Pranab Bardhan:
China’s Solitary
Development Model Người dịch: Huỳnh Hoa
Mô hình phát triển
đơn độc của Trung Quốc
Pranab Bardhan (*)
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tin
rằng phiên bản tổ chức kinh tế và chính trị của họ ưu việt hơn các hệ
thống phương Tây, và họ đã bắt đầu biện hộ cho một “kỷ nguyên mới” của
nền cai trị phi dân chủ. Nhưng, cho dù có sức hấp dẫn, mô hình phát
triển của Trung Quốc vẫn kém cỏi ở nhiều phương diện căn bản và không dễ
tái tạo ở những nơi khác. Dường
như bây giờ các lãnh đạo Trung Quốc đã từ bỏ lời răn của Đặng Tiểu Bình
“thao quang dưỡng hối” (tao
guang yang hui – che giấu ánh sáng, nuôi dưỡng bóng tối - giấu mình
chờ thời). Khi tuyên bố một “kỷ nguyên mới” của Trung Quốc tại Đại hội
toàn quốc lần thứ 19 của đảng Cộng sản hồi tháng 10 vừa qua, chủ tịch
Tập Cận Bình đã trình bày hệ thống cai trị của Trung Quốc như một hình
mẫu để các quốc gia khác mô phỏng theo. Các nhà lãnh đạo muốn “thúc đẩy
sự phát triển trong khi vẫn duy trì nền độc lập của mình” nên nhìn vào
Trung Quốc như “một lựa chọn mới”, ông Tập nói. Các
quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các nước Đông Nam Á và châu Phi hạ
Sahara, dường như bất ngờ với khả năng mới này. Hãng thông tấn chính
thức của Trung Quốc, Tân Hoa xã, thậm chí còn đề nghị rằng, khi các nền
dân chủ phương Tây chao đảo thì “nền dân chủ giác ngộ của Trung Quốc” có
thể là một con đường để tiến tới. Giữa
tất cả những lời hoa mỹ ồn ào đó, cần đặt ra câu hỏi: mô hình Trung Quốc
về phát triển kinh tế chính trị chính xác là cái gì? Và nó có thực sự
đáng ưa chuộng hơn các hệ thống khác hay không? Mô hình
Trung Quốc có một số đặc điểm chủ yếu, bao gồm chế độ cai trị chuyên chế
dựa trên ý niệm về sự ổn định; chính sách công nghiệp và tài chính do
nhà nước dẫn dắt; đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng; công nghiệp hóa nông
thôn hậu thuẫn bởi nông nghiệp quy mô nhỏ; và sự mở cửa cho thương mại
và công nghệ nước ngoài. Chắc chắn mô hình này đã sinh ra cuộc tăng
trưởng kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc trong hơn ba thập niên qua,
đưa hàng trăm triệu người ra khỏi nghèo đói. Nhưng
quan niệm rằng thành tố đầu tiên của mô hình này – chế độ chuyên chế -
cần thiết cho sự phát triển nhanh là sai lầm. Trong thực tế, đây chính
là đặc điểm của hệ thống Trung Quốc mà các quốc gia khác nên suy xét cho
thật kỹ. Hãy xem
các nước láng giềng Đông Á của Trung Quốc – đặc biệt là Nhật Bản, Đại
Hàn và Đài Loan. Mỗi nước này đều đạt được tăng trưởng kinh tế cao thông
qua chính sách công nghiệp do nhà nước dẫn dắt, công nghiệp hóa nông
thôn và mở cửa cho thương mại. Nhưng Nhật Bản đạt được các mục tiêu này
trong khuôn khổ nền dân chủ thời hậu chiến, trong khi Đại Hàn và Đài
Loan đã là hai nền dân chủ trong suốt ba mươi năm qua. Nói cách khác,
chế độ độc tài chuyên chế không có vai trò cần thiết trong công cuộc
hiện đại hóa. Chắc
chắn rằng chế độ dân chủ thì chậm chạp một cách khó chịu và thường gây
nhiều tranh cãi. Nhưng các quy trình tranh luận và bầu cử của chế độ dân
chủ đã giúp giảm thiểu xung đột, đặc biệt là ở những xã hội không thuần
nhất và tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn. Ngay cả ở một quốc gia tương đối thuần
nhất như Trung Quốc, sự thiếu vắng những cuộc tranh luận công khai đã có
tác động ngược, bằng chứng là sự xử lý sai lầm của nhà nước đối với các
cuộc bất ổn sắc tộc của người Tây Tạng và người Duy Ngô Nhĩ. Không
có một xã hội dân sự vững mạnh hoặc một hệ thống tư pháp độc lập để kiểm
soát quyền lực của chính phủ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, trong nhiều
trường hợp, đã phạm phải những sai lầm khủng khiếp trong phán đoán và
quyết định. Không cần nhìn xa hơn những cuộc Đại Nhảy vọt hoặc Cách mạng
Văn hóa của Mao Trạch Đông cũng thấy rõ. Ông Tập
cũng có những sai lầm ngớ ngẩn. Ví dụ, quyết định của ông ta ra lệnh cho
các doanh nghiệp nhà nước đổ tiền vực dậy thị trường chứng khoán Thượng
Hải trước nguy cơ sụp đổ năm 2015 là một tính toán sai lầm ở tầm sử thi. Một khi
quỹ dự trữ ngoại hối do ngân hàng trung ương Trung Quốc quản lý ngừng
bơm tiền vào các doanh nghiệp nhà nước đang khốn khó thì thị trường lại
rơi trở về mức độ thấp ban đầu trước khi nhà nước can thiệp. Tới thời
điểm đó, hàng trăm tỉ đô la Mỹ đã bị phung phí. Không
có sự kiểm tra chính trị và các cơ chế mang tính thiết chế để kiểm soát
dân chúng đã khuyến khích sự lạm dụng quyền lực và tham nhũng ở cấp cao,
góp phần vào tình trạng bất bình đẳng trầm trọng, vào những vụ tùy tiện
thu hồi đất đai, những điều kiện lao động không an toàn, những cơn ác
mộng về an toàn thực phẩm, ô nhiễm chất độc và nhiều vấn đề khác. Trong
khi những nỗ lực chống tham nhũng mạnh mẽ của ông Tập có thể ngăn chặn
một số tình trạng bất công nào đó, nhưng không cải cách chính trị sâu
rộng thì chiến dịch của ông ta chống lại các quan chức đảng xấu xa cũng
chỉ giống như dã tràng xe cát (**) – nếu không nói đó chỉ là một mưu đồ
loại bỏ các đối thủ chính trị tiềm tàng. Quản lý
kinh tế cũng bị thiệt hại vì tình trạng mù mờ tương tự. Tại thời điểm
này, có rất ít, thậm chí không có, sự kiểm soát hoạt động đầu tư bằng
tiền nợ vay của các doanh nghiệp nhà nước hoặc các công ty có liên kết
về chính trị. Khuyết điểm này, với mức độ mà nó gây ra trong việc phân
bổ sai lầm khủng khiếp nguồn vốn liếng, đang và sẽ là cội nguồn những
bất trắc chính về kinh tế vĩ mô của Trung Quốc. Khi
kinh tế Trung Quốc trở nên phức tạp hơn, sự thiếu vắng các quy trình
quản trị minh bạch và có trách nhiệm giải trình, kết hợp với những vụ
trấn áp thường xuyên vào xã hội dân sự, cùng những nỗ lực áp đặt sự tuân
phục và kỷ luật, cuối cùng sẽ thui chột tinh thần doanh nhân và khả năng
sáng tạo. Cho dù chi tiêu của Trung Quốc vào nghiên cứu và phát triển
tính theo tỷ lệ so với tổng sản lượng quốc dân hiện đang ở mức cao thì
cũng chẳng ích lợi gì, phần lớn khoản đầu tư này rơi vào khu vực kinh tế
công. Nếu các doanh nghiệp nhà nước vẫn “quá lớn, không thể sụp đổ” thì
sẽ tạo ra một sự trì kéo về sáng tạo. Khi Trung Quốc đã ra khỏi giai
đoạn “đuổi theo” trên con đường phát triển kinh tế thì việc xử lý sự hạn
chế này sẽ trở nên ngày càng quan trọng hơn. Thiếu
minh bạch và cởi mở cũng có thể thách thức sự ổn định chính trị. Khi
đương đầu với khủng hoảng, các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường hành động
quá đáng, trấn áp những người bất đồng. Sự lãnh đạo tập thể và thực tế
trong những thập niên vừa qua đã xử lý vấn đề một cách hợp lý nhưng công
cuộc củng cố quyền lực của ông Tập và sự tôn sùng cá nhân chung quanh
ông có thể khiến cho bất ổn trở nên trầm trọng hơn. Các
chính phủ dân chủ, cho dù hỗn độn, đã tỏ ra vững chãi hơn, bởi vì chúng
có được tính chính danh từ chế độ đa nguyên và cạnh tranh chính trị hơn
là từ tăng trưởng kinh tế cao hoặc từ lời kêu gọi dân tộc chủ nghĩa.
Những quyết định của ngành tư pháp đảo ngược lệnh cấm tùy tiện về nhập
cảnh của tổng thống Donald Trump ở Hoa Kỳ hoặc sự hủy bỏ tương tự cố
gắng của thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi nhằm hình sự hóa người bất đồng
chính kiến là những ví dụ cho thấy sự độc lập mang tính thiết chế đã
củng cố như thế nào tính chất kiên cường của hệ thống chính trị dân chủ
- tính kiên cường mà Trung Quốc không có được. Không
giống như câu chuyện chính thức, phần lớn những đặc điểm của hệ thống
cai trị của Trung Quốc mà ông Tập ra sức xiển dương lại ít liên quan tới
ông ta. Chúng là di sản của các chính phủ quân chủ hoặc chính phủ cộng
sản thời kỳ đầu của Trung Quốc: một hệ thống đề bạt công chức dựa trên
năng lực và thành tích hoạt động; một khuôn khổ về tổ chức nhằm bảo đảm
sự trung thành từ trên ban xuống mà không gây phương hại cho phẩm chất
của sự điều hành ở địa phương; và một hệ thống độc đáo tập quyền về
chính trị kết hợp với phân quyền về hành chính và kinh tế. Nói
cách khác, dù có sức hấp dẫn, mô hình Trung Quốc rất kém cỏi về nhiều
phương diện căn bản và không dễ gì tái lập ở các nơi khác. Bất kỳ quốc
gia nào nghe theo lời mời mọc của ông Tập mà bắt chước Trung Quốc trong
khi không có một lịch sử tổ chức tương tự thì sẽ nhanh chóng thất vọng.
Trung Quốc không chỉ độc đáo về chính trị mà còn có một thị trường nội
địa to lớn và ngày càng thịnh vượng, cho phép nước này thu hút đầu tư
nước ngoài theo những điều kiện của mình. Vì thế,
cho dù vị hoàng đế mới của vương quốc trung tâm này có tuyên bố gì đi
nữa thì phát triển mang đặc điểm Trung Quốc thật sự chỉ dành cho Trung
Quốc mà thôi. -- (*)
Pranab Bardhan là giáo sư trường Đại học California, Berkeley. Những tác
phẩm gần đây nhất của ông là
“Globalization, Democracy and Corruption: An Indian Perspective” và
“Awakening Giants, Feet of Clay:
Assessing the Economic Rise of China and India”. (**)
Nguyên văn: Sisyphean task
(công việc của Sisyphus). Theo thần thoại Hy Lạp, Sisyphus hoặc
Sisyphos, vua xứ Ephyra, bị trừng phạt phải đẩy một tảng đá lớn lên đồi
chỉ để thấy tảng đá lăn trở lại xuống chân dốc, và Sisyphus phải vĩnh
viễn làm đi làm lại công việc này. Điển tích Sisyphus, hoặc công việc
của Sisyphus, được dùng để chỉ những công việc nặng nhọc nhưng vô ích.
|