The Communist Parties of China and
Vietnam do not get on
Người dịch: Huỳnh Hoa
Hai đảng Cộng sản Trung Quốc và
Việt Nam không hòa thuận Sự khác biệt có phần do triết lý
The Economist Ngày
xửa ngày xưa đảng Cộng sản Trung Quốc và đảng Cộng sản Việt Nam là những
đồng chí trung kiên trong cuộc cách mạng vô sản. Ông Mao Trạch Đông đã
vun đắp cho mối quan hệ ấy qua việc giúp đỡ ông Hồ Chí Minh trong cuộc
đấu tranh phản đế, chống lại người Pháp và người Mỹ. Ông Mao cung cấp
cho ông Hồ cả khí tài quân sự lẫn cố vấn về ý thức hệ cộng sản, về kỷ
luật đảng. Chủ
nghĩa tư bản đã biến đổi hai quốc gia này theo cách mà các nhà cách mạng
của cả hai nước không ngờ tới! Nhưng cả hai đảng đã sống sót qua các vụ
chống đối, đang điều hành các chế độ chuyên chế kiểu Lenin trong lúc vẫn
chứng kiến kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Họ là hai trường hợp thành
công nhất, vượt rất xa các nhà nước cộng sản còn lại, dễ dàng che lấp
nước Cuba tiêu điều, nước Lào bé nhỏ và Bắc Hàn hiếu chiến. Không
chỉ trong việc đi theo thị trường tự do Việt Nam mới bắt chước Trung
Quốc. Dưới thời ông Tập Cận Bình, đảng Cộng sản Trung Quốc đã tập trung
hóa quyền lực và trấn áp những người bất đồng chính kiến. Các nhà quan
sát tự hỏi, liệu đảng Cộng sản ở Việt Nam có sẽ theo sát Trung Quốc hay
không. Một đường lối cứng rắn hơn đã được đưa ra trong đại hội đảng, năm
năm một lần, đầu năm 2016. Ông thủ tướng hăng hái Nguyễn Tấn Dũng được
kỳ vọng sẽ tiếp quản chức tổng bí thư từ ông Nguyễn Phú Trọng, một nhân
vật thuần túy của đảng; nhưng thay vì vậy, ông Trọng và các đồng minh
của ông đã buộc ông Dũng phải về hưu còn ông Trọng vẫn giữ nguyên chức
vụ. Từ đó
đến nay đảng trở nên cứng rắn hơn trong việc thực thi quyền lực và kỷ
luật. Khắp nước, đảng ra tay trấn áp các nhà bất đồng chính kiến và hoạt
động xã hội. Và dưới cái bóng của ông Tập, ông Trọng đã theo đuổi một
chiến dịch chống tham nhũng quyết liệt chưa từng thấy. Các lãnh đạo có
quan hệ tốt ở thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng bị ngã ngựa. Hồi tháng 9,
một cựu chủ tịch của tập đoàn dầu khí quốc gia, PetroVietnam, bị tuyên
án tử hình vì biển thủ tiền bạc ở một ngân hàng nhiều tai tiếng. Một cựu
lãnh đạo khác của PetroVietnam bị những kẻ côn đồ đưa đi khỏi Berlin để
bị truy tố ở Hà Nội, bất chấp sự giận dữ của Đức. Vài người nói rằng,
bản thân ông Dũng cũng sẽ bị truy tố. Giống
như ông Tập, ông Trọng tin tưởng một cách hợp lý rằng tham nhũng đe dọa
sự sinh tồn của đảng. Vấn đề tham nhũng ở Việt Nam nghiêm trọng hơn ở
Trung Quốc và cần phải làm gì đó. Việc thực thi kỷ luật đảng cũng tạo ra
hy vọng tốt cho công cuộc tiến hành cải cách một hệ thống mà trong đó
quyền lực bị phân tán và trung tâm thường bị phớt lờ. Cũng như ở Trung
Quốc, ranh giới giữa đấu tranh chống tham nhũng và triệt hạ kẻ thù chính
trị thường rất mờ nhạt. Nhưng sự kiện ông Trọng bất ngờ đuổi con cái của
các cựu quan chức chóp bu của đảng khỏi những vị trí béo bở có thể được
coi như một cách thúc đẩy đa nguyên và sử dụng nhân tài ở một quốc gia
mà thói gia đình trị đã thâm căn cố đế, theo lời ông Bill Hayton của
Chatham House, một trung tâm nghiên cứu của Anh quốc. Tuy
nhiên, bất chấp tất cả những điểm tương đồng, thời kỳ quan hệ nồng ấm
giữa hai đảng đã trôi qua từ lâu. Ông Tập đến thăm Việt Nam hồi tháng 11
và ca ngợi tình hữu nghị anh em bằng ngôn từ gượng gạo. Những lời ca
ngợi của ông Tập là rỗng tuếch và giả dối với người Việt Nam đang giận
dữ vì Trung Quốc ngày càng mở rộng yêu sách chủ quyền ở vùng biển mà
Việt Nam gọi là Biển Đông chứ không gọi là biển Nam Hải. Năm 2014, Trung
Quốc đã kéo một giàn khoan dầu vào vùng biển thuộc chủ quyền của Việt
Nam, làm bùng nổ những cuộc biểu tình bạo lực chống Trung Quốc. Hai
đảng bất đồng với nhau lần đầu tiên vào năm 1979, khi Đặng Tiểu Bình
phát động cuộc chiến tranh trừng phạt Việt Nam vì đã lật đổ chế độ Khmer
Đỏ tàn ác được Trung Quốc hậu thuẫn ở Cambodia. (Việt Nam đã đánh bại
Trung Quốc). Nhưng nỗi nghi ngờ và cảnh giác giữa hai bên đã có từ nhiều
thế kỷ trước. Việt Nam luôn sẵn sàng chống lại và căm ghét cái ý tưởng
rằng dù thế nào Việt Nam cũng là chư hầu của một đế quốc quá cao ngạo ở
phương Bắc. Tình huynh đệ của đảng không thể hồi sinh dễ dàng trong kỷ
nguyên của chủ nghĩa dân tộc dễ bùng phát này. Hơn thế
nữa, một số nhà phân tích cho rằng, cho dù ông Trọng có bắt chước hệt
ông Tập, thì về mặt triết học hai đảng đang dần rời xa nhau. Từ năm 1989
và cuộc thảm sát những người biểu tình đòi dân chủ trên quảng trường
Thiên An Môn, Trung Quốc không còn bàn tới cải cách chính trị nữa. Đảng
và nhà nước Trung Quốc thực chất chỉ là một. Trái
lại, từ khoảng đầu thế kỷ này, đảng Cộng sản Việt Nam khuyến khích đa
nguyên nhiều hơn. Đã có những sự phân biệt rõ ràng giữa đảng và nhà
nước. Những vị trí hàng đầu, chẳng hạn như tổng bí thư đảng, chủ tịch
nhà nước, thủ tướng và các ủy viên bộ chính trị được chọn lựa thông qua
các cuộc bầu cử cạnh tranh, dù rằng chỉ cạnh tranh trong hàng ngũ cấp
cao của đảng. Năm 2010, đại hội đảng bộ địa phương ở Đà Nẵng tổ chức bầu
cử trực tiếp ban lãnh đạo thành phố, lần đầu tiên có chuyện như vậy. Một
mức độ bất đồng chính kiến rộng rãi hơn được chấp nhận. Một số người
Việt Nam, kể cả quan chức và tướng lãnh về hưu, lập luận rằng, cuối cùng
thì Việt Nam nên là nền dân chủ đa đảng. Ở xứ Trung Quốc của ông Tập,
những phát ngôn như vậy là không thể có. Ông
Trọng vẫn chỉ là người thứ nhất của một tập thể những người có quyền hạn
ngang nhau trong cơ chế lãnh đạo tập thể. Ông ta đứng đầu đảng nhưng
không đứng đầu nhà nước. Giới hạn số nhiệm kỳ sẽ buộc ông ta phải lui về
vào năm 2021 – và có lẽ ông ta sẽ nghỉ sớm hơn. Ông Tập, ngược lại, là
chủ tịch nhà nước, cũng là tổng bí thư đảng. Ông ta đã làm rõ tại đại
hội đảng năm năm một lần hồi tháng 10/2017 rằng ông ta là ông chủ duy
nhất, không thể thách thức của đất nước Trung Quốc. Ông ta cũng có thể
đảo ngược quy tắc thông thường và giành thêm một nhiệm kỳ nữa vào năm
2022, sau một thập niên cầm quyền. Tình
trạng chia rẽ giữa hai đảng có thể ngày càng rộng. Bất chấp tình trạng
giá lạnh hiện nay, ở Việt Nam vẫn có tự do thảo luận hơn ở Trung Quốc.
Những cuộc tranh luận trong đảng cũng sinh động hơn. Bên ngoài đảng, các
nhà bất đồng chính kiến và các nhóm tôn giáo vẫn đòi được làm một phần
của sân khấu công cộng, và áp lực của nước ngoài lên chính quyền không
quá mạnh để có thể có hiệu quả - giờ đây nước Đức đang thăm dò. Công dân
được tự do nhiều hơn trong việc tiếp cận mạng internet. Ông Lê Hồng Hiệp
của Viện Yusof Ishak thuộc Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) của
Singapore cho rằng, dưới thời ông Trọng, sự phê phán vẫn được bao dung,
thậm chí có thể hữu ích – chừng nào nó không bị coi là một thách thức
cho chế độ. Ở Trung Quốc, trái lại, internet bị cảnh sát kiểm soát chặt
và không tiếng nói công cộng nào được phép cất lên để phê phán đảng, nói
gì đến các nhà bất đồng chính kiến. Và rồi
đến chủ nghĩa dân tộc dễ bùng phát. Không một lãnh tụ Việt Nam nào, cho
dù có thiện cảm với đảng Cộng sản Trung Quốc như ông Trọng, có thể liều
lĩnh coi thường tình cảm dân tộc và dốc toàn lực vào cải thiện quan hệ.
Tình cảm chống Trung Quốc đang dâng cao. Chỉ là vấn đề thời gian trước
khi một vụ lăng nhục mới, có lẽ có liên quan tới đòi hỏi của Trung Quốc
ngoài Biển Đông, làm căng thẳng thêm nữa những mối quan hệ anh em cũ kỹ
đó. |