tuy nhiên, diễn tiến dồn dập của tình hình quốc tế năm 1953-1954 có thể
đe dọa nặng nề tới những người ủng hộ Ngô Đình Diệm cũng như tới VNDCCH
: cái chết của Stalin đến bất ngờ vào tháng Ba năm 1953, sự đổi hướng
nhanh chóng của Trung-Xô tiến tới chung sống hòa bình đạt đến đỉnh cao
với việc ngưng bắn ở Triều Tiên được ký kết vào tháng bảy, sự gia tăng
những trao đổi quốc tế nhằm thương lượng kết thúc chiến tranh Đông
Dương, và tuyên bố của Laniel hứa hẹn thương lượng một sự "rút lui vẻ
vang" khỏi xung đột Đông Dương. Miễn là Pháp chưa thuận tình cho nhà
nước liên kết Việt Nam độc lập trọn vẹn, thì không có gì chính thức ngăn
trở người Pháp thương lượng trực tiếp với khối cộng sản, đặc biệt là với
VNDCCH, lẫn việc ký kết một hòa ước quốc tế trên đầu những nhà lãnh đạo
quốc gia liên kết Việt Nam. Trong mọi điều, viễn cảnh này là hiểm họa
lớn nhất cho những người quốc gia không cộng sản. Khi những đàm phán
quốc tế được tiến hành vào tháng chín năm 1953 để chấm dứt xung đột ở
Triều Tiên và Đông Dương, anh em họ Ngô quay sang tấn công chống lại
người Pháp, Bảo Đại và các bộ trưởng của ông. Vào tháng chín, dựa vào
nhiều giao thiệp, Nhu chủ trì đại hội Đại đoàn kết.
Trong đại hội này, họ đã chú trọng mời Bảo Đại và nội các của ông để làm
nổi bật sự không chính danh quốc gia chủ nghĩa của những người này, làm
cho người Pháp bất ngờ. Đại hội này tập hợp những nhà lãnh đạo đến từ
mọi nhóm xã hội chính trị và tôn giáo của đất nước. Trong khi những đại
diện của họ chia sẻ sự ức chế của mình đối với Bảo Đại và người của ông,
đại hội kêu gọi Laniel mở ra ngay lập tức những cuộc thương lượng về độc
lập hoàn toàn cho đất nước. Thông điệp như thế là rõ ràng : nếu Bảo Đại
không muốn lãnh đạo thì những người khác sẽ làm thay ông. Nhất là đại
hội này cho phép anh em họ Ngô trở thành những gương mặt sáng giá và
quảng bá hình ảnh họ là kiến trúc sư của một giải pháp thay thế đích
thực cho chủ nghĩa quốc gia. Trong một vài tháng, sau khi chuyển phong
trào Cần Lao thành một đảng chính trị, Nhu dựa vào cấu trúc này cũng như
vào những giao thiệp công đoàn để xây dựng một mạng lưới ủng hộ trung
thành cho anh của ông, được giới thiệu như là người quốc gia duy nhất
chân thành có thể chống lại người Pháp, có khả năng hợp nhất những người
quốc gia không cộng sản và thuyết phục người Mỹ chấm dứt chính sách hỗ
trợ nền bảo hộ của Pháp. Nhà họ Ngô lên án những khái niệm "Nhà nước
liên kết", "chủ nghĩa bốn bên" và "Liên hiệp". Họ kêu gọi người Pháp
thiết lập một "Commonwealth"
(thịnh vượng chung) theo kiểu Anh.
Đại hội tháng chín thúc đẩy Bảo Đại hành động. Vào tháng mười, Quốc
trưởng tập hợp những liên minh của mình trong một hội nghị được tổ chức
riêng biệt trong đó các nghị quyết giờ đây đòi hỏi độc lập toàn bộ.
Người Pháp lình xình không dấn bước, hứa hẹn thương lượng, nhưng từ chối
đương đầu giải quyết những phức tạp về mặt thể chế và về chính sách đối
nội là điều đã ngăn họ phản ứng nhanh hơn. Trên tất cả, họ sợ rằng bằng
cách chấp thuận độc lập toàn bộ cho Nhà nước liên kết của Việt Nam năm
1953-1954, thì dưới hiệu ứng domino Liên Hiệp Pháp của họ sẽ sụp đổ.
Trong lúc Diệm và Sihanouk ở nước ngoài bênh vực cho chủ trương độc lập
của mình, thì người Pháp đã tham dự vào một cuộc chiến pháp lý rộng lớn
hơn với những người quốc gia chủ nghĩa ở Tunisie, Maroc, Madagascar và ở
Algérie. Thậm chí sau thất bại Điện Biên Phủ, người Pháp không thể tự
cho phép giải phóng Việt Nam khỏi quy chế "liên kết" hoàng gia vì e ngại
trường hợp này có thể tái diễn ở những nơi khác trong Liên Hiệp Pháp.
Hội nghị Genève vừa sắp sửa mở ra vào năm 1945 thì Bảo Đại và Ngô Đình
Diệm đến Châu Âu, quyết tâm buộc tay người Pháp. Vì nguy cơ thấy toàn bộ
đất nước chuyển sang khối cộng sản, nên phải thuyết phục các nhà ngoại
giao Mỹ thay đổi chính sách hỗ trợ Pháp của họ. Đầu tháng sáu 1954, khi
Trung Quốc của Chu Ân Lai nỗ lực đạt được thỏa thuận với Pierre Mendès
France, Bảo Đại huy động Ngô Đình Diệm cho vị trí thủ tướng. Trong cuộc
đối thoại tiền định này giữa hai người, ở Pháp, Bảo Đại đưa Diệm đến một
căn phòng có treo thập giá trên tường. Đứng trước thập giá, ông tuyên bố
với Diệm : "Đây là chúa của ông.
Ông hãy thề trước chúa sẽ giữ gìn lãnh thổ mà ông được trao phó. Ông bảo
vệ nó chống lại những người cộng sản và nếu cần thì chống lại người Pháp".
Diệm đã thề (19). Người Pháp, liên minh Việt Nam của họ và VNDCCH đã có
mọi lý do để diễn giải cử chỉ này mà thực chất nó là : một hành động thù
địch hiển nhiên.
Bảo Đại quyết định chọn Ngô Đình Diệm chủ yếu để xoay chuyển sự giúp đỡ
của Mỹ cho người Pháp để hướng nó về những người quốc gia không cộng
sản, mục tiêu để đảm bảo rằng Nhà nước liên kết của Việt Nam
sống sót sau các thương lượng
quốc tế. Về phía người Mỹ, họ nhận thấy rõ ràng rằng chính phủ Pháp và
quân đội của nó muốn rời khỏi Đông Dương. Vấn đề chia cắt đất nước đã
được đề cập ở Genève, trong khi ở tại chỗ, các tướng lĩnh rút quân của
họ về đồng bằng. Không có khả năng đạt được phê chuẩn cho hiệp ước thành
lập một quân đội Châu Âu, Mendès France đã chỉ khuếch đại sự ức chế của
Mỹ. Dưới mắt nhiều người Mỹ, Pháp từ nay kể như được liệt vào những đối
tác kém tin cậy, ở Châu Âu cũng như ở Châu Á (20).
Chính trong bối cảnh vừa phức tạp vừa thất thường mà Dulles, được
Eisenhower ủng hộ, bắt đầu thật nhanh chóng suy nghĩ lại điều cần phải
là chính sách của Mỹ ở Việt Nam theo những sơ đồ mà Kennedy ưu tiên. Vào
tháng tư năm 1954, Ngoại trưởng đã có chỉ thị nhấn mạnh "sự cực kỳ quan
trọng" của việc thúc đẩy người Pháp ký hiệp ước chấp thuận độc lập toàn
bộ cho Nhà nước liên kết của Việt Nam trước khi mở ra các cuộc thương
lượng về Đông Dương. Nếu Pháp không làm điều này, Mỹ khi đó phải "giành
phần chủ động" trong cuộc xung đột, với điều kiện duy nhất là có thể hợp
tác với "một chính phủ quốc gia
Việt Nam thực thụ" (21). Đó chính xác là điều Diệm mong muốn và đề
nghị. Đây là lý do vì sao những lợi ích của chính quyền Eisenhower và
của Diệm rốt cục hội tụ rất nhanh chóng ở Genève, vào tháng sáu và tháng
bảy năm 1954. Khi người Pháp ký hiệp ước ngừng bắn với các đồng cấp Việt
Nam của VNDCCH, là những người được Mátxcơva và Bắc Kinh hậu thuẫn, thì
chính phủ của thủ tướng Ngô Đình Diệm, hoàn toàn được Washington ủng hộ,
dứt khoát từ chối làm điều tương tự. Để ngăn chặn sự sụp đổ toàn bộ chủ
nghĩa quốc gia Việt Nam không cộng sản, Diệm muốn người Pháp phải ra đi,
trong khi người Mỹ tuyệt vọng tìm kiếm một đồng minh mới trong cuộc
chiến tranh gián tiếp của họ chống lại những người cộng sản kiểm soát "lục
địa Á Âu" từ Elbe đến miền nam Trung Quốc.
Kết luận : từ ngăn chặn gián tiếp đến can thiệp trực tiếp …
Hoa Kỳ, Ngô Đình Diệm và việc hình thành một nước Việt Nam khác
(22)
Khi nhìn lại những quan hệ này một vài tháng trước đó, thì mối quan hệ
giữa Mỹ, Pháp và anh em họ Ngô đã thay đổi sâu đậm sau khi ra khỏi hội
nghị lịch sử Genève vào tháng bảy 1954. Hiện tại khi từ Hà Nội nhà nước
của Hồ Chí Minh đã sẵn sàng nắm kiểm soát toàn bộ Bắc Việt, thì người Mỹ
đặt cược toàn bộ vào một "Nam Việt" được hoàn toàn phi thuộc địa, chống
cộng sản, kinh tế thịnh vượng và được vũ trang tận răng, có khả năng tạo
thành một cái đập ngăn ở Đông Dương trong cuộc vật lộn toàn cầu kìm hãm
chủ nghĩa cộng sản. Eisenhower, người xém lao vào cuộc chiến Đông Dương
năm 1954 trước khi rút lại, đã chia sẻ ý tưởng xây dựng một Nam Việt
(nhà nước Việt Nam trừ đi miền bắc) và lập một hiệp ước an ninh chung
bao gồm nước này cùng với Lào và Campuchia. Sau khi đưa ra lý thuyết
domino nổi tiếng của mình vào tháng tư năm 1954, tổng thống giao cho
Dulles dựng lên cái sẽ trở thành Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) vào
tháng chín. Nó được tạo thành như là một mắt xích gắn vào việc đan lưới
rộng lớn các hiệp ước của Mỹ, trải dài từ Liên minh Đại Tây Dương ở
phương Tây cho đến những hiệp định song phương ở phương Đông với Nhật
Bản và Đài Loan, và chúng buộc lại với nhau ở phía Nam bởi các điểm nối
ở Iraq, Pakistan, Băng Cốc, Úc và New Zealand cũng như ở Philippines.
SEATO đóng lại vành đai phía Nam của việc ngăn chặn do chính quyền
Eisenhower mong muốn. Nó cũng phục vụ cho việc cản trở Trung Quốc công
cụ hóa các nước trung lập và không cộng sản như Ấn Độ, Miến Điện và
Indonesia, trong mục đích nhằm chọc thủng vành đai này. Và vì Chu Ân Lai
nghĩ chống lại được người Mỹ bằng việc trung lập hóa Đông Dương ở
Genève, nên Washington mở rộng việc bảo vệ của SEATO cho các Nhà nước
liên kết, nhưng không vì thế mà chính thức chấp nhận họ vào trong tổ
chức này. Những nhà chiến lược Mỹ tin rằng, dù đúng hay sai, hiệp ước
Trung-Xô do Stalin và Mao ký vào năm 1950 đã có hiệu ứng không chỉ củng
cố sự thống trị cộng sản ở "lục địa Á Âu", mà còn cho phép Matxcơva và
Bắc Kinh thúc đẩy lập trường của họ ở Đông Nam Á qua Bắc Kỳ nằm chính
giữa, giống như việc người Nhật đã làm năm 1940. Ra khỏi chiến tranh thế
giới thứ hai, người Mỹ thai nghén chiến lược của họ mang tính chất thực
sự quốc tế.
Ngô Đình Diệm đảm bảo với người Mỹ ông đúng là người cho vị trí này,
đồng thời nỗ lực xây dựng và giữ yên ổn cho một nhà nước độc lập và
chính danh, kinh tế khỏe mạnh và chính trị tập trung. Các anh em của ông
và ông có niềm tin vững chắc rằng họ là những người tài giỏi duy nhất có
thể làm điều này. Ít nhất theo mắt họ, quá nhiều nhà quốc gia chủ nghĩa
đã thỏa hiệp bằng cách đặt cược vào người Pháp hoặc bằng việc không
tuyên bố gì : thêm lý do để họ nghĩ mình là những người được chọn của
quốc gia. Không kể đến những thành công giành được năm 1953-1954, là
điều đã đóng góp tương đương làm tăng niềm vững tin của họ. Tuy nhiên,
những ý kiến chỉ trích nổi lên chống đối sự trượt dài nguy hiểm vào
quyền lực độc tài và gia đình trị, được hiện thân bởi Diệm là người ngày
càng dựa vào gia đình mình và các mạng lưới công giáo để cầm quyền. Họ
đáp lại rằng đối với gia đình họ Ngô, điều quan trọng nhất nằm ở chỗ
khác : đó là hành động và có được kết quả. Thời gian sẽ trả lời. Những
người thực dân và những người cộng sản đã mặc cả một nửa đất nước ở
Genève, họ thét lại. Bảo Đại hoàn toàn bị vượt qua bởi các sự kiện này,
giữ Diệm làm thủ tướng và cho ông ta điều mà gia đình họ Ngô muốn : tức
toàn bộ quyền lực. Một năm sau, Bảo Đại không còn ở đó. Quân đội Pháp đã
rút đi. Diệm, về phần ông, thành lập Việt Nam Cộng Hòa, củng cố quyền
lực cá nhân và nắm kiểm soát quân đội. Đồng tiền Đông Dương biến mất vào
tháng mười hai năm 1955 và với nó, một thế kỷ quyền lực thuộc địa Pháp ở
Đông Dương.
Nếu hội nghị Genève năm 1954 đánh dấu rõ kết thúc xung đột của Pháp, nó
chỉ là một sự tạm ngưng giữa hai cuộc chiến, tách biệt và giao nhau, một
của Việt Nam và một của Mỹ. Cuộc xung đột Việt Nam là một cuộc nội
chiến, khởi đầu vào những năm 1945-1946 giữa những người cộng sản do
VNDCCH lãnh đạo và những đối thủ không cộng sản của họ, tập hợp lại phía
sau Đại Việt và VNQDD ở phía Bắc cho đến tận các lực lượng tôn giáo Hòa
Hảo và Cao Đài ở phía Nam. Việc hai nước Việt Nam ra đời từ hiệp định
Genève tồn tại càng lâu, từng nước nỗ lực củng cố các phần nước của
mình, một ở phía Bắc, một ở phía Nam, thì việc ngừng bắn được thương
lượng quốc tế vào năm 1954 càng có thể hoặc có lẽ sẽ dễ dàng dẫn tới hai
nhà nước Việt Nam tách biệt, như trường hợp (tồn tại đến ngày nay) ở
Triều Tiên và Trung Quốc. Nhưng nếu hai nhà nước Việt Nam, hoặc một
trong hai, lặp lại những đòi hỏi chủ quyền về vùng bên kia, nội chiến
Việt Nam sẽ trở lại thảm khốc hơn, bằng cách kéo dài cuộc xung đột mà
những nguyên nhân của nó bắt nguồn từ bạo lực nội chiến của những năm
1945-1947 (23).
Cùng một thể thức, thay vì thi hành hiệp định Genève như một dạng chuyển
giao quyền lực ở Việt Nam từ người Pháp cho người Mỹ, thì đúng là phải
thấy ở đây sự khởi động lại chiến tranh ngăn chặn gián tiếp do
Washington thực hiện và được khởi đầu ở Đông Dương ngay những năm
1948-1950. Vì nếu người Pháp có thể thao túng chủ nghĩa chống cộng sản
của Mỹ trong viễn cảnh duy trì quyền lực thuộc địa của họ ở Đông Dương,
thì không nên quên rằng người Mỹ, họ cũng sử dụng chính quyền thuộc địa,
lực lượng đặc công và quân đội Pháp trong khuôn khổ cuộc chiến toàn cầu
và gián tiếp của họ chống lại chủ nghĩa cộng sản. Đầu năm 1954, 80% phí
tổn của chiến tranh Đông Dương là do người Mỹ chi trả. Những người này
đã không mua cuộc chiến Đông Dương của người Pháp. Cuộc chiến này
cũng là cuộc chiến của họ, và
phải trả giá để duy trì người Pháp trong phần Đông Dương này, tức chiến
lược thực sự toàn cầu. So sánh với giá trị GDP tốn kém để bảo đảm phòng
vệ cho Tây Âu, không nói tới những gì đã chi tiêu cho chiến tranh Triều
Tiên và việc đặt căn cứ quân sự trên thế giới tốn kém nặng nề, chiến
lược gián tiếp này - dùng điểm tựa Pháp ở Đông Dương - về mặt kinh tế tỏ
ra là có cơ sở. Những người cộng sản Pháp không phải là những người duy
nhất nhấn mạnh rằng nước Pháp “xuất
cảng binh lính đến Đông Dương để đổi lấy đôla” (24).
Mỹ đã không “thay thế” Pháp năm 1954, như ta thường dám chắc như thế.
Một chủ thể khác đã làm điều này và đó là Việt Nam Cộng Hòa của Ngô Đình
Diệm. Điều này cũng không phải là sự gì ngẫu nhiên nếu việc sang tay này
đã được quyết định trong những thương lượng ở Genève năm 1954. Miễn là
người Mỹ chú ý không giẫm đạp lên chủ quyền quốc gia Việt Nam (cũng
giống như họ đã cẩn thận tôn trọng chủ quyền thuộc địa của Pháp ở Đông
Dương) và miễn là những nhà lãnh đạo Việt Nam chú ý không gây tổn hại
đến sự đầu tư chiến lược của Mỹ ở Việt Nam bằng việc thương lượng với
những người cộng sản sau lưng Washington, thì khi đó một liên minh mới
có thể hoạt động ở Đông Dương.
Ngược lại, người Mỹ đã không lường trước sự diễn giải mà rốt cuộc Diệm
đã đưa ra cho chiến lược ngăn chặn gián tiếp này. Tổng thống Việt Nam
Cộng Hòa cuối cùng đã coi việc này như là một sự bảo hộ. Thực vậy, năm
1960, hơn một đại diện Mỹ ở Việt Nam hối tiếc là đã không có quyền lực
mà người Pháp từng có trong tay, để xúc tiến các cải cách và những hoạt
động quân sự mà họ mong muốn. Khi những chính sách do Diệm chỉ huy đe
dọa làm mất đi phần lớn giới tinh hoa chính trị Việt Nam ở phía nam và
nó đẩy đa phần nông dân cầm vũ khí đứng về phía cộng sản, do đó khởi
động lại nội chiến Việt Nam, thì chính quyền Kennedy đã ra một quyết
định lịch sử vào năm 1963. Nó hậu thuẫn cho việc lật đổ “miracle men”
(người tuyệt diệu) của họ xưa kia, tức Ngô Đình Diệm, bằng một cuộc đảo
chính quân sự. Vì lý do này, năm 1963 cũng mấu chốt như những năm
1948-1950 hay 1953-1954. Không chỉ vì nó mở đường cho Mỹ can thiệp,
nhưng vì nó còn đánh dấu sự thất bại của mười lăm năm chiến tranh gián
tiếp mà người Mỹ chỉ đạo ở Đông Dương.
Người Mỹ bấy giờ phải quyết định, và ta thấy rõ toàn bộ sự trớ trêu của
việc này, là dựa vào ai họ có thể tiếp tục đấu tranh cho cuộc chiến ngăn
chặn của họ ở Đông Nam Á. Vì không tìm được đối tác để cùng tiến hành
cuộc chiến, họ đành phải ra một quyết định cũng rất lịch sử, can thiệp
trực tiếp ở Việt Nam hoặc rút quân một lần cho xong. Khi Kennedy thay
thế MAAG bằng MACV năm 1962 và yêu cầu một “đối tác hạn chế” với Diệm,
người Mỹ đã hướng về một cuộc chiến trực tiếp hơn ở Việt Nam. Ngô Đình
Diệm đã phản đối việc này. Và ông đã trả giá đắt.
(1) Voir mon chapitre "La fabrique coloniale des rois en Indochine",
Agather Larchet Goscha et François Guillemot,
Vietnam. La colonisation des
corps, Paris, Vendémiaire, 2014.
(2) Je m'appuie sur les travaux novateurs de Laurent Césari, Le problème
diplomatique de l'Indochine, 1945-1957, Paris, Les Indes Savantes, 2013
et Pierre Grossier, La France et
l'Indochine (1953-1956). Une "carte de visite" en "peau de chagrin",
Paris, Institut d'études politiques de Paris, 2002, thèse de troisième
cycle.
(3) Mark Lawrence, Assuming the
Burden : Europe and the American Commitment to War in Vietnam,
Berkeley, University of California Press, 2005; Mark Lawrence,
'Recasting Vietnam : The Bao Daï Solution and the Outbreak of the Cold
War in Southeast Asia', Christopher Goscha et Christian Ostermann, eds.,
Connecting Histories :
Decolonization and the Cold War in Southeast Asia, (1945-1962),
Stanford, Stanford University Press, 2009, p. 15-38; Andrew Ritter,
The Path to Vietnam : Origins of
American Commitment to Southeast Asia, Ithaca, Cornell University
Press, 1989; Andrew Rotter, 'The Triangular Route to Vietnam : The
United States, Great Britain, and Southeast Asia, 1945-1950',
The International History Review,
vol 6, no 3 (1984) p. 404-423.
(4) Les accords de Postdam signés au milieu de l'année 1945 habilitaient
les Anglais à recevoir la capitulation japonaise en Indochine en dessous
du 16e parallèle et la République de Chine au nord de cette ligne.
(5) Cité dans mon mémoire "Le premier échec contre-révolutionnaire au
Vietnam", (Paris : Mémoire de DEA, Université de Paris VII, 1994), notes
119-120, online at
http://www.er.uqam.ca/nobel/r26645/documents/articles/ContreRevolution_VNQDD.pdf
(6) Cité par Devillers, Histoire
du Vietnam, Paris, Éditions du Seuil, 1952, p. 367.
(7) Sur Léon Pignon, voir : Daniel Varga,
La politique française en
Indochine (1947-1950) : Histoire d'une décolonisation manquée,
(Aix-en-Provence : Université d'Aix-Marseille I, 2004, Thèse de
Doctorat) et "Léon Pignon, l'homme-clé de la Solution Bao Daï et de
l'implication des États-Unis dans la Guerre d'Indochine",
Outre-mers, nos. 364-365
(décembre 2009), p. 277-313.
(8) Christopher Goscha, "Le contexte asiatique de la guerre
franco-vietnamienne : réseaux, relations et économie (1945-1954)",
Paris, École Pratique des Hautes Études, 2000, Thèse de Doctorat,
section Indochine.
(9) Bodard, La guerre d'Indochine,
p. 131.
(10) Varga, "Léon Pignon, l'homme-clé de la solution Bao Daï", p.
277-313.
(11) Bodard, La guerre
d'Indochine, p. 153.
(12) Léon Pignon, "Reconnaissance de Ho Chi Minh par Mao Tse Tung", p.
10-11, 24 janvier 1950, no 16/PS/CAB, signé Pignon, dossier 6, carton
11, série XIV, SLOTFOM, Centre des Archives d'Outre-mer.
(13) Christopher Goscha,
Historical Dictionary of the Indochina War (1945-1954), Honolulu,
University of Hawaii Press, 2011, pp. 191-192, 393-394, 424-425 et
carton 10H266, Service historique de la Défense.
(14) Dommen, The Indochinese
Experience, p. 282-283.
(15) Cité par Arthur Dommen, The
Indochinese Experience of the French and the Americans, Bloomington,
Indiana University Press, 2001, p. 213.
(16) Pour cette section, je m'appuie sur les travaux de François
Guillemot, Daï Viet, indépendance
et révolution au Viet-Nam : l'échec de la troisième voie (1938-1955),
Paris, Les Indes Savantes, 2012; Jessica Chapman,
Cauldron of Resistance : Ngo Dinh
Diem, the United States, and 1950s Southern Vietnam, Ithaca, Cornell
University Press, 2013; Hellen Hammer,
The Struggle for Indochina,
Stanford, Stanford University Press, 1966; Dommen,
The Indochinese Experience;
et surtout Edward Miller, 'Vision, Power and Agency : The Ascent of Ngo
Dinh Diem, 1945-54', Journal of
Southeast Asian Studies, vol. 35, no. 3, (October 2004), p. 433-458.
(17) Miller, 'Vision, Power, Agency', p. 446
(18) Miller, 'Vision, Power, Agency', p. 446
(19) Bao Daï, Le dragon d'Annam,
Paris, Plon 1980, p. 328-329.
(20) Sur la politique française face au réarmement allemand et l'armée
européenne, voir : William Hitchcock,
France Restored, Chapel Hill,
University of North Carolina Press, 1998, chapitres 5-6.
(21) Cité par Philip Catton,
Diem's Final Failure, Lawrence, University Press of Kansas, 2002, p.
7.
(22) Sur les premières années de la République du Vietnam, je me base
sur les études suivantes : Philip Catton,
Diem's Final Failure; Miller,
Misalliance; Dommen,
The Indochinese Experience;
et Chapman, Cauldron of
Resistance.
(23) Guillemot, Daï Viet.
(24) C'est ainsi que le formula Jean-Jacques Servan-Schreiber, fondateur
de L'Express et proche de
Mendès France, le 22 juillet 1953. Cité dans le journal
Le Monde.
Nguồn :
https://cgoscha.uqam.ca/wp-content/uploads/sites/28/2016/09/Guerre-indirecte-.pdf
|