China’s Great Leap Backward
Huỳnh Hoa
dịch
Bước nhảy lùi vĩ
đại của Trung Quốc Jonathan Tepperman*
Trong nhiều thập
niên, quốc gia này đã xoay xở tránh được phần lớn những vấn đề mà các
chế độ độc tài phải chịu đựng. Giờ đây, trò chơi quyền lực cá nhân của
Tập Cận Bình có nguy cơ phá hủy mọi thứ đã làm cho Trung Quốc trở nên
khác biệt. Trong
bốn mươi năm qua, Trung Quốc đã tích cóp được một danh sách dài những
thành tựu nổi bật. Từ năm 1978 đến 2013, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng
bình quân 10 phần trăm mỗi năm, làm gia tăng mười lần mức thu nhập trung
bình của người lao động trưởng thành. Tất cả sự tăng trưởng đó đã giúp
khoảng 800 triệu người thoát ra khỏi đói nghèo; trong quá trình này
Trung Quốc cũng giảm được 85 phần trăm mức tử vong của trẻ sơ sinh và
nâng tuổi thọ bình quân thêm 11 năm. Đáng
kinh ngạc là Trung Quốc đã đạt được những thành tựu như vậy trong khi
chính phủ nước này vẫn rất hà khắc về chính trị - chuyện chưa hề có tiền
lệ trong lịch sử và rất, rất khó thực hiện, theo lý thuyết chính trị.
Vậy nên, không có gì lạ khi nhà nghiên cứu Trung Quốc Orville Schell
miêu tả thành tích này như là “một trong những phép lạ gây sửng sốt nhất
về phát triển kinh tế trong lịch sử thế giới”. Phẩm
chất kỳ diệu của những thành tựu của Trung Quốc làm cho những gì đang
xảy ra ở đất nước này ngày hôm nay trở nên hết sức bi thảm – và gây
hoang mang. Dưới vỏ bọc chống tham nhũng, chủ tịch Tập Cận Bình đang
từng bước xóa bỏ hầu như mọi cuộc cải cách đã làm cho Trung Quốc đạt
được sự tăng trưởng ngoạn mục trong bốn thập kỷ qua. Thay cho một hệ
thống dù khiếm khuyết nhưng cực kỳ thành công, ông ta đã dựng lên một sự
sùng bái cá nhân to lớn chỉ tập trung vào cá nhân ông ta, ông ta thâu
tóm mọi quyền hành vào tay mình hơn bất kỳ nhà lãnh đạo Trung Quốc nào
kể từ thời Mao Trạch Đông. Trong
ngắn hạn, những nỗ lực của Tập có thể làm cho Trung Quốc bớt tham nhũng
và ổn định hơn. Nhưng bằng việc hủy diệt nhiều cơ chế đã giúp cho phép
lạ Trung Quốc có thể xảy ra, có nguy cơ Tập sẽ đảo ngược những kết quả
ấy và biến Trung Quốc thành một nhà nước cảnh sát khác nữa (hãy nghĩ tới
một phiên bản Bắc Triều Tiên khổng lồ và cởi mở hơn): không có hiệu quả,
vô tích sự, dễ đổ vỡ và hiếu chiến. Và đó là điều đáng lo không chỉ cho
1,4 tỉ người Trung Quốc mà cho tất cả chúng ta. Để hiểu
điều gì đang làm cho chiến dịch xây dựng đế quốc cá nhân của Tập trở nên
nguy hiểm như thế, trước hết cần hiểu những gì đã làm cho Trung Quốc trở
nên phi thường trong thời gian dài như vậy. Xuyên suốt lịch sử hiện đại,
đa số các nhà độc tài và các nhà nước độc đảng đều có chung một số đặc
điểm căn bản. Quyền lực nằm trong tay của một nhóm nhỏ các cá nhân. Để
giữ quyền lực, các cá nhân này đàn áp những người bất đồng và cai trị
bằng sự đe dọa. Bởi vì đám công chức quan liêu và dân chúng sống trong
sợ hãi, họ cạnh tranh nhau để bợ đỡ các ông chủ. Không ai nói lên sự
thật, nhất là khi sự thật ấy làm cho họ và các lãnh đạo của họ trông xấu
xí đi. Kết quả là, các bạo chúa tự cô lập – mà cái tôi của họ được thổi
phồng lên bằng những lời xu nịnh thường xuyên và khúm núm – tự thấy mình
ngày càng xa rời thực tế, xa rời phần còn lại của thế giới (hãy nghĩ tới
Kim Jong Un, Bashar al-Assad hoặc Robert Mugabe) và rốt cuộc họ cai trị
một cách tùy hứng, cai trị theo bản năng với rất ít ý thức về những gì
đang thật sự xảy ra ở đất nước họ. Tác động của sự ngu muội này đối với
chính sách đối nội và đối ngoại thật là thảm họa. Trong
khoảng 35 năm – tính từ khi Mao chết và Đặng Tiểu Bình phát động các
cuộc cải cách của ông ta vào cuối thập niên 1970 cho đến khi Tập lên nắm
quyền năm 2012 – Trung Quốc đã tránh được nhiều cạm bẫy kiểu này và đi
ngược lại quy luật về các chuẩn mực chính trị bằng cách xây dựng cái mà
các học giả gọi là chế độ “độc tài thích nghi”
(adaptive authoritarian).
Trong khi vẫn duy trì chủ nghĩa cộng sản trên danh nghĩa, Trung Quốc đã
tiếp thu nhiều hình thức của chủ nghĩa tư bản thị trường và một số cuộc
cải cách tự do khác. Tất nhiên, hệ thống cũ vẫn có tính đàn áp cao độ
(hãy nhớ vụ thảm sát Thiên An Môn) và còn xa mới hoàn hảo xét về nhiều
phương diện. Tuy vậy, nó cho phép chính phủ Trung Quốc thực hiện chức
năng của mình một cách hiệu quả phi thường và tránh được nhiều chứng
bệnh mà các chế độ độc tài khác mắc phải. Chế độ kiểm duyệt chẳng hạn,
chưa bao giờ biến mất, nhưng các đảng viên Cộng sản có thể không tán
thành và tranh luận các ý tưởng, còn các báo cáo nội bộ đôi khi tỏ ra
thẳng thắn một cách đáng ngạc nhiên. Không
còn như vậy nữa. Ngày nay, Tập đang hủy hoại một cách có hệ thống hầu
như mọi phương diện từng làm cho Trung Quốc trở nên khác biệt, từng giúp
Trung Quốc hoạt động tốt như thế trong quá khứ. Những nỗ lực của ông ta
có thể làm gia tăng quyền lực và uy tín của ông ta trong ngắn hạn, làm
suy giảm một số hình thức tham nhũng. Tuy nhiên, cân nhắc kỹ, chiến dịch
của Tập sẽ có những hệ quả thảm khốc trong dài hạn cho đất nước ông ta
và cho cả thế giới. Có lẽ
đặc trưng bất thường nhất của hệ thống mà Đặng tạo ra là cách phân bổ
quyền lực cho nhiều nhà lãnh đạo. Thay vì để một người thực hành uy
quyền tối cao, như phần lớn các chế độ độc tài, Đặng phân chia quyền lực
cho tổng bí thư đảng (người cũng thường nắm vị trí chủ tịch đảng), thủ
tướng chính phủ và bộ chính trị. Đặng hy
vọng một hệ thống như vậy sẽ bảo đảm không một cá nhân nào có thể tái
thâu tóm kiểu quyền lực mà Mao từng có – bởi vì quyền lực không kiểm
soát của Mao đã dẫn tới những sai lầm và lạm dụng khủng khiếp, chẳng hạn
như các công cuộc Đại Nhảy vọt (trong đó ước tính khoảng 45 triệu người
đã chết) và Cách mạng Văn hóa (trong đó bản thân Đặng đã bị thanh trừng
và con trai của ông ta bị tra tấn tàn khốc tới mức anh ta trở thành bại
liệt). Như ông Bùi Mẫn Hân
(Minxin Pei), chuyên gia về Trung Quốc tại đại học Claremont McKenna
College, giải thích, mô hình lãnh đạo tập thể mà Đặng thiết kế đã giúp
loại bỏ những ý tưởng xấu và thúc đẩy những ý tưởng tốt bằng cách đề cao
sự cân nhắc cẩn thận mà không khuyến khích việc mạo hiểm. Từ khi
lên nắm quyền năm 2012, Tập đã ra sức dỡ bỏ hệ thống lãnh đạo tập thể ở
một số phương diện. Trước hết, nhân danh đấu tranh với tham nhũng – một
mục tiêu quan trọng mà Trung Quốc đang rất cần – ông ta đã thanh trừng
một số lượng lớn quan chức mà tội lỗi thật sự của họ, dưới cái nhìn của
Tập, là không thể hiện đầy đủ lòng trung thành với nhà lãnh đạo tối cao.
Mạnh Hoành Vĩ (Meng Hongwei),
chủ tịch Interpol (Cảnh sát quốc tế), người bị Trung Quốc đột ngột bắt
giam hai tuần trước, chỉ là một trường hợp nổi bật nhất và mới nhất; câu
chuyện của ông ta là hết sức bất thường. Trong
vòng 6 năm qua, có 1,34 triệu quan chức bị biến thành mục tiêu – một con
số gây sửng sốt, và hơn 170 nhân vật lãnh đạo ở cấp bộ trưởng hoặc thứ
trưởng bị bãi nhiệm (đa số bị cầm tù). Cảnh ngộ của Mạnh, cũng giống
cảnh ngộ của Bạc Hy Lai (Bo
Xilai) – bí thư thành ủy đầy quyền lực của thành phố Trùng Khánh, bị
hạ bệ năm 2012 – chứng tỏ rằng không ai được miễn nhiễm với sự trừng trị
của Tập. Thật vậy, từ năm 2012 đến nay số ủy viên ban chấp hành trung
ương đầy quyền lực của đảng Cộng sản bị thi hành kỷ luật còn nhiều hơn
cả thời kỳ dài từ cuộc Cách mạng Cộng sản tới năm ấy. Không
hài lòng với việc chỉ xóa bỏ mọi sự cạnh tranh, Tập còn củng cố quyền
lực bằng việc bãi bỏ giới hạn nhiệm kỳ đối với chức vụ của ông ta và từ
chối đề cử một người kế vị, như những người tiền nhiệm của ông ta vẫn
làm vào giữa thời gian cầm quyền của họ. Ông cũng đưa “Tư tưởng Tập Cận
Bình” vào vị thế trang trọng trong hiến pháp Trung Quốc (một vinh dự mà
chỉ Mao và Đặng có được); thâu tóm quyền kiểm soát trực tiếp các lực
lượng vũ trang, tự biến mình thành “chủ tịch của mọi thứ” bằng cách tạo
ra một số lượng lớn các nhóm hoạt động về chính sách, trải rộng từ tài
chính đến vấn đề Đài Loan và an ninh mạng – tất cả đều báo cáo trực tiếp
cho ông ta. Một
phương diện quan trọng thứ hai của hệ thống cũ là quan chức các cấp đều
có thể kỳ vọng được thăng thưởng nếu có thành tích tốt. Đây không hoàn
toàn là chế độ nhân tài, và hệ thống vẫn đầy sự tham nhũng và sự bảo trợ
đỡ đầu. Nhưng cả hai khía cạnh này thực sự đã phục vụ một sự nghiệp
chung ở một điểm chủ yếu: nếu một công chức làm tốt công việc của mình,
anh ta hoặc chị ta có thể hy vọng có được một phần thành quả và được
thăng tiến đều đặn. Ông Tập trái lại, đã “thay thế hệ thống dựa trên sự
khích lệ bằng hệ thống dựa trên sự sợ hãi” như nhận định của ông Bùi. Và
sự chuyển dịch này kéo theo hai vấn đề lớn. Trước hết, nó làm méo mó
những ưu tiên của quan chức, từ ưu tiên cho kết quả làm việc sang ưu
tiên cho việc thể hiện lòng trung thành. Vấn đề thứ hai, theo Alexander
Gabuev, chuyên gia về Trung Quốc tại Trung tâm Carnegie Moscow, là “khi
nỗi sợ hãi là tất cả những gì bạn có, công chức trở nên sợ hãi tới mức
họ không dám làm gì mà không có mệnh lệnh rõ ràng từ cấp trên. Thế là
toàn bộ guồng máy quan chức trở nên thụ động. Không việc gì được hoàn
thành cả”. Một tài
sản có liên quan của hệ thống cũ là cách thức mà nó khuyến khích chính
quyền các địa phương - ở cấp làng xã, quận hạt và tỉnh thành – thử
nghiệm các sáng kiến mới, từ công cuộc xây dựng thị trường tự do bốn
mươi năm về trước đến cho phép sở hữu tư nhân về đất đai trong thời gian
gần đây. Những cuộc thử nghiệm như vậy đã biến Trung Quốc thành một đất
nước có hàng trăm phòng thí nghiệm chính sách, cho phép nó thử nghiệm
những giải pháp khác nhau cho nhiều vấn đề theo những cách thức an toàn,
lặng lẽ và ít rủi ro trước khi quyết định có nên áp dụng đại trà hay
không. Hệ thống này đã giúp Bắc Kinh tránh được những quyết định phi lý
và những sai lầm thảm họa mà nó đã từng có dưới thời Mao – chẳng hạn như
trong thời kỳ Đại Nhảy vọt những năm 1958-1962, các quan chức kế hoạch ở
trung ương nhấn mạnh rằng nông dân Tây Tạng phải trồng lúa mì bất chấp
thực tế khu vực núi cao đất đai cằn cỗi hoàn toàn không phù hợp với loại
cây trồng đó. Tất
nhiên, Bắc Kinh đã chấp nhận một mức độ tự trị nào đó để cho phép các
quan chức địa phương được thử nghiệm những điều mới mẻ. Ông Tập, trái
lại, có vẻ như nhìn những lối suy nghĩ độc lập ấy như là những mối đe
dọa không tha thứ được. Theo mệnh lệnh của ông, chính phủ Trung Quốc đã
bắt đầu ngăn chặn những chương trình thử nghiệm quy mô nhỏ. Sebastian
Heilmann của trường đại học Trier của Đức dự tính số lượng các cuộc thử
nghiệm ở cấp tỉnh đã giảm từ mức 500 cuộc năm 2010 xuống còn khoảng 70
cuộc năm 2016 và có lẽ đã giảm nhiều hơn nữa kể từ lúc ấy. Thay vào đó,
một lần nữa các chính sách lại được ban bố từ trên đỉnh, với rất ít sự
quan tâm tới các điều kiện của địa phương. Một ví
dụ mới nhất: Cũng như ngành công nghiệp công nghệ Trung Quốc khét tiếng
về ăn cắp và áp dụng các sáng tạo của nước ngoài, các quan chức Trung
Quốc từ lâu đã làm điều tương tự trong lĩnh vực chính sách; họ nghiên
cứu cẩn thận những gì được thực thi ở các nước khác rồi áp dụng những
bài học ấy vào trong nước. (Ví dụ tốt nhất cho sự bắt chước này tất
nhiên chính là công cuộc xây dựng xây dựng thị trường tự do ở Trung
Quốc, theo các mô hình của Nhật Bản, Đài Loan và Hoa Kỳ). Giống như đối
với những sáng kiến khác của ông Đặng, ông Tập cũng đã cắt xén thực tế
này bằng cách làm cho các quan chức cấp tỉnh thành khó tương tác với
người nước ngoài hơn. Năm 2014, chính quyền bắt đầu tịch thu hộ chiếu
của công chức. Cũng như nhiều hạn chế khác được chính phủ thực thi gần
đây, động thái này được biện minh nhân danh cuộc đấu tranh chống tham
nhũng – nhìn bề ngoài, ý tưởng tịch thu hộ chiếu là để ngăn chặn các
quan chức ăn bẩn chạy ra khỏi nước. Nhưng thực tế là chính sách này gần
đây đã được mở rộng xuống cả các giáo viên tiểu học, và được tăng cường
bằng những sự hạn chế liên quan khác – giờ đây các quan chức phải xin
phép mới được tham dự các cuộc họp và hội nghị với nước ngoài và phải
báo cáo về thời gian ở nước ngoài theo từng tiếng đồng hồ một – cho thấy
rằng ưu tiên thật sự là giới hạn sự tiếp xúc với người nước ngoài và các
ý tưởng của họ. Cuộc
đàn áp của Tập có ý nghĩa gì cho tương lai của Trung Quốc và cho chúng
ta? Trong khi cần luôn luôn cẩn trọng khi dự đoán sự thất bại của Trung
Quốc – như lịch sử tóm tắt ở trên cho thấy quốc gia này rất giỏi trong
việc tìm đường đi tránh những vấn đề mà về lý thuyết sẽ kìm hãm nó –
thật khó để tránh cái kết luận u ám rằng nước Trung Quốc của Tập đang
nhanh chóng trở nên ít khác thường hơn và giống một nhà nước cảnh sát
điển hình hơn. Trên
bình diện nội trị, việc hoạch định chính sách của Bắc Kinh đã trở nên ít
linh hoạt và nhanh chóng. Không khó tìm những ví dụ cho lối tiếp cận
cứng nhắc hơn, cũng như những mặt tiêu cực của nó. Cứ xem trong mùa đông
vừa qua, khi chính phủ bắt buộc các hệ thống cung cấp hơi sưởi ấm trên
toàn quốc phải chuyển đổi ngay lập tức từ chạy bằng than sang chạy bằng
khí đốt. Điều này nghe có vẻ khôn ngoan ở một đất nước bị ô nhiễm như
Trung Quốc. Nhưng mệnh lệnh được thi hành một cách bất ngờ trên khắp
nước, không có ngoại lệ. Thế là ở miền Bắc lạnh giá của Trung Quốc,
nhiều lò đốt bằng than bị dỡ bỏ trước khi các lò đốt bằng khí gas được
lắp đặt – khiến cho nhiều thị trấn hoàn toàn không có hơi ấm để sưởi,
dân chúng bị buộc phải đốt cùi bắp để sinh tồn. Nếu
Trung Quốc tiếp tục đi theo con đường hiện hành thì sẽ có thêm rất nhiều
trường hợp mà những chính sách với ý định tốt được thực hiện một cách
vội vã và vụng về, dẫn tới nhiều hậu quả tai hại hơn rất nhiều. Bởi vì
các chế độ độc tài cá nhân rất kém cỏi trong việc thừa nhận lỗi lầm –
không được phép làm gì, nói gì có hại cho huyền thoại về lãnh đạo toàn
năng – Trung Quốc sẽ có khả năng trở nên kém linh hoạt trong việc sửa
chữa những sai lầm một khi nó đã gây ra. Hoặc trong việc đối mặt với
những vấn đề tiềm ẩn đang kéo nền kinh tế xuống, chẳng hạn như sự phụ
thuộc nặng nề vào các doanh nghiệp nhà nước kềnh càng và không hiệu quả
- bộ phận doanh nghiệp đã trở nên to lớn hơn, nhiều quyền lực hơn kể từ
khi Tập lên cầm quyền; mức nợ công cao một cách nguy hiểm, đặc biệt là
nợ của các chính quyền địa phương; và một xu hướng ứng phó với mỗi vụ
suy giảm kinh tế bằng cách bơm thêm tiền vào hệ thống, nhất là cho các
dự án hạ tầng cơ sở không cần thiết. Trong thực tế, Trung Quốc không chỉ
không có khả năng xử lý bất kỳ khuyết điểm nào trong các khuyết điểm
này, mà nó còn có vẻ làm cho tình hình tệ hại thêm. Đó chính là điều mà
Trung Quốc đã làm vào ngày 7 tháng 10, khi ngân hàng trung ương Trung
Quốc công bố thêm một chương trình kích thích tốn kém khác nữa: kế hoạch
chi ra 175 tỉ đô la nhằm vực dậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với mỗi
động thái phá vỡ ngân sách mới, và trong hoàn cảnh không có sự cải cách,
khả năng Trung Quốc phải trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế gây bất
ổn nghiêm trọng – mà những nhà đầu tư có cái nhìn bi quan về Trung Quốc
như Ruchir Sharma, phụ trách khối các thị trường đang nổi lên của Morgan
Stanley từng cảnh báo nhiều năm trước – sẽ tiếp tục tăng lên. “Vấn đề
lớn là liệu có thể một trong những quả bom hẹn giờ - nợ xấu, thị trường
bất động sản quá nóng, doanh nghiệp nhà nước phình to lên – sẽ bùng nổ
hay không”, Gabuev nói. “Do sự tập trung quyền lực của ông Tập nên không
có ai nói cho ông ta những lời cảnh báo trước nếu một trong những quả
bom này sắp nổ. Và bởi vì ông ta không thật sự hiểu biết rõ về kinh tế
vĩ mô, còn mọi người thì ngại không dám nói ngược với hoàng đế cho nên
có một rủi ro rất lớn là ông ta sẽ quản trị sai lầm khi nó xảy ra”. Thật
vậy, sự ứng phó của chính phủ Trung Quốc trước bất kỳ sự bất ổn nào đều
có vẻ thật ngu ngốc. Như Schell giải thích: “Tập đã thực sự đưa Trung
Quốc vào rủi ro rất lớn. Và bởi vì công cụ duy nhất của ông ta là đàn
áp, nếu sự việc diễn biến theo chiều hướng xấu, rất có thể chúng ta sẽ
thấy thêm nhiều cuộc trấn áp nữa”. Những
dự báo như vậy làm cho mọi người lo lắng. Trung Quốc là nền kinh tế lớn
nhất thế giới về một số mặt, cho nên nếu nó sụp đổ, cả hành tinh này sẽ
phải trả giá. Nhưng lịch sử của các chế độ độc tài khác, chẳng hạn như
nước Nga của Vladimir Putin hoặc Bắc Hàn của dòng họ Kim, cho thấy trò
chơi quyền lực không ngừng nghỉ của Tập có thể sinh ra nhiều hệ lụy tệ
hại hơn nữa. Từ khi nắm được quyền lực, Tập đã vạch ra một chính sách
đối ngoại hiếu chiến hơn rất nhiều so với những người tiền nhiệm của ông
ta, đã làm hầu như mọi nước láng giềng và cả Hoa Kỳ xa lánh, bằng việc
đẩy mạnh đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông, đe dọa Đài Loan, và dùng sức
mạnh quân sự để hậu thuẫn cho các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh ở các
quần đảo tranh chấp. Nếu như
các vấn đề kinh tế của Trung Quốc trở nên tồi tệ, Tập có thể thử gia
tăng căng thẳng ở những mặt trận này nhằm lôi kéo người dân ra khỏi cuộc
khủng hoảng trong nước. Sự cám dỗ của hành vi đó tỏ ra mạnh mẽ đặc biệt
nếu tổng thống Donald Trump của Hoa Kỳ tiếp tục chọc ngoáy Trung Quốc
bằng việc tăng cường chiến tranh thương mại và công khai phê phán Trung
Quốc. Ông Bùi
cảnh báo tình hình còn có thể đáng sợ hơn nếu những vấn đề kinh tế của
Trung Quốc hoàn toàn vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Trong trường hợp đó,
nhà nước Trung Quốc có thể sụp đổ - kết cục điển hình của các chế độ độc
tài điển hình khi đối mặt với các cú sốc kinh tế, với các mối đe dọa từ
bên ngoài (đặc biệt là từ một thất bại trong chiến tranh) hoặc với sự
nổi loạn của dân chúng – nhưng là một sự sụp đổ, mà do kích thước khổng
lồ của Trung Quốc, có thể sinh ra những hậu quả cực kỳ khủng khiếp. Đó là
lý do tại sao tất cả chúng ta nên hy vọng rằng Trung Quốc bằng cách nào
đó một lần nữa sẽ tìm được con đường vượt qua lực hút chính trị và tiếp
tục là một ngoại lệ đối với mọi quy luật – bất chấp những nỗ lực đang
tiến hành của ông Tập nhằm làm cho Trung Quốc trở nên bình thường theo ý
nghĩa tệ hại nhất của từ này.
(*)
Jonathan Tepperman là tổng
biên tập tạp chí Foreign Policy.
Nguồn:
https://foreignpolicy.com/2018/10/15/chinas-great-leap-backward-xi-jinping/ |