QĐ/ TW 102 – những quy định lạ lẫm có một không hai
Đào
Công Tiến
Gần một năm
trước, Đảng Cộng sản Việt Nam cho ra Nghị quyết 4 của Ban Chấp hành
Trung ương có đề cập “những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nay, Đảng cho ra
tiếp Quy định 102 của Bộ Chính trị về “xử
lý kỷ luật đảng viên vi phạm”. Hai văn kiện này, cùng với cương
lĩnh, điều lệ và nhiều văn kiện hiện hữu khác của Đảng, đã đưa Đảng tiếp
tục trượt dài trên con đường cực kỳ bảo thủ - bảo thủ đến mức ngoan
cố, với giáo điều ý thức hệ XHCN theo chủ thuyết Mác – Lênin với độc
quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản, bằng siêu quyền lực và lệ
thuộc bởi sự thao túng từ các thế lực bành trướng bá quyền
Trung Quốc.
1.
Hiện tình thế giới, cả trên khung lý thuyết và trong đời sống hiện
thực, CNXH không còn nữa. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ, và nếu có
là có ở chỗ CNXH đã chết mà Đảng không cho chôn, để đem lắp ghép với
cái này, cái nọ ở mọi lúc mọi nơi. Ngay trong Quy định 102 sự lắp ghép
đó cũng không phải hiếm, chẳn hạn như: đem XHCN ghép với dân chủ để có
“nền dân chủ XHCN”, ghép XHCN với nhà nước pháp quyền để có “nhà nước
pháp quyền XHCN”, và tương tự như vậy, đem XHCN gắn với kinh tế thị
trường để có “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, rồi đem rêu rao để
cầu xin một sự công nhận -
Việt Nam có kinh tế thị trường!
2.
Đổi mới từ thập niên 80 buộc Đảng phải chấp nhận “kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần”, nhưng không lâu sau đó, vì sợ mất CNXH nên Đảng phải “trói”
‘kinh tế nhiều thành phần’ bằng “kinh tế quốc doanh cùng kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân” và “kinh tế nhà
nước là chủ đạo”. Theo đó Đảng cấm đảng viên làm kinh tế tư bản
tư nhân, quy định này về sau có sửa, nhưng dấu ấn kỳ
thị vẫn không dễ phai. Kinh tế dân doanh với tuyệt đại bộ phận
thuộc sở hữu tư nhân, quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa không được xem trọng,
thiếu sự quan tâm chăm sóc đúng mức nên chậm lớn mạnh, không đáp ứng
được việc làm và thoát cảnh nghèo khó, nên một bộ phận không nhỏ trong
đội ngũ lao động của nền kinh tế đó phải đi làm thuê, làm mướn ở nhiều
nơi trên thế giới với cảnh đời “gian truân”, “tủi nhục” khó tránh ở quê
người. Kinh tế dân doanh
như vậy, nên nền kinh tế quốc dân vẫn yếu từ gốc, tụt hậu so với các
nước trong khu vực và chất lượng cuộc sống của một bộ phận không nhỏ
người Việt vẫn còn thấp và chậm được cải thiện.
3.
Cũng từ tư duy giáo điều XHCN và bệnh chủ quan duy ý chí , Đảng đã chọn
mô hình công ty, tổng công ty “90”, “91” và tập đoàn
kinh tế Nhà nước cho nền sản xuất lớn XHCN với kỳ vọng có thể
tạo dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH vốn đã được chọn bởi
tư duy “quan hệ sản xuất XHCN phải đi trước một bước”. Các doanh
nghiệp sản xuất lớn XHCN này chiếm giữ những lĩnh vực trọng yếu của nền
kinh tế và ôm hầu hết nguồn lực quốc gia để rồi thất thoát vì lãng phí
và tham nhũng bùng phát. Ở đây cái đích thực của tham nhũng không chỉ là
“ăn cắp vặt” tiền của, mà còn chủ yếu là tham nhũng quyền lực và dùng
quyền lực để tham nhũng lớn bằng liên kết các nhóm lợi ích bất chính với
nhau, thậm chí với cả các tổ chức và cá nhân trong hệ thống quyền lực
của Đảng và Nhà nước. Nền sản xuất lớn kỳ vọng XHCN này, ngay công bằng,
nhân văn như mong đợi của những người đề xướng ra nó cũng không có.
Kỳ vọng về cái gọi là “nền tảng”, là “trụ cột” cũng không
thành, mà những doanh nghiệp Nhà nước đó đã và đang là những
khối ung nhọt đáng sợ nhất cho nền kinh tế và đời sống xã
hội vì thất thoát bới lãng phí và tham nhũng quá lớn, vì
lớp “tư sản đỏ” từ đó ra đời nhanh mà tha hóa cũng quá nhanh.
4.
Quyết định 102 này còn cực đoan, thái quá hơn so với nhiều văn kiện
đã có trước nó, ở chỗ không chỉ quay lưng lại mà còn trực diện tấn công
vào tinh thần tự do dân chủ, pháp quyền và quyền con người.
Theo Quy định 102, ngoài những biểu
hiện vi phạm kỷ luật phải xử lý là “phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ, dân chủ
XHCN, nhà nước pháp quyền XHCN, kinh tế thị trường định hướng
XHCN . . .” như đã đề cập ở trên, còn cần phải xử lý nghiêm khắc bằng
hình thức khai trừ đối với các trường hợp đòi thực hiện thể chế “tam
quyền phân lập”, “xã hội công dân”, “đa nguyên”, "đa đảng”. Tư duy lý luận nào là “bà đỡ” cho những quy định như vậy? Phải chăng là những thứ tư duy lý luận đã đứng mãi bên lề cuộc sống, ôm khư khư cuồng vọng nguyện trung thành vô hạn với “chuyên chế XHCN”, “độc đảng và toàn trị”?
Thể chế pháp quyền với tam quyền phân
lập là tài sản vô giá của nhân loại tiến bộ, đã và đang thay cho thể chế
chuyên chế độc tài toàn trị, quen thói thò bàn tay lông lá vào cả lập
pháp, hành pháp, tư pháp để phá nát ranh giới của sự rành rọt, minh bạch
của pháp quyền, nhất là quyền giữ cho tư pháp và tòa án độc lập, trong
sạch.
Quyền tự do, dân chủ và nhân quyền,
cả những quyền rất hiển nhiên đã từ lâu được ghi trong Hiến pháp
nhưng trên thực tế không được thực hiện bởi còn có nhiều rào cản khó
vượt từ những quy định như Quy định 102 nầy. Quyền tiếp cận thông tin
không vượt qua được rào cản từ sự lạm dụng bí mật, tuyệt mật và bưng bít
thông tin. Quyền tự do bày tỏ chính kiến không vượt qua được rào cản từ
quy định cấm “đa nguyên”. Quyền tự do hội họp, lập hội cũng không vượt
qua được rào cản từ quy định cấm “đa đảng”. Quyền biểu tình mặc dù từ
lâu đã có trong Hiến pháp nhưng chưa cho thực hiện vì Quốc hội chưa
được làm luật biểu tình.
Dân chủ hóa đời sống xã hội bằng
việc từng bước cải cách thể chế chính trị theo hướng dân chủ,
công bằng, văn minh, hòa nhập với đời sống cộng đồng nhân loại
là vấn đề nóng bỏng của xã hội, không thể quay lưng lại với
đòi hỏi đó được. Quy định 102 của Đảng vì thế không thể là sự
gia cố nhằm kiên cố hóa những rào cản đối với tiến trình tự
do dân chủ, pháp quyền và quyền con người.
5.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, có cả ngàn năm phải đối
đầu với mưu đồ đặt đất nước ta vào vị thế lệ thuộc nhằm
phục vụ lợi quyền của Trung Quốc. Chỉ tính từ khi nước CHND
Trung Hoa ra đời, các thế lực bành trướng bá quyền Trung Quốc
đã dùng nhiều thủ đoạn để chia rẽ Việt Nam với các quốc gia
Đông
Dương, lèo lái buộc Việt Nam chọn giải pháp chia đôi đất nước
thành hai miền Bắc, Nam tại vĩ tuyến 17 ngay sau cuộc kháng
chiến chống Pháp với Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Sự
kiện này diễn ra tại hòa đàm Geneve và bị coi là ươm mầm chia
rẽ cộng đồng người Việt lớn nhất và dẫn đến cuộc chiến tranh
nóng lớn nhất, kéo dài nhất, đẫm máu nhất và là cuộc chiến
tranh huynh đệ tương tàn tồi tệ nhất trong lịch sử Việt Nam và
thế giới sau Đại Thế chiến thứ II. Với mộng bành trướng bá
quyền Đại Hán, Bắc Kinh đã đánh chiếm Hoàng Sa (1974), đánh
chiếm Gạc Ma (1988), đứng sau lưng Khơ Me Đỏ đánh Việt Nam ở biên
giới Tây Nam (1976-1978), đưa 60 vạn quân đánh Việt Nam trên toàn
tuyến biên giới phía Bắc (1979), đơn phương áp đặt “đường lưỡi
bò” xâm phạm chủ quyền trên biển của Việt Nam, rồi hạ giàn
khoan HD981, xây dựng đảo nhân tạo cùng cơ sở hạ tầng với mưu
đồ quân sự hóa biển Đông…
Những hành vì xâm phạm chủ quyền độc lập, thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ của các thế lực bành trướng bá quyền Trung Quốc
đối với Việt Nam như đã nêu ở trên, đã bóc trần cái gọi là
“cùng chung ý thức hệ XHCN theo chủ thuyết Mác – Lênin” và biện
minh rằng “còn Đảng Cộng sản, còn chế độ XHCN là còn tất cả”
nên phải giữ gìn cho nhau bằng mọi giá, để cùng ca mãi bài ca
“bốn tốt”, “mười sáu chữ vàng” đánh đổi cho ru hồn “mơ hồ mất
cảnh giác”
Ngoài hiểm họa từ giáo điều XHCN và độc đảng toàn trị phản
dân chủ như đã đề cập ở trên, sẽ là một khiếm khuyết lớn
không thể chấp nhận được nếu cứ tiếp tục làm ngơ, thậm chí
dung túng cho những kẻ “bán nước cầu vinh”, “mơ hồ mất cảnh
giác”, "nhu nhược yếu hèn” đối với các thế lực bành trướng
bá quyền Trung Quốc, gây hậu quả nghiêm trọng mà không bị nghiêm
trị, thậm chí còn để yên vị trên đỉnh cao quyền lực của đảng,
nhà nước hết nhiệm kỳ này đến nhiệm kỳ khác và ra hết quyết
định này đến quyết định khác trái với truyền thống yêu nước,
ý chí bất khuất của cộng đồng các dân tộc Việt.
Thay lời kết
Tác giả bài viết này xin mượn mấy câu trong chùm thơ của nhà
thơ Thái Bá Tân vừa sáng tác gần đây gởi TBT Nguyễn Phú Trọng
với nhan đề “Gởi bác Trọng” để thay lời kết:
Bác [Trọng] nói: “Nếu mất đảng,
Đảng chỉ là tổ chức, …
Mất đảng, mất chế độ,
Còn ta, nếu mất đảng,
(Facebook Thái Bá
Tân
https://www.facebook.com/ThaiBaTan02/posts/381903228938240)
Đào Công Tiến
|