Điếu văn Bà Nguyễn Thị Mỹ - quả phụ tướng Đặng Kim Giang
(Đặng
Kim Sơn đọc trước mộ mẹ ngày 25 tháng 5 năm 2019)
Kính thưa các ông bà, cô bác họ hàng, láng giềng, quí vị quan khách.
Gia đình chúng tôi vô cùng cảm kích được đón tiếp quí vị đến vĩnh biệt
Mẹ, Bà, Cụ của chúng tôi: Nguyễn Thị Mỹ, sinh ngày 2 tháng 3 năm 1919,
mất ngày 22 tháng 5 năm 2019 (tức ngày 18 tháng 4 âm lịch), tròn 100
tuổi đời đóng góp cho đất nước, hi sinh vì gia đình.
Một đời làm mẹ.
Ông ngoại tôi sang Lào làm việc, sinh ra mẹ tôi ở thành phố
Luangpharabang. Gia đình về Việt Nam để lại bà khi đó mới mười mấy tuổi,
suốt 7 năm một mình thay bố mẹ nuôi dạy hai em trên xứ người. Năm 1944,
bà về Đà Lạt học trường cao đẳng nữ công thì chiến tranh nổ ra, mất liên
lạc với lũ em nhỏ, bà trở về quê hương ở làng Kim Lũ, phủ Hà Đông.
Cuối năm 1946, bà lập gia đình với ông Đặng Kim Giang. Hạnh phúc đến
đúng lúc toàn quốc kháng chiến, bà phải làm mẹ từ lúc chưa sinh con.
Chồng gánh nhiệm vụ chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến tỉnh Hà Đông,
bà phải một mình nuôi con chồng, nuôi cháu chồng, chạy giặc từ quê hương
Hà Đông đi xa dần ra Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa rồi lên Việt Bắc. Kiếm
sống gian nan mà mẹ vẫn mở lòng đón thêm con nuôi đang cảnh bơ vơ.
Đàn con đầu đã lớn lên đi học và tham gia kháng chiến. Bà một mình sinh
con gái ở vùng tự do Thanh Hóa trong lúc chồng đang đánh chiến dịch Biên
Giới, sinh con trai trong khi ông đang chỉ huy hậu cần chiến dịch Điện
Biên Phủ. Năm 1954, Hà Nội hòa bình, hai ông bà được ở bên nhau khi hai
con giai và gái ra đời và đón thêm con gái chồng về cùng gia đình, tưởng
như phúc phận người mẹ đã đủ đầy nhưng những biến động chính trị một lần
buộc bà tiếp tục thiên chức làm mẹ.
Năm 1967, cụ ông đang là thứ trưởng Bộ Nông trường Quốc doanh thì lâm
nạn chính trị. Gia đình đang là cán bộ cao cấp trở thành đối tượng thù
địch. Trong gian khó thời chiến tranh và kinh tế bao cấp, mọi người dân
đều khổ, các đối tượng bị phân biệt đối xử lại càng gian nan hơn. Con
cái phải phiêu bạt đào than ngoài mỏ Quảng Ninh, đi xuất khẩu lao động
xứ người, lên nông trường trên Yên Thế, vào khai hoang trong Hà Tiên,…
Bà chìa đôi vai nhỏ bé gánh mọi sức nặng, làm trụ cột cho cả nhà.
Bà một mình chăm ông và làm mẹ nuôi dạy cả lũ 6 đứa cháu nội, cháu
ngoại. Chăm cháu ốm, dạy cháu học, chạy chợ, nấu ăn, chăm sóc cả nhà, bà
còn lo kiếm thêm tiền bằng trông trẻ, khâu vá thuê. Đúng lúc gia cảnh
tối tăm, người ngoài xa lánh, bà vẫn dang tay cưu mang thêm con nuôi -
con người bạn chiến đấu đang gặp nạn là cháu Tân con bác Kỳ Vân.
Tình mẹ nhân hậu và vô tư ấy đã làm rung động mọi trái tim của 9 người
con và dâu rể, cháu, chắt và làm chúng tôi thay đổi dù rất khác nhau về
tính cách. Trong gia đình chúng tôi, mẹ là mẹ chung. Di chúc của mẹ kể
tên cả 9 đứa con và căn dặn: “Mẹ không có tiền của để lại cho các con
nhưng để lại cho các con muôn vàn tình thương yêu và nếu quả thật có
linh hồn và có quyền lực thì sẽ hết sức giúp đỡ con cái sau khi chết”.
Cả đến khi đã đi xa mẹ vẫn dốc lòng chăm sóc đàn con.
Suốt đời làm thày.
Tốt nghiệp Thành chung năm 1937, cô giáo Mỹ bắt đầu nghề dạy học từ năm
18 tuổi, 7 năm dạy dỗ những trò nhỏ xứ Xiêng Khoảng và Thà Khẹt. Trở về
quê hương bà tiếp tục dạy học ở thị xã Hà Đông. Suốt 7 năm đầu kháng
chiến, bà giáo tiếp tục dạy các trường vùng tự do Thanh Môn, Nho Quan,
nữ trung học Liên khu 3 và Nguyễn Thượng Hiền ở Hà Đông, Hà Nam, Ninh
Bình, Thanh Hóa. Năm 1953, kháng chiến trở nên quyết liệt, bà tạm biệt
học trò, theo chồng lên chiến khu.
Hòa bình lập lại, tháng 11 năm 1954 bà rời quân ngũ với tấm Huy chương
kháng chiến hạng nhất và huy chương Chiến Thắng hạng nhì, về với bục
giảng Hà Nội. Cô giáo Mỹ dạy trường Thanh Quan, Đống Đa, Nguyễn Công
Trứ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi. Năm 1966, gia đình lại rời Hà Nội về Bắc
Ninh, bà dạy học sinh nông thôn ở trường cấp 2 Việt Đoàn, trường Hiên
Vân. Dù trường tỉnh, thủ đô hay trường làng, ở đâu những bài giảng văn
học, những câu chuyện lịch sử, những kiến thức địa lý của cô giáo Mỹ
cũng thổi vào hồn học sinh tình người, nghĩa nước.
Cuộc chiến cam go nhất cho sự nghiệp giáo dục của bà là đòi quyền học
hành cho con mình. Suốt 40 năm “trồng người” nhưng bà bị cách chức Hiệu
phó trường làng, bị đưa ra khỏi Đảng. Người phụ nữ gày yếu, nhỏ bé kiên
cường gõ mọi cánh cửa từ trung ương đến địa phương đòi quyền học hành
cho con cái. Chỉ nhờ sự dũng cảm của mẹ và lòng tử tế của những người
trong cuộc mà cánh cửa đại học, cao đẳng tưởng như đã sập lại hẳn, mới
hé mở cho 3 người con nhỏ nhất trong nhà.
Thật vinh hạnh là anh chị em nhà tôi có những ngày được học lớp do mẹ
mình truyền dạy. Trước lớp, con cái vẫn “thưa cô” với mẹ. Người thày
trong mẹ đã nâng giữ nhịp cầu để chúng tôi tiếp cận nền học vấn hiện
đại, có cơ hội thành đạt bằng trí tuệ. Điều quan trọng hơn cả là truyền
thống văn hóa của Bố, gương sống của Mẹ đã hướng cho đội ngũ học trò và
các lớp cháu con lẽ đời tử tế, tiếp sức mạnh của tình người mà chẳng một
ngôi trường danh tiếng nào khắp thế giới truyền dạy nổi.
Một lòng giữ nước, cứu nhà.
Đến Đà Lạt học đúng lúc miền Bắc chìm trong nạn đói 1945, cô nữ sinh
trường Pháp ngày đêm đi quyên tiền cứu giúp người. Cách mạng Tháng Tám,
như ngàn vạn trí thức đến với cách mạng, bà diện áo dài thêu hoa, đeo đồ
trang sức xuống đường tham gia tuần hành dành chính quyền rồi làm việc
tại Ủy ban Lâm thời Đà Lạt và tham gia ban Chấp hành phụ nữ Cứu quốc
thành phố. Hưởng ứng “tuần lễ vàng” năm 1945, bà dốc hết đồ trang sức và
của nả đóng sạch cho ngân khố.
Hồ hởi đến với cách mạng, bà giáo vào quân ngũ và thấm dần nỗi đớn đau
cùng cực của chiến tranh. Ngày Hà Nội chìm trong lửa kháng chiến 1947,
bà trực tiếp giữ kho vũ khí 300 ở Hà Đông và dẫn dắt đám học trò nhỏ đẩy
toa tàu điện chở đạn từ Hà Đông ra tiếp tế cho mặt trận. Khi cuộc chiến
trở nên quyết liệt năm 1953, bà gia nhập quân đội, đánh máy cho Tổng cục
Hậu cần và làm báo địch vận tiếng Pháp trên chiến khu Việt Bắc.
Nhân thế đảo lộn dạy bà rằng cách mạng là hy sinh chứ không phải là ngày
hội và phải cuộc chiến áo cơm tàn ác chẳng kém đạn bom. Nhà tan cửa nát,
kiếm ăn từng bữa, bà vẫn kiên cường trước đe dọa, dụ dỗ quyền lợi, một
lòng bảo vệ chồng con. Lũ con đi xuất khẩu lao động xa xứ đổi mồ hôi,
nước mắt gửi hàng hóa về, bà ở nhà một mình nhận hàng, bán đồ, tả xung
hữu đột với đám buôn bán giang hồ, tích cóp cho con cái về mua xong nhà,
xin được việc.
Một chiều năm 1996, cuối cùng gánh nặng công việc, sức ép chính trị, nỗi
lo gia đình đã xô ngã bà giáo già 77 tuổi, bà gục xuống một mình trong
căn bếp nhỏ. Mấy tiếng mê man, đợi cháu đi học về, bà còn cố bò ra, đu
lên mở cửa, hoàn thành nhiệm vụ cuối. Suốt 23 năm nằm liệt, bà kiên
cường chiến đấu với bệnh tật, vẫn vui vẻ bình luận thời sự, nói chuyện
đời xưa cho đến ngày im lặng, nhẹ nhàng ra đi.
Mẹ yêu quí của chúng con,
nhìn lại 100 năm cuộc đời, đi qua 2 cuộc chiến tranh, chịu đựng bao biến
động bể dâu, chứng kiến nhiều lẽ đời ngang trái nhưng không ai hiểu nổi
người mẹ vóc hạc, sức mây làm sao có được sức lực, tinh thần để vượt qua
sóng gió, chịu bao tủi nhục, xây hậu phương vững chắc cho bố yên tâm
chiến đấu bảo vệ tổ quốc, bảo vệ lẽ phải; cho 16 con cái, dâu rể và 59
cháu chắt nội ngoại lớn khôn và rộng đường tiến tới tương lai.
Mẹ Mỹ yêu thương.
Lũ con cháu chúng con bình sinh tầm thường: thấy thiếu lo đói, thấy nguy
sợ hãi, lúc vinh kiêu ngạo, lúc nhục trốn tránh, có lúc ham chơi lười
học, có lúc chìm đắm chức quyền, chăm con cái hơn phụng dưỡng thân sinh,
tham vật chất hơn trau dồi trí tuệ, nhiều lúc không nghe lời cha, lắm
lúc làm buồn lòng mẹ, may mắn thay có được đấng sinh thành là Bố Mẹ.
Chính gương sống đẹp đẽ, nhân cách sáng trong của Người đã giúp lũ chúng
con biết hổ thẹn, sửa đổi mình, đoàn kết lại thành một gia đình hạnh
phúc, và kì diệu thay, đã hình thành gốc rễ vững chắc để cháu con vượt
qua muôn ngàn bất định tương lai.
Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Của cải, chức tước, quan hệ,
sức khỏe, sắc đẹp không phải là đặc ân người trước truyền mãi được cho
đời sau. Trước biến động thế gian, biết bao kẻ đang chết trên quyền lực,
sẽ khóc giữa bạc tiền. Chỉ có lẽ sống mà bố mẹ để lại cho chúng con mới
thực sự là giá trị vĩnh cửu!. Con cháu sẽ đời đời khắc ghi lời mẹ di
chúc: “Các con! các cháu! Hãy thương yêu đùm bọc nhau cố phấn đấu
vươn lên, sống tử tế nhân hậu. Có tài có đức sẽ thành đạt”.
Chúng con, các cháu, xin vâng lời mẹ dạy!
Mẹ hãy yên tâm mà siêu thoát.
|