RFA 21-6-21
Vô số bất cập trong vấn đề vắc-xin ngừa COVID-19 tại Việt Nam Việt
Nam chậm trong chiến lược vắc-xin không phải vì thiếu nguồn lực tài
chính mà là do những hạn chế về tầm nhìn và khả năng quản trị Nhà nước
trong bối cảnh khủng hoảng - đại dịch. Quan điểm chi ngân sách theo kiểu
“tiết kiệm từng đồng” trong khi lại “tận thu từ doanh nghiệp và người
dân” cũng là những vấn đề được thảo luận tại cuộc tọa đàm “Mở rộng nguồn
tiếp cận vắc-xin và trách nhiệm của Nhà nước” do Đại học Fulbright Việt
Nam tổ chức vào cuối tuần qua.
Chiến lược vắcxin – chậm ở tất cả các khâu TS
Nguyễn Thu Anh, Giám đốc Viện Nghiên cứu Y Khoa Woolcock tại Việt Nam
thẳng thắn lên tiếng tại tọa đàm rằng Việt Nam (VN) đã chậm so với nhiều
nước trên thế giới trong chiến lược vắc-xin. Bà cho biết, vắc-xin ngừa
COVID được phát triển từ 2/2020 và ngay trong tháng 3 & 4/2020 đã có rất
nhiều quốc gia đã đặt mua AstraZeneca. Các loại vắc-xin ra đời sau đó
như Pfizer hay Moderna cũng được đặt hàng rất sớm.
“Còn Việt Nam, theo thông tin trên các báo
chính thống, chúng ta đăng ký mua vắc-xin từ AstraZeneca từ tháng 8/2020
và hoàn thành hồ sơ trở thành quốc gia nhận vắc-xin từ COVAX từ tháng 9
và tháng 10. Tôi cho rằng chúng ta đã hơi chậm một bước so
với các nước khác” –TS Thu Anh nhân
định. Bà giải thích rằng, nhìn từ góc độ dịch tễ học, đối với dịch bệnh
nguy hiểm thì điều đầu tiên trong chiến lược phòng chống dịch bệnh là
phải có vắc-xin. Khi một quốc gia chưa có đủ năng lực phát triển vắc-xin
thì phải đi tìm kiếm nguồn cung tiềm năng và “cần phải đặt hàng rất
sớm”. Theo
TS Thu Anh, VN không chỉ chậm trong việc đăng ký mua vắc-xin mà còn chậm
ở nhiều khâu khác: “Chúng
ta chậm trong việc thương thuyết. Khi thương thuyết xong, chúng ta cũng
đã chậm một bước trong việc ký hợp đồng. Và
kể cả khi ký hợp đồng xong, chúng ta cũng chậm trong việc phê duyệt các
vắc-xin ở tại Việt Nam” – TS Thu
Anh phân tích và đơn cử, mặc dù vắc-xin Pfizer được đánh giá là rất hiệu
quả và được nhiều quốc gia phát triển sử dụng nhưng mãi tới tháng
6/2021, Bộ Y tế mới cấp phép cho sử dụng ở VN. Bà
cũng cho rằng VN cũng đã xử lý kém nhanh nhạy trước những thông tin cảnh
báo ngay từ nửa cuối năm ngoái về nguy cơ chương trình COVAX thiếu
vắc-xin. “Chúng
ta đã thành công trong việc đăng ký là một quốc gia nhận vắc-xin qua
chương trình COVAX với 38,9 triệu liều nhưng chúng ta đã hơi chủ quan và
tự tin, tin tưởng vào COVAX Facility. Trong khi đó, vào quý 3 và 4 của
năm 2020, đã có nhưng cảnh báo về việc thiếu vắc-xin cấp cho COVAX
Facility. Mặc dù COVAX Facility, UNICEP và WHO đã thương thuyết với rất
nhiều công ty để họ bán cho COVAX nhưng rõ ràng các công ty và các
quốc gia sản xuất được vắc-xin vẫn ưu tiên bán cho những quốc gia có thể
mua được trực tiếp của họ hơn là bán cho COVAX Facility.”
– bà Thu Anh nói. Bà cũng cho biết, theo báo cáo mới nhất của WHO,
kể cả khi lượng vắc-xin toàn cầu được sản xuất tăng lên rất nhiều thì
chương trình COVAX vẫn chưa thể tự chủ hoàn toàn lượng vắc-xin cung cấp
cho các quốc gia nghèo và những quốc gia có thu nhập trung bình thấp,
trong đó có VN. Nhìn
vào tình hình hiện nay, bà và các đại biểu tham dự tọa đàm đều bày tỏ lo
lằng rằng Việt Nam lại chậm trễ trong việc chuẩn bị triển khai kế hoạch
tiêm chủng trên diện rộng cho 75 triệu dân số trưởng thành. Theo bà, đây
là công việc phức tạp, đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo về nguồn cán bộ tiêm
chủng, khả năng ứng phó trước các biến cố bất lợi trong quá trình tiêm
chủng cũng như các cơ sở vật chất phục vụ việc tiêm chủng rộng khắp trên
toàn quốc.
Không kích hoạt cơ chế về tình trạng khẩn cấp
Ngoài những lý do đã được dư luận xã hội phân tích nhiều như “ngủ quên
trên chiến thắng”, “quá tin tưởng vào chương trình COVAX”…, TS Phạm Duy
Nghĩa, Giám đốc Chương trình Thạc sĩ Chính sách công, Đại học Fulbright
Việt Nam, cho rằng, một nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc chậm mua
được vắc-xin là Việt Nam “chưa kích hoạt cơ chế về tình trạng khẩn cấp”
– một cơ chế đặc biệt mà một số quốc gia đã từng làm trong đại dịch
COVID để trao quyền cho chính phủ thực hiện các chính sách mà thường
không được phép làm nhằm bảo vệ sự an toàn của người dân. Ông cho rằng
trong bối thị trường vắc-xin thế giới có sự chênh lệch cung cầu lớn như
trong thời gian vừa qua, các cơ quan và cá nhân hữu trách của Việt Nam
đã bị “bó chân” khi vẫn phải tuân thủ tuần tự các thủ tục mua sắm công
chặt chẽ của Luật Đấu thầu nên khó có thể ra quyết định nhanh, hành động
nhanh.
“Phải nói rằng bộ máy của các nước hoạt động dựa trên một tình trạng
khẩn cấp (TTKC). Ở VN những gì chúng ta đang chứng kiến về bản chất là
tình trạng khẩn cấp, toàn bộ sự tự do dân sự của người dân bị hạn chế.
Tuy vậy, Pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp lại không được sử dụng, do đó
toàn bộ quá trình sử dụng tiền công để đi đàm phán để mua vắc-xin, toàn
bộ bộ máy vận hành không theo TTKC. Dẫn đến [kết quả] là trong bối cảnh
khẩn cấp mà hành xử như pháp luật bình thường thì làm cho các hành xử và
quyền tự do định đoạt của của các cơ quan quản lý bị hạn chế”
– ông Nghĩa nói và cho rằng hạn chế này đã thể hiện rất rõ trong vụ việc
288.000 liều vắc-xin được công ty VNVC nhập về từ ngày 25/5 nằm mãi
trong kho chưa được mang ra sử dụng, gây bức xúc trong dư luận thời gian
gần đây. Ông giải thích: Công ty VNVC đã tự bỏ tiền đặt mua vắc-xin từ
quý 3/2020, nay Nhà nước muốn mua lại nhưng chưa thể giải ngân được vì
do chưa áp dụng Pháp lệnh về TTKC, mọi mua sắm công không có bất kỳ đặc
cách nào mà vẫn phải tuân thủ các quy định theo Luật
Đấu thầu. Theo đó, để mua lại, Bộ Y tế sẽ cần có sự đồng ý của tất
cả các bộ ngành liên quan cũng như phải có sự phê duyệt của Thủ tướng
theo quy định lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt tại điều 26
của Luật này.
“Mỗi một tình trạng đặc biệt lại cần có sự phê duyệt của ông Thủ tướng
thì khó mà mua được 150 triệu liều vắc-xin. Nếu cứ đúng theo quy trình
hành chính thì rất khó tiêu được tiền công cho các mua sắm có tính khẩn
cấp” - ông nói và gợi ý rằng để DN và
địa phương nhanh chóng mang được vắc-xin về theo lời kêu gọi của Chính
phủ gần đây, nếu VN không áp dụng Pháp lệnh về TTKC thì cần đặt toàn bộ
nền hành chính trong tình trạng báo động như chiến tranh để các những cơ
quan và cá nhân có thẩm quyền “được giải phóng khỏi trách nhiệm pháp
lý” theo quy trình thông thường đồng thời toàn bộ bộ máy Nhà nước
phải hậu thuẫn cho các cơ quan, cá nhân này để đạt được mục tiêu mang
vắc-xin về cho đất nước.
DN và địa phương cùng mua vắc-xin – Quá nhiều rủi ro Theo
các chuyên gia, quyết
định “mở bung” cho phép DN và địa phương tiếp cận và mua vắc-xin
nhằm giải quyết khủng hoảng thiếu vắc-xin trong nước đang đặt Việt Nam
đứng trước hàng loạt rủi ro về chất lượng nguồn vắc-xin mua được cũng
như các thách thức pháp lý. Mặc
dù định hướng mở cửa cho các DN và địa phương có thể tiếp cận
vaccine nhưng do chưa có tiền lệ, khung khổ pháp luật chưa đầy đủ, rõ
ràng nên DN và người lao động có thể sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề
pháp lý. Tôi ví dụ DN có thể mua vắcxin về và tổ chức tiêm nhưng liệu
người lao động có chấp nhận tiêm hay không? Người ta không đồng ý với
vắcxin mà DN cung cấp thì họ quyền từ chối không? Không chấp nhận tiêm
thì anh có quyền sa thải người ta ra khỏi hợp đồng lao động?” – TS Phạm
Duy Nghĩa TS
Nghĩa cho biết điều làm ông lo lắng nhất hiện nay là nguy cơ các DN và
địa phương mua phải vắc-xin kém chất lượng, hết hạn hoặc vắc-xin giả vì
các nhà sản xuất hiện chỉ làm việc với các chính phủ do đó các địa
phương và DN Việt Nam nhiều khả năng chỉ có thể mua được nguồn vắc-xin
dư thừa mà các địa phương ở nước ngoài không sử dụng hết.
“Nguy cơ lớn nhất là sẽ mua được hàng giả, hàng kém chất lượng hoặc hàng
hết hạn. Vắc-xin không phải hàng hóa thông thường mà nó có hạn sử dụng,
ví dụ thời hạn 6 tháng chẳng hạn. Từ khi sản xuất, đến khi vận chuyển
về, người mua thứ nhất đã mất một thời gian rồi. Vì vậy Bộ y tế phải có
quy định rất chặt chẽ cho việc kiểm soát và cấp phép từng lô hàng một”–
TS Nghĩa nói. Ông cũng cho rằng Bộ Y tế cần phải thiết lập một quy trình
giám sát cực kỳ chặt chẽ từ việc nhập khẩu vắc-xin cho đến việc tập huấn
nhân viên y tế cũng như trong quá trình tiêm chủng vì khi 75 triệu người
cùng được tiêm có thể dẫn tới rất nhiều vấn đề và trách nhiệm pháp lý.
“Người dân mong chờ ở nhà nước phải hết sức
chặt chẽ với
tất cả các vắc-xin, không thể tiêm vào người dân vắc-in giả, vắc-xin hết
hạn, không thể tiêm vào người dân với một quy trình sai và không an
toàn. Và nếu xảy ra những vấn đề bất lợi thì người dân phải có quyền đòi
bồi thường từ Nhà nước” – TS Nghĩa
chỉ ra. Ông đồng thời cho rằng Nhà nước không nên mặc định rằng người
dân sẵn sàng chấp nhận rủi ro vì cộng đồng mà cần quan tâm tới quyền tự
do dân sự và bảo vệ sinh mạng của người dân.
Những tình huống như thế này là một phép thử quan trọng về năng lực quản
lý và điều hành của nhà nước đồng thời cũng là phép thử quan trọng về
quyền tự do của người dân cũng như quyền lợi hợp pháp của họ được bảo vệ
như thế nào” - TS. Vũ Thành Tự Anh - Giám đốc Trường Chính sách công &
Quản lý Fulbright
Mua sòng phẳng theo giá thị trường Theo
Bộ Y tế, tính đến đầu tháng 6/2021, Việt Nam đã đặt hàng được 170 triệu
liều vắc-xin nhưng cũng lường trước việc giao hàng có thể sẽ không đầy
đủ, không đúng tiến độ. Theo
TS Nguyễn Xuân Thành, giảng viên cao cấp Đại học Fulbright Việt Nam đồng
thời thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, để sớm có đủ
vắc-xin, Việt Nam cần“mua vắc-xin một cách đàng hoàng theo giá thị
trường”. Ông cho rằng Chính phủ Việt Nam có đủ khả năng tài chính để
mua vắc-xin, do đó cần thay đổi cách tiếp cận và thông điệp cũ rằng
“Việt Nam nghèo và khó khăn nên đề nghị các tổ chức quốc tế, các hãng
dược phẩm hỗ trợ”. “Vừa
rồi Đại hội Đảng nói ta có thế và lực, thế giới người ta cũng biết ta có
tiền nên chúng ta cứ đi xin mua giá rẻ thì người ta không cho. Đương
nhiên chúng ta rất trân trọng hỗ trợ của các quốc gia nhưng để có được
một khối lượng lớn, giờ ta phải có một thông điệp mới khi tiếp cận với
nguồn đó là VN có nguồn lực tài chính và sẵn sàng trả theo giá thị
trường và đó cũng là bài học của các quốc gia thành công trong việc tiêm
chủng diện rộng hiện nay” –
ông nói.
Chứng minh cho luận điểm “Việt Nam có tiền” của mình, TS Thành cho biết
thu ngân sách của Việt Nam đã rất khả quan trong năm 2020.
“Không kể COVID, ngân sách năm ngoái, không những cao hơn năm 2019 mà
còn vượt dự toán thu của năm 2020” –
ông nói và cho biết ngoài việc vượt dự
toán thu khoảng 1,9%, Việt Nam còn tiết kiệm được rất nhiều chi phí
họp hành của Chính phủ do ảnh hưởng của dịch bệnh trong năm 2020. TS
Thành cho biết theo những cuộc đàm phán gần đây, giá vắc-xin về đến cảng
của Việt Nam đã lên tới 30USD/liều. Ông khuyên VN chấp nhận mức giá này
vì “mua rẻ sẽ nhận muộn” và thực tế Israel, quốc gia hiện có tỷ lệ tiêm
chủng đứng đầu thế giới năm ngoái cũng đã phải trả tới 23USD/liều. Thêm
vào đó, tổn thất mà dịch bệnh COVID gây ra đối với nền kinh tế lớn hơn
rất nhiều chi phí mua vắc-xin nên Bộ Tài chính cần xác định “lúc cần chi
thì phải chi” và không nên “tiết kiệm từng đồng”: “Năm ngoái chúng ta kiểm
soát COVID tốt như vậy mà tính toán kinh tế, chúng ta đã thiệt hại tới
15 tỷ USD. Năm nay chắc chắn thiệt hại của đợt bùng phát thứ tư này sẽ
rất lớn so với việc bỏ ra 1 tỷ USD để nhập vắc-xin”. Theo
tôi, trong khủng hoảng từ phía Bộ Tài chính, cơ quan quản lý ngân sách
thì quan điểm vẫn là tiết kiệm tiền. Đáng nhẽ lúc cần phải chi thì không
chi. Ta đã chuẩn bị tiền nhưng thấy có vắcxin miễn phí thì lại tiết kiệm
tiền đi làm việc khác – TS Nguyễn Xuân Thành
Đừng tận thu đối với DN & người dân Cũng
căn cứ từ những nguồn lực nói trên, TS Nguyễn Xuân Thành cho rằng trong
thời gian tới Chính phủ Việt nam không nên tiếp tục huy động tiền của
người dân và DN để mua vắc-xin vì họ đã vốn rất khó khăn vì COVID. Ông
nói: “Trong đợt COVID vừa
rồi, nhìn vào các nước trên thế giới, đa số các nước từ nước giàu
đến nước nghèo, đều thực hiện một chính sách là trong khủng hoảng COVID
thì nhà nước chi thêm tiền cho dân và chi thêm tiền cho DN. Việt Nam của
chúng ta có một cái ngoại lệ là trong COVID là DN và người dân vẫn đóng
tiền cho Nhà nước. Theo tôi, ta không nên tận thu của người dân và DN
nhiều quá. Thời gian tới, Nhà nước nên tiết kiệm từ các khoản chi không
cần thiết để dành cho vấn đề vắc-xin”. TS
Thành nhấn mạnh rằng nguồn tiền mua vắc-xin nên lấy từ ngân sách Nhà
nước và vì người dân đã đóng thuế nên khi thiên tai, địch họa như trường
hợp đại dịch như COVID xảy đến thì Nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp
tiêm vắc-xin với chi phí thấp hoặc miễn phí và theo ông, có làm được như
vậy "mới thể hiện trách nhiệm của nhà nước đối với người dân”. Ông
cũng cho rằng chỉ nên xem việc thành lập Quỹ vắc-xin vừa qua như một nỗ
lực thể hiện sự đồng thuận, chia sẻ của toàn xã hội. Vì dịch bệnh COVID
có thể kéo dài cũng như nhiều dịch bệnh khác có thể xảy đến trong tương
lai nên nguồn tiền từ Quỹ này nên dùng vào mục tiêu dài hơi hơn như nâng
cao năng lực nghiên cứu, phát triển, sản xuất vắc-xin, phát triển cơ sở
hạ tầng và chuỗi cung ứng đi kèm, từ đó cải thiện khả năng tự chủ
vắc-xin của Việt Nam. |