Bài viết dưới đây của PGS Đào Công Tiến thật ra chỉ là một bài viết vừa được sửa chữa bổ sung trên cơ sở một bài viết cũ đã từng đăng trên Viet-Studies khoảng 2 năm trước. Nay ông Tiến tuổi đã cao sức khỏe ngày càng suy kém, mắt mờ tay run, không viết được nữa, nhưng lòng ông thì vẫn luôn suy tư trăn trở về một số vấn đề thời cuộc gắn với số phận dân tộc và tương lai của đất nước.
Vài nội dung nêu trong bài viết giai đoạn trước Đại hội XIII ĐCSVN đã
mất tính cập nhật, nhưng căn bản vẫn còn thích hợp với những đòi hỏi về
cải cách hệ thống chính trị để thực hiện một nền dân chủ pháp quyền,
trong đó các nhánh quyền lực phải được kiểm soát và chế ước lẫn nhau. Vì
vậy, thể theo nguyện vọng đầy tâm huyết của nhân vật đảng viên trí thức
65 tuổi đảng Đào Công Tiến,
Viet-Studies
đăng
bài viết (tương đối mới) này, như một tài liệu tham khảo, với ý nghĩ cho
rằng vấn đề gì đặt ra mà chưa được giải quyết thì coi như vẫn còn mới.
Mấy
Tư Vấn Và Phản Biện
Đào Công Tiến
Bài viết của Đảng viên Đào Công Tiến – (Đảng viên 85 tuổi đời, 62 tuổi
đảng, thuộc chi bộ khu phố 3, phường 5, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh)
là những góp ý đến Dân đến Đảng nhằm Đại hội XIII và Đại hội cấp dưới
tiến đến ĐH XIII
Đào Công Tiến
Xin đi ngay vào nội hàm của “mấy tư vấn và phản biện” mà tôi – tác giả
của bài viết đã nguyện dấn thân.
1. Đảng và chế độ XHCN theo
chủ thuyết Mác - Lenin – chủ nghĩa cộng sản và Quốc tế vô sản là hai chủ
đề nổi cộm, được các nhà phản biện trong đó có tôi kiên trì tư vấn và
phản biện.
CNXH với lập trường giai cấp quá cực đoan, nội hàm công hữu hóa và kinh
tế nhà nước chủ đạo về lý
thuyết quá mù mờ, về thực tế, không thành công trong “ai thắng ai” với
nhiều nền kinh tế khác.
Đảng với “đảng lãnh đạo đảng”, “đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội”, đã
thâu tóm quyền lực để “tập quyền tuyệt đối” và “tha hóa tuyệt đối” cũng
chẳng buông tha.
Đảng và chế độ như vậy, trên thực tế của đời sống hiện thực hai hệ lụy
không khó nhận biết, nhưng khó tránh: (1) Quyền lực tuyệt đối – tha
hóa, tuyệt đối sẽ giết chết Đảng và Chế độ;
(2) Không có quyền –lợi quyền thì vô trách nhiệm, vô cảm dẫn đến
“dân hư”. “Nước lấy dân làm gốc” mà gốc bệnh hoạn, hư hỏng thì tránh sao
được hệ lụy khôn lường. Đảng và chế độ XHCN đã sụp đổ, tan rã tại nhiều
“quốc gia tự xưng XHCN” ra đời trong trào lưu XHCN thế giới – Liên Xô và
các nước XHCN Đông Âu tự tan rã sụp đổ. Việt Nam và một số quốc gia
“thân hữu” đã muốn trở thành người hùng trung thành vô hạn nền CNXH ở đó
đã chết mà Đảng Cộng Sản không cho chôn. Đại hội Đảng XIII (và Đại hội
các cấp tiến đến Đại hội XIII) vẫn êm xuôi như nhiều kỳ Đại hội trước,
để tiếp tục giáo điều CNXH và độc đảng toàn trị?
2. Đổi mới trong nhiều văn
kiện của Đảng, Đảng tự nhận: Đổi mới do Đảng khởi xướng mà có. Còn trong
đời sống hiện thực, Đổi mới đã có những nội hàm đột phá để phát triển
sản xuất hàng hóa nhiều thành phần; phá bỏ những rào cản ngăn sông cấm
chợ để liên kết hợp tác trên thị trường đối với người sản xuất và người
tiêu dùng, người bán và người mua. Đổi mới tuy chưa toàn diện, nhưng
cũng có những nội hàm ươm mầm cho cải cách thể chế chính trị - xã hội.
Những nội hàm đột phá đó, phần lớn được hình thành và phát triển hoàn
thiện từ những khởi xướng của người dân tại nhiều cơ sở sản xuất kinh
doanh, hộ gia đình nông dân, thợ thủ công, tiểu thương vì cuộc sống và
lẽ sống của mình, họ đã tự phát “xé rào” vượt cơ chế chính sách hiện hữu
chưa thấu tình đạt lý. Đó là mũi đột phá được khởi xướng từ dân – là cơ
sở, gốc rễ của Đổi mới. Đổi mới từ chuyện lớn của dân, của nước và cũng
là chuyện lớn của Đảng. Đảng chấp nhận việc làm của dân, như là chấp
nhận giải pháp tình thế trước áp lực của khủng hoảng đã đến lúc không
còn chịu nổi. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư khóa V, Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị khóa VI, và nhất là Nghị quyết của Đại hội Đảng VI chấp nhận
Đổi mới.
Với những trình bày ở trên, xin đề nghị không nói khởi xướng Đổi mới
thuộc về Đảng. Nếu nói khởi xướng thì phải nói thuộc về dân.
Tiếp nối hành trình Đổi mới gặp không ít cản ngại từ tư duy giáo điều
XHCN, sợ “Đổi mới được kinh tế
nhưng mất tư tưởng, được bộ phận nhưng mất tổng thể, được trước mắt
nhưng mất lâu dài, được kết quả hiển nhiên nhưng xa rời mục đích và
những nguyên tắc cơ bản, được của cải nhưng hỏng quan hệ sản xuất và con
người”. Sự mơ hồ trong tư duy lý luận như vậy đã tồn tại trong một
bộ phận không ít lý luận gia của Đảng; thậm chí cả chủ tịch Hội Đồng lý
luận TW, đã làm cho Đổi mới không toàn diện, không triệt để, thiếu dứt
khoát, nhất là đối với đòi hỏi đổi mới thể chế chính trị gắn liền với
đổi mới kinh tế.
Ngay cả chống tham những tuy có được phát động, nhưng nặng về chống đỡ,
thậm chí chống đỡ thụ động, chưa thực sự đi vào chiều sâu từ cội nguồn
sinh ra tham nhũng để phòng chống tham nhũng.
Quy định pháp luật vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp căn cơ của Đổi mới
bị hụt hẫng suốt nhiều thập niên từ đó cho đến nay. Các quyền tự do dân
chủ đã được Hiến pháp 2013 quy định (tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình) không được thực hiện
đầy đủ trên thực tế. “Xin cho” còn làm thay cho “điều gì luật pháp không
cấm thì được làm”. Đất đai với “sở hữu toàn dân” và “nhà nước quản lý”
làm mất quyền của dân và gia tăng sự lạm dụng từ Nhà nước và các nhóm
lợi ích bất chính gây bất ổn xã hội ở nhiều nơi. . .
3. Trong quá trình dựng nước
và giữ nước của các thế hệ người Việt, có cả ngàn năm phải đối đầu với
mưu đồ xâm phạm chủ quyền, như chủ quyền biển đảo hiện nay, của các thế
lực bành trướng bá quyền Trung Quốc. Chỉ tính từ khi nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa ra đời, Việt Nam liên tục bị nhiều “cú đánh” và cả những
cú lừa.
“Đổi trắng thay đen” để đánh bồi thêm cùng với cấm vận của Mỹ đối với
Việt Nam, về sự có mặt của
quân tình nguyện của Việt Nam trên đất Campuchia theo tiếng gọi giải cứu
thảm họa diệt chủng do Khơ me Đỏ gây ra.
“Lèo lái” buộc Việt Nam chấp nhận giải pháp “chia đôi” đất nước, “chia
rẽ” dân tộc tại vĩ tuyến 17 ngay sau cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược nói chung và Điện Biên Phủ nói riêng kết thúc thắng lợi –
chấn động địa cầu, để cơ hội hòa bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ rời khỏi tầm tay. Sự kiện nầy diễn ra tại cái gọi là Hòa đàm
Genève và bị coi là ươm mầm chia rẽ lớn nhất đối với cộng đồng người
Việt và dẫn đến cuộc “chiến tranh Việt Nam” có sự can thiệp của các nước
lớn, trở thành cuộc chiến tranh lớn nhất, kéo dài nhất, đẫm máu nhất, và
là cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn tồi tệ nhất, với Việt Nam và thế
giới sau Đại thế chiến thứ hai.
“Quay lưng lại” với Công ước Liên Hiệp quốc về luật biển năm 1982, nhà
cầm quyền Trung Quốc đã đưa ra yêu sách phi pháp bằng cái gọi là “Đường
9 đoạn” – “Đường lưỡi bò” và thành lập cái gọi là thành phố này quận
huyện nọ trên biển đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam, để hòng tạo cơ sở
pháp lý cho việc xâm phạm chủ quyền biển đảo của nhiều nước, trong đó có
Việt Nam.
Các thế lực bành trướng bá quyền Trung Quốc thường nói “bốn tốt”- láng
giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt; “mười sáu chữ vàng” –
láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện ổn định lâu dài, hướng tới tương
lại; cùng chung ý thức hệ XHCN theo chủ thuyết Mác-Lênin và biện minh
rằng, còn Đảng Cộng sản, còn chế độ XHCN là còn tất cả nên phải giữ gìn
cho nhau bằng mọi giá, Nhà cầm quyền Trung Quốc nói thế nhưng không phải
thế. Họ đánh chiếm Hoàng Sa, (1974), đánh chiếm Gạc Ma thuộc Trường Sa
của Việt Nam (1988), đưa các tàu thăm dò hải hương HD 981, HD 08 và
nhiều lượt tàu hộ tống vào vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam. Họ
đứng sau lưng Khơ me Đỏ đánh Việt Nam ở biên giới Tây Nam (1976-1978),
xua 60 vạn quân đánh Việt Nam ở biên giới phía Bắc (1979). Và tàu cá của
ngư dân Việt Nam tiếp tục bị tấn công, bị đâm chìm ở quần đảo Hoàng Sa
của VN, bởi tàu hải cảnh của Trung Quốc gây ra.
Những sự kiện nêu trên là hành vi xâm lược, mà kẻ xâm lược thuộc về các
thế lực bành trướng bá quyền Trung Quốc theo chủ nghĩa Đại Hán.
Thay lời kết
Lệ thuộc vào giáo điều ý thức hệ XHCN theo chủ thuyết Mác - Lê nin, cùng
với lệ thuộc vào các thế lực bành trướng bá quyền Trung Quốc không chỉ
là chuyện quá khứ, mà cũng là chuyện của hiện tại. Không thoát ra khỏi
“lệ thuộc kép” này thì không thể giữ được chủ quyền – độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Để thoát ra khỏi “lệ thuộc kép” đó, phải cải cách toàn diện hệ thống
chính trị theo hướng tôn trọng nhân quyền, tự do dân chủ, nhà nước pháp
quyền, tam quyền phân lập. Không có sự cải cách đó, mọi ý đồ tốt đẹp sẽ
chỉ là ảo tưởng, bất khả thi, kể cả việc bài trừ quốc nạn tham nhũng.
2.
2022
|